Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phật Thuyết Kinh Hương Giới Đức

18 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 14569)
Phật Thuyết Kinh Hương Giới Đức

HƯƠNG GIỚI ĐỨC KINH

 

Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0116 - Nguyên tác Hán ngữ [1]

Hán dịch: Đông Tấn – Tam Tạng Pháp Sư Đàm Vô Lang

Việt dịch: Thích Nữ Như Tuyết - Chùa Vạn Thạnh

Chứng nghĩa: HT Thích Đổng Minh, Thích Tâm Hạnh

 


Tôi nghe như vầy; một hôm Đức Phật du hóa tại vườn ông Cấp Cô Độc, rừng cây Thái tử Kỳ Đà, nước Xá Vệ.

Lúc ấy, Hiền giả A Nan một mình ở nơi yên tĩnh suy nghĩ; ở đời có ba loại hương: Một là hương của rễ, hai là hương của cây, ba là hương của hoa. Ba loại hương này bay theo chiều gió, không thể bay ngược lại. Có loại hương nào vừa bay theo gió, vừa bay ngược gió hay không ?

Hiền giả A Nan một mình ở nơi yên tĩnh trầm tư suy nghĩ không sao hiểu được ý nghĩa, Ngài liền từ chỗ ngồi đứng dậy đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân hồ quỳ chắp tay bạch Phật rằng : “ Con ngồi một mình suy nghĩ, ở đời có ba loại hương: Một là hương của rễ; hai là hương của cây; ba là hương của hoa. Ba loại hương này bay theo chiều gió, không thể bay ngược gió, con không hiểu có loại hương nào vừa bay theo gió, vừa bay ngược gió hay không ?”

Đức Phật bảo Ngài A Nan : Lành thay, lành thay ! Thật đúng như lời ông hỏi, có loại hương vừa bay thuận gió cũng vừa bay ngược gió.

Ngài A Nan bạch Phật, con muốn nghe về mùi hương đó.

Đức Phật dạy : “ Nếu ở nơi quốc độ, thành ấp thôn lạc, có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào, tu hành mười điều thiện : Thân không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm. Miệng không nói vọng, nói hai lưỡi, nói lời hung ác, nói lời thêu dệt. Ý không tật đố, sân hận, si mê, biết hiếu thuận với cha mẹ, phụng sự Tam Bảo, nhân từ đạo đức, oai nghi tiết hạnh. Ở phương Đông có vô số vị sa môn, phạm chí ca ngợi đức ấy. Ở phương Nam, Tây, Bắc, bốn hướng phương trên, phương dưới cũng có vô số vị sa môn, phạm chí ca ngợi đức ấy như vầy. Hoặc ở nơi quốc độ thành ấp thôn lạc nào đó, cũng có thiện nam, thiện nữ nhơn thực hành mười điều thiện, biết tôn kính phụng trì Tam Bảo, nhân từ hiếu thuận, ân nghĩa đạo đức, không mất lễ tiết. Đây là loại hương vừa bay thuận gió vừa ngược gió bay khắp cả, tỏa chiếu mười phưong hết thảy đều được nương nhờ.”

Đức Phật Liền nói kệ :

Hoa tuy thơm và đẹp

Không thể bay ngược gió

Dẫu là hoa chiên đàn

Mùi hương hơn tất cả.

Đức tánh người hòa nhã

Gọi là hương ngược gió.

Bồ Tát gọi trượng phu

Bay khắp cả mười phương

Gỗ thơmchiên đàn

Mùi thơm hoa sen xanh

Hết thảy các mùi hương

Giới hương là hơn hết.

Ấy là giới thanh tịnh

Hành trì không phóng dật

Không theo đường của ma

Không thấy chổ hướng về

Con đường đến Niết Bàn

Đường này là hơn hết.

Đoạn trừ gốc uế trược

Phá tan hết lưới ma

Tiến đến thành Phật đạo

Đạt trí tuệ vô cùng

Vì vậy nghĩa hương này

Dứt trừ mọi xấu ác.

Lúa ấy Đức Phật bảo Ngài A Nan: “Loại hương này không bị núi Tu Di hay trời đất ngăn cản, cũng không bị bốn đại là đất, nước, gió, lửa cản trở thông suốt cả tám hướng, trên dưới khắp mọi cảnh giới đều ca ngợi đức ấy đó là: Người không sát sanh, sẽ đời đời được trường thọ, không bị chết yểu. Người không trộm cắp, đời đời giàu có, không bị hao tài tốn của, lấy việc bố thí làm chính. Người không tà dâm, không xâm phạm vợ người, được sanh ra từ hoa sen. Người không vọng ngữ, thường nói lời tốt đẹp, hơi miệng thường thoảng ra mùi thơm, được người tin dùng; không nói hai lưỡi, trong gia đình được hòa thuận, không ly tán; không nói lời hung ác thưòng nói lời hòa nhã lưu loát; không nói lời thêu dệt, khiến mọi người nghe lời nói ấy đều thọ nhận dùng làm trân báu. Người không tật đố đời đời sanh ra được mọi ngườI tôn kính. Người không sân nhuế đời đời được thân hình xinh đẹp, được người thấy sinh tâm vui vẻ. Người trừ bỏ ngu si, đời đời sinh ra có đầy đủ trí huệ được mọi người học hỏi, xả bỏ tà kiến thường sống trong chánh đạo, từ chổ tu hành chứng đắc tự nhiên phát sanh, dứt bỏ tà đạo, tu theo giáo pháp chơn thánh vi diệu”.

Lúc ấy các vị tỳ kheo nghe Đức Phật dạy xong, hoan hỷ đảnh lễ rồi lui ra.

Kinh Đức Phật Nói Về Hương Giới Đức

 

Mùa AN CƯ năm ĐINH SỬU

Tỳ kheo ni NHƯ TUYẾT

Ý kiến bạn đọc
19 Tháng Bảy 201402:43
Khách
muốn được tải Kinh Ương-quật-ma-la, Hán dịch dời lưu-tấn, Tam Tạng Pháp Sư Cầu-na Bạt-đà-la
19 Tháng Bảy 201402:41
Khách
Mô Phật.
Xin dược tải và xem Kinh Ương-quật-ma-la, Hán dịch dời lưu-tấn, Tam Tạng Pháp Sư Cầu-na Bạt-đà-la
để tham khảo thêm.
Xin trân trọng cám ơn!!!
A Di Đà Phật
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12655)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12611)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11667)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11654)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12235)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12256)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19692)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11879)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11907)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16735)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12575)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 14949)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 15985)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12767)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12141)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11806)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11843)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13048)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16422)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13148)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12391)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11734)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19739)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11071)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11182)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10317)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11015)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10886)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 9953)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11660)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
(Xem: 11540)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11865)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11036)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11251)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11979)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12459)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10671)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17865)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11625)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9853)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 11133)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 13047)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 16422)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 11730)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10808)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 11749)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 28682)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12257)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 52697)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35368)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 15960)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 12106)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12190)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 11298)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17021)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14829)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 14524)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13748)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11631)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 14938)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant