Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Phật Ngũ Bách Đệ Tử Tự Thuyết Bổn Khởi

21 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 14869)
Kinh Phật Ngũ Bách Đệ Tử Tự Thuyết Bổn Khởi


Kinh Phật Ngũ Bách Đệ Tử Tự Thuyết Bổn Khởi

NĂM TRĂM ÐỆ TỬ TỰ NÓI VỀ BỔN KHỞI (KIẾP TRƯỚC)


Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bản Duyên, Kinh số 0199

Nguyên tác Hán ngữ [1]

- Hán dịch: Tây Tấn, Tam Tạng Trúc Pháp Hộ

 - Việt dịch: Thích Chánh Lạc

---o0o--- 
 

A-nậu-đạt Long vương ( Nước Tần gọi là Vô Phàn). Khi Ðức Phật còn tại thế dẫn các Bồ Tát có đức thần dõng mãnh đến núi Côn Lôn, nơi điện báu cung quán của con rồng này. Nguồn gốc của năm con sông bắt nguồn từ đấy. Nơi ấy có ao nước tám vị có hoa bảy màu. Nếu ai muốn nước đó liền biết đựơc kiếp trước.

Bấy giờ Long vương thỉnh Ðức Phật Thế Tôn cùng năm trăm đệ tử thượng thủ của Ngài đến thọ thực xong, ngồi trên tòa Liên Hoa, truy giảng những điều tội phước đã tạo ở kiếp trước. Tất cả đều do những hành động rất nhỏ, chuyển thọ báo ứng, trải qua nhiều đời nhiều kiếp, không thể tự tế độ được, phải nhờ gặp bậc Chánh giác mới có thể độ thoát. Mỗi vị đề tự soạn bài ca để làm kệ tụng.

1. Phẩm đại Ca-diếp (19 bài kệ)

Phật là vô pháp chốn nhơn gian

Chặt đức dây đan về Xá Lợi

Các căn tịch định đức uy nghiêm

Như Lai tự bảo các Tỳ-kheo

Có các qủy thần để vui thích

Cùng các thứ hoa vô số loại

Bốn dòng nước phun về bốn hướng

Các dòng nước chảy ra sông biển

Tư-đầu-na-đề Bá-sư-tử

Người không thể đến thần túc đến

Bay lướt thật nhanh bèn vượt qua

Cùng đến vực sâu, suối chảy ấy

Tỳ-kheo Thiện Duy vâng lời Phật

Ðại thông, an trụ, đệ tử đầu

Nghe lời Phật dạy lương thần túc

Thí như nhạn chúa dẫn bầy nhạn

Bay lên bầu trời chơi sông biển

Ngắm xem đồng loại cùng vui thích

Phật-trời trông trời cũng vậy thôi.

Cùng các đệ tử bay thỏa thích

Phật bèn bảo các đệ tử rằng:

“Nên biết đời trước chỗ trải qua

Hãy nói ta nghe đã làm gì

Mà được phước đức không kể xiết”

Ðệ tử Phật là ngài Ca-diếp

Giống như sư tử dạo núi sâu

Các kiếp trải qua không dám giấu

Nên nói việc làm các đời trước

“Nhặt được tổ yến và lúa mạch

Dâng cúng Phật-bích-chi chút ít

Tâm vui giải thoát không còn lậu

Dâng cúng không hành ý tịch tịnh

Khi ấy tâm niệm có nguyện này

Liền đó suy tư nơi thượng pháp

Cùng người như vậy hội một nơi”

Khi mạng chung, sanh Uất-đơn-việt

Nhờ nhân duyên ấy phước mới đến

Sanh Uất-đơn-việt cả ngàn lần,

Sau đó sanh nơi trời Thắng Mạng

Thân hình tuyệt đẹp không ai bằng

Tôi nhờ phước ấy tạo ra đức

Lại được ngàn lần sanh Ðao-lợi,

Thân đeo các hoa, hương, ngọc quý,

Thân đẹp vi diệu, được tự tại

Khi hết mạng sống ở trên trời

Lại được sanh nơi Uất-đơn-việt

Bởi vì đời trước nguyện như vậy

Do nhờ nhơn duyên phước đức ấy

Sanh nhà giàu có, giòng Phạm chí

Tài sản sự nghiệp vô số kể

Sống trong ngũ dục mà không tham

Ðối với dp không ai bằng

Lòng thương bao la giảng kinh pháp

Chủ lực nhất tâm định các căn

Thất-giác-chi, Tám-đạo-hạnh

Nhờ đã được nơi pháp này

Liền hết các lậu, tay cầm đuốc

Cùng câu hội chúng này lần cuối

Hợp nhau thành chánh thẳng lìa tà

Dp Như Lai thật khéo nói

Trọng người giữ giới được đắc chí

Những điều mong ước đều toại nguyện

Rốt cuộc thân sau được đủ đầy

Viễn ly sanh tử từ căn cội

Ái kết từ đây vĩnh viễn trừ

Chính là vương tử trong pháp Phật

Biết dừng biết đủ thường suy nghĩ

Thanh tịnh trong tâm chẳng đắm suy

Ý chí vững bền, không lay chuyển

Giống như núi lớn chẳng động lay

Như vậy Ðức Ca-diếp

Trong các Tỳ-kheo Tăng

Ao lớn A-nậu-đạt

Tự nói phước duyên trước. 

2. PHẨM XÁ LỢI PHẤT (12 bài kệ)

Là tiên sống nhàn cư

Nơi đó thấy Sa-môn

Phật-bích-chi tôn qúy

Thân mặc áo chằm vá

Thấy Ngài tâm hoan hỉ

Ðang giặt giũ y phục

Lại mặc ca sa

Luôn luôn đảnh lễ Ngài

Nên Ngài thương xót tôi

Bay lên trên hư không

Trên dưới phun lửa nước

Phút chốc liền biến mất

Tức thì tôi chắp tay

Tự tâm phát nguyện rằng:

“Khiến con được như vầy

Thông minh, trí tuệ lớn

Chớ sanh nhà hào qúy

Không sanh loại nghèo hèn

Thường sanh nhà bậc trung

Chí nguyện làm Sa-môn”.

Bởi nhờ công đức này

Nên suốt năm trăm đời

Thường làm được thân người

Ðời đời làm Sa-môn

Nay là đời cuối cùng

Lại được làm thân người

Nhờ được thấy chánh giác

Ðạo sư không ai bằng

Nên được làm sm

Ở chỗ sư tử Thích

Thành tựu A-la-hán

Thanh lươngdiệt độ

Nay ở trước Thế Tôn

Trong chúng Tỳ-kheo Tăng

Cho con trí bậc nhất

Chuyển bánh xe chánh pháp

Xá-lợi-phất trí tuệ

Ở trước chúng Tỳ-kheo

Ao lớn A-nậu-đạt

Tự nói kiếp trước mình.

 

3. PHẨM MA-HA MỤC-KIỀN-LIÊN (15 bài kệ)

Tôi là Tiên, nhàn cư

Sống ở giữa rừng cây

Nơi đó, có người đến

Xin tôi làm Sa-môn

Tôi cạo râu tóc họ

Rồi lại giặt y phục

Chằm vá rồi lại nhuộm

Trong lòng tự hoan hỷ

Vị ấy lui một chỗ

Ngồi kiết già nghiêm chỉnh

Liền chứng Bích-chi-phật

Bèn bay lên hư không

Lúc đó tôi phát nguyện:

“Mong mình được thần túc

Khiến tôi được như vậy

Ðại lực đại thần túc

Bởi nhờ phước đức ấy

Nơi nơi chỗ sanh ra

Trên trờiloài người

Rực sáng nơi tạo phước

Nay là đời cuối cùng

Lại được làm thân người

Nhờ được thấy chánh giác

Ðạo sư không ai bằng

Nên mới làm Sa-môn

Ở nơi Thích sư- tử

Liền thành A-la-hán

Thanh lươngdiệt độ

Ðã làm ít điều thiện

Ðược vô lượng an ổn

Tôi lại làm điều ác

Nay, nói đại chúng nghe

Phía Ðông La-duyệt-kỳ

Sanh làm Tôn-giả-tử

Ra ngoài mà dạo chơi

Người nhà cầu uống ăn

Liền thấy cha mẹ chúng

Hai người cùng vui chơi

Thấy rồi họ đánh ta

Chửi mắng và đuổi theo

Chỉ cần sống chánh mạng

Nhưng ta lại không làm

Nên đọa ngục Hắc Thằng

Thọ khổ nhiều vô số

Tai ương xưa còn xót

Bây giờ đời cuối cùng

Bị ngoại đạo dị học

Ðánh ta nhừ như cỏ

Ta gánh lấy tội lỗi

Mạng chung rồi diệt độ

Xưa đã tạo dư ương

Bây giờ mới diệt hết

Cho nên phải vui lòng

Chí hiếu nhờ Cha Mẹ

Nhờ tâm hoan hỷ này

Người được lên Thắng Thiện

Như vậy Câu Luật Tôn

Ở trong chúng Tỳ-kheo

Ao lớn A-nậu-đạt

Tự nói nhân duyên trước

 

4. PHẨM LUÂN ÐỀ ÐÀ ( Tịnh Trừ 17 bài kệ

Xưa tôi đi đến chùa

Thấy đất chùa không sạch

Bèn cầm lấy cây chổi

Quét sạch nền đất chùa

Lại thấy chùa thanh tịnh

Trong lòng rất vui sướng

Khiến tôi không trần cấu

Sạch như đất chùa này

Bởi nhờ công đức ấy

Bất cứ sanh ở đâu

Nhan sắc đẹp hòa duyệt

Ðoan chánh không ai bằng

Nhờ phước xưa sót lại

Nay là đời cuối cùng

Cha Mẹ đặt tên tôi

Gọi là Vi Tịnh Trừ

Tôi ở trong thân tộc

Lúc sống cũng thanh tịnh

Ðược mọi người ái kính

Nhìn mãi không thấy chán

Nhờ gặp được chánh giác

Ðạo sư không ai bằng

Nên thành A-la-hán

Thanh Lươngdiệt độ

Tôi nhờ chí nguyện ấy

Khiến tôi không bụi trần

Nay La Hán không nhỏ

Vô lậu, việc đã xong

Giả như quét sạch hết

Khắp thiên hạ sạch trong

Không bằng lìa ái dục

Quét dọn chỗ kinh thành

Như quét sạch thiên hạ

Chỗ đạo nhân kinh thành

Không bằng tứ phương tăng

Quét sạch một tấc đất

Giả như quét dọn sạch

Tinh xá khắp thiên hạ

Không bằng nơi chùa Phật

Quét sạch một tấc đất

Thân tôiđã làm phước

Nhờ đó biết kỳ diệu

Ngay khi quát chùa Phật

Trong lòng rất hân hoan

Lấy đó mà hiểu biết

Ðẳng giác đạo đức cao

Nên cúng thờ chùa Phật

Ðược phước đức vô lượng

Nay tôi tự nhớ rằng

Xưa đã từng làm thiện

Mới đưa đến quả thật

Khả ý, an ổn lạc

Cho nên với chùa Phật

Khéo tịnh tâm cúng dường

Nhân giả đó đệ nhất

Phước điền không ai bằng

Bây giờ hay cúng dường

Ðược an ổn vô lượng

Nhằm phá hoại trừ bỏ

Tất cả dâm nộ si

Không khinh, vu khống tâm

Ðược phước đức đâu ít

Hưởng Như Lai chánh giác

Và các đệ tử Phật

Như vậy Luân Ðề Ðà

Ở trước các Tỳ-kheo

Suối lớn A-nậu-đạt

Tự nói nhân kiếp trước

 

 5. PHẨM TU MAN (Thiện niệm 14 bài kệ)

Ngày xưa tôi đi dạo

Cùng với các thân hữu

Trên đầu đội vòng hoa

Tai đeo hoa Tu Man

Phật Duy Vệ thần thông

Làm chùa lớn tại đó

Xa thấy các dường dân

Cùng đến để phụng sự

Thân hữu đều đến đó

Ðồng mang các hoa đẹp

Ðều đem tâm thanh tịnh

Cúng rải hoa chùa Phật

Tôi thấy họ rộng thí

Cũng lại mới phát tâm

Liền lấy hoa trong rừng

Ðem cúng trên chùa Phật

Lúc sống không đọa lạc

Lên trời, xuống làm người

Nhờ gốc đức này vậy

Ðã làm thiện thấy rõ

Sau gặp Ðẳng Chánh Giác

Bậc Ðạo sư Vô thượng

Chứng quả A-la-hán

Thanh lương được diệt độ

Chỉ cúng một hoa thôi

Liền được trăm ngàn năm

Tự vui sướng cõi trời

Phước dư được Nê hoàn (Niết bàn)

Giả như tôi biết được

Công đức Phật vô lượng

Liền xây dựng tháp chùa

Phước ấy không tính được

Chư thiên tâm hoan hỷ

Phước ấy vẫn còn nhỏ

Như Lai Ðẳng Chánh Giác

đệ tử chư Phật

Chỉ tôi nhớ việc này

Thân đã làm công đức

Nay tôi được thật quả

Khả ý, vui, an ổn

Nhờ việc đã làm này

Cuối cùng dứt sanh tử

Vô lậu, vô sở trước

Thanh lương được diệt độ

Ðã chấm dứt năm đường

Không còn vào bào thai

Ðây là đời cuối cùng

Không còn sanh trở lại

Giải thoát gốc sanh tử

Ðã vượt qua biển Hữu

Nay tôi vì chuyện này

Ðược gọi là Tu Man

Khi trưởng giả Tu Man

Hội ở trong Tăng chúng

Trong ao A-nậu-đạt

Tự nói việc làm xưa.

 

6. PHẨM LUÂN LUẬN (Nghe rõ 11 bài kệ)

Lúc thời Phật Duy Vệ

Trong nước Bát Ðầu Ma

Vốn vì bốn phương Tăng

Tạo lập một phòng thất

Thêm vào giường, ngọa cụ

Ðều đem để bố thí

Ðã đem tâm hoan hỷ

Lúc đó phát nguyện rằng

“Tôi thấy Ðẳng Cháng Giác

Mong được làm Sa-môn

Ðược Vô vi Vô thượng

Thanh lương chánh diệt độ

Nhờ gốc công đức này

Chín mốt kiếp an ổn

Ðã được thấy tự nhiên

cõi trời, thế gian

Phước công đức còn dư

Nay là đời cuối cùng

Sanh trưởng giả quyền thế

Kiêu, qúi, không anh em

Ðược cha mình kính mến

Liền nhe lời dạy dỗ

Ông đem con cho ngài

Vô số ức kho báu

Dưới châm mọc lông lạ

Tự nhiên dài bốn tấc

Thân thể đẹp nhu nhuyến

An ổn được vô hại

Chín mươi kiếp quá khứ

Tất cả đều như nhau

Thân tôi không suy nghĩ

Khi giở chân đạp đất

Nay là đời cuối cùng

Lại được làm thân người

Thành tựu vô sở trước

Thanh lươngdiệt độ

Phật rộng tuyên bố tôi:

Bậc tinh tấn đệ nhất

Giải thoát hết các lậu 

Ðã được câu “Bất Ðộng” 

Như vậy giòn Câu Lê

Ở ngay giữa chúng Tăng

Trong ao A-nậu-đạt

Tự nói công đức xưa.

 

 

7. PHẨM PHÀM KỲ (Thủ Thiện 8 bài kệ)

Tôi không rõ phước đức

Vốn cũng không biết nghĩa

Thấy chùa Phật duy Vệ

Cúng dườngphụng thờ

Chùa vàng sắc đỏ tía

Phan lọng bằng hương hoa

Thấy cúng dường chùa tháp

Mà được sanh cõi lành

Thường ở trong trời, người

Chỗ làm được chiếu soi

Trải qua chín mốt kiếp

Chưa từng vào đường ác

Làm chút ít công đức

Ðược an lạc rất nhiều

Ðã được không chỗ chấp

Diệt độthanh lương

Giả sử tôi biết được

Công đức Phật như vậy

Thường cúng dường chùa tháp

Sẽ được phước nhiều hơn

Cho nên phải biết rõ

Chánh giác, đức rộng lớn

Nên cúng dường chùa tháp

Phước đức sẽ vô cùng

Phật thấy khắp bảo con

Bậc kính nhạc đệ nhất

Ða văn rất nhiều loại

Hiện tại đức chí lớn

Khi trưởng giả Phàm Kỳ

Ðã ở trong tăng chúng

Tại ao A-nậu-đạt

Tự nói việc làm xưa.

 

 

8. PHẨM TÂN ÐẦU LÔ (Khất Bế môn 11 bài kệ)

Tôi vốn nhờ cha mẹ

Sanh làm con quý tử

Cung kính thờ cha mình

hiếu dưỡng với mẹ

Song thân và em gái

Nô tỳ và người ở

Tôi nói với cha mẹ:

“Ăn uống đúng thời tiết”

Khi khởi ý tham, ghét

Không ăn của cha mẹ

Vì tức giận hủy báng

Ðể được của phạn thực

Vì làm tội ác này

Ðọa địa ngục Thái Sơn

Ngục Hắc Hoằng thiêu đốt

Chịu khổ nhiều vô số

Từ địa ngục đi ra

Ðời đời sanh ở đâu

Thường đói khát dữ dội

Cần khổchết đói

Nay là đời cuối cùng

Lại được làm thân người

Ðược gặp Ðẳng Chánh Giác

Ðạo sư không ai bằng

Ở chỗ Thích sư tử

Lặng lẽ tâm thanh tịnh

Thành bậc Vô trước đạo

Thanh lươngdiệt độ

Nhờ đó, tôi bây giờ

Thần túc hay phi hành

Lại vào trong hang nhỏ

Thì mới được ăn uống

Cho nên phải hoan hỷ

Cúng dường cho cha mẹ

Một lòng cuối đầu lạy

Ðược phước nhiều vô lượng

Nhờ đó tôi nhớ nghĩ

Bỏ ác hạnh đã làm

Phải thọ nhân đã gieo

Tội, phước không thể mất

Tân Ðầu Lô đóng cửa

Khi hội trong Tăng chúng

Tại ao A-nậu-đạt

Tự nói làm việc xưa.

 

 

9. PHẨM HÓA KIỆT (Thiện Lai- 21 bài kệ)

Xưa tôi con trưởng giả

Tại nước Bàn Ðầu Ma

Giòn họ nhiều của cải

quyến thuộc vây quanh

Bao vậy ở bên vua

Khoái lạc vô cùng tận

Ðoan chánh ai cũng thích

Sắc mặt đẹp vô cùng

Khi tôi chuẩn bị đi

Kẻ hộ tống trước sau

Muốn đi dạo ngắm cảnh

Cùng với các thế nữ

Khi đến nơi ngắm cảnh

Thấy tướng Sa-môn tịnh

Tuân hành nghĩa an tịnh

Thân mặc y chằm đỏ

Khi tôi thấy Sa-môn

Liền phát khởi ác ý

Giận ghét hình dáng ấy

Lòng bực bội không vui

Vì sao cạo râu tóc

Nhan sắc đen xấu xí

Thân thể ghẻ, mụt nhọt

Thân tâm đều ốm yếu

Do vậy đã tạo tội

Miệng tôi nói lời ác

Tại đó, sau khi chết

Liền đọa trong địa ngục

Từ ngục được thoát ra

Nhan sắc đen, xấu xí

Thân thể ghẻ, ung thư

Thân tâm đều ốm yếu

Cầm chén bể xin ăn

Mặc y người chết vất

Mặc áo rách thô xấu

Chỗ ở không yên ổn

Muốn đi đến nơi nào

Xin ăn cho đỡ đói

Bị gậy đánh xua đuổi

Bị người ghét, hủy nhục

Như vậy năm trăm năm

Bất cứ sanh ở đâu

Bị đói khát cùng khốn

Cần khổchết đói

Khi gặp bậc Chánh Giác

Tỳ-kheo Tăng vây quanh

Cùng đại chúng câu hội

Liền nhanh chân chạy đến

Ý muốn vào trong chúng

Hy vọng ăn uống no

Ðến thấy đại chúng hội

Ðều ngồi muốn nhe pháp

Nhưng không đạt bổn nguyện

Chẳng ai cho ăn uống

Ðại đức Trí thương xót

Như Lai mới bảo rằng:

Nhơn giả, khéo đến đây

Hãy ngồi vào tòa này

Bấy giờ tôi vui sướng

Nên một lòng chấp tay

Lạy dưới chân Thế Tôn

Rồi ngồi qua một bên

Bấy giờ Ðại Tôn thương

Cù Ðàm rất từ bi

Thứ lớp phân biệt dạy

Vì tôi giảng Tứ Ðế

Năng nhân cạo râu tóc

Nhờ đó thấy dấu đạo

Phật dạy hạnh Tịch-trí

Tại đó được thần thông

Do đó mới có hiệu

Ðặt tên là Thái Kiệt

Nhờ vậy Phật nói tôi

Bậc Chánh Thọ (Chánh định) đệ nhất

Phật Ðại tôn dũng mãnh

Thế hùng, Bậc tối thắng

Thần thông thật vô lượng

Ðộ tôi thoát các khổ

Khéo đến Phật như vậy

Khi ở trong chúng Tăng

Tại ao A-nậu-đạt

Tự nói việc làm xưa.

 

 

10. PHẨM NAN ÐÀ (Hân Lạc 12 bài kệ)

Ðông thành nước Vương xá

Từng là phú tôn giả

Gặp phải lúc đói kém

đại sĩ đến đây

Khi tôi đang ngồi ăn

đạo sĩ đẹp đến

Hoại phá bậc duyên giác

Ðược vô lậu, tự tại

Hưng khởi ý tham, ghét

Tâm chí chứa độc ác

Nay Tỳ-kheo này đến

Lẽ nào cũng như vậy

Bấy giờ thọ ăn uống

Trộn cơm với lúa ngựa

Ðạo nhân khi ăn xong

Mạng chung ngay tức khắc

Sau khi tôi mạng chung

Mại đọa trong địa ngục

Hội nhau cùng kêu la

Ðời đời bị chưng nấu

Từ địa ngục ra khỏi

Trở lại làm thân người

Thân thường nhiều bệnh tật

Buồn khổ mà mạng chung

Năm trăm đời như vậy

Bất cứ sanh ở đâu

Thường tai ách đau khổ

Áo não mà qua đời

Nay là đời cuối cùng

Ðã được sanh làm người

Lại gặp Bậc Chánh Giác

Ðạo sư không ai bằng

Xuất gia làm Sa-môn

Thọ pháp Thích Sư Tử

Ðã được đạo La hán

Thanh lương rồi diệt độ 

Tôi lúc ấy, Nhân giả

Ðược thần túc vô lậu

Thân thể nhiều tật bệnh

Chổ ở không an ổn

Bây giờ nhớ nghĩ lại

Tôi vốn đã hành động

Phải gặt lấy quả báo

Tội, phước không thể mất

Như vậy, Ngài Nan Ðà

Ở trong chúng Tỳ-kheo

Tại ao A-nậu-đạt

Tự nói việc làm xưa.

 

 

11. PHẨM DẠ DA (Danh văn- 26 bài kệ)

Xưa có một đạo nhân

Vào xóm làng khất thực

Thếy người nữ bị chết

Sình xanh rất hôi thối

Ngài kiết già phu tọa

Quán thấy sự vô thường

Xét rõ toàn bất tịnh

Một lòng học định tâm

Liền ngay trên chỗ ngồi

âm thanh tinh tế

Nghe tiếng mà hãi hùng

Cũng từ một tâm khởi

Thấy bụng tử thi vỡ

Hiện toàn đồ bất tịnh

Các lỗ hổng chảy ra

Hôi thối không chịu nổi

Thấy trường, vị, ngũ tạng

Tim gan đều tan nát

Biết bao nhiêu là trùng

Quán xong tâm lại tịnh

Xem thân chết bên ngoài

Quán soi lại thân mình

Người vậy, ta nào khác?

Thấy thân vốn hư ngụy

Từ Tam muội đứng dậy

Tu hành không giãi đãi

Cũng không đi khất thực

Cũng không nghĩ uống ăn

Nếu tôi vào xóm làng

Ðể đi xin thức ăn

Tuy thấy sắc xinh đẹp

Thường quán thấy bất tịnh

Xem các hình sắc kia

Như người chết không khác

Thấy nó vốn bại hoại

Tất cả chẳng gì vui

Tôi suy tư như vậy

Mà được lìa ái dục

Phụng thờ bốn phạm hạnh

Xét kỹ không coi thường

Ở đó, sau mạng chung

Liền được sanh Phạm- thiên

Phạm Thiên mạng chung

Sanh xuống Ba-la-nại

Nhà trưởng giả quyền thế

Làm con trưởng giả ấy

Ai thấy cũng kính mến

Chánh thọ, độ vô cùng

Suốt ngày thường tu hành

Buổi tối không ngủ nghĩ

Thấy tất cả người nữ

Ðều xem đồ hôi thối

Kẻ gối trống nằm ngủ

Ca sĩ cầm không hầu

Ðồ kỷ nhạc ngổn ngang

Mộng tưởng, làm, nói, mơ

Nơi đó, về suy nghĩ

Xưa vốn làm công đức

Tưởng, thức chỗ bất tịnh

Ðời trước đã trải qua

Vừa quán thấy vậy rồi

Chí cầu ý vô dục

Lúc đó bị bức bách

Nhân giả, tôi bỏ đi

Liền từ sàng tọa dậy

Xuống điện trốn bỏ chạy

Chư Thiên thương xót tôi

Cánh cửa tự mở ra

Tôi liền ra khỏi thành

Ði đến bên giòng nước

Xa trông bờ bên kia

Thấy Sa-môn tịch tịnh

Lại thấy Ðại Tịch Chí

Cất tiếng kêu thật lớn

Bảo rằng tôi cùng khốn

Thần thông tôi xả dục

Tiếng Thế Tôn thâm diệu

Vì tiếng tôi cay đắng

Ðồng tử đến chẳng sợ

Ở đó không cùng ách

Tâm bỏ các khổ não

Liền vượt đến bờ kia

Ði đến chỗ đại bi

Thế Tôn không ai bằng

Tuyệt diệu, khó sánh kịp

Thí như người đói khát 

Lại hiểu biết nghĩa này

Liền hiểu biết nghĩa ấy

Nhờ ngài thấy Ðạo đế

Theo Phật cầu xuất gia

Cù Ðàm đại từ bi

Cho tôi làm Sa-môn

Tức thời trong một đêm

Cho đến lúc sáng sớm

Chấm dứt hết các lậu

Thanh lương được diệt độ

Ðó là đời trước tôi

Ðã làm thiện hạnh này

Nay là đời cuối cùng

Tôi được dấu cam lồ

Như vậy Hiền Dạ Da

Tôn giả tử thần thông

Tại ao A-nậu-đạt

Tự nói việc làm xưa.

 

12. PHẨM THI LỢI LA (20 bài kệ)

Xưa, thành Ba-la-nại

Phật Ca-diếp Nê Hoàn

Vua Cơ Duy dựng tháp

To lớn bằng thất bảo

Khi vua đang xâu tháp

Có tối đại Thái tử

Lúc đó vì tôn Phật

Tôi xây tháp bậc nhất

Bởi nhờ công đức này

Ðời đời sanh chỗ nào

Tại Thiên thượng, nhân gian

Thấy phước ấy rõ ràng

Nơi nơi sanh ở đâu

Giàu có nhất trong nước

Của cải nhiều vô cùng

Thường thích bố thí lớn

Tôi suốt năm trăm năm

Huệ thí, không tham tiếc

Cung cấp cho thường dân

Tịch Chí và Phạm Chí

Nhờ việc làm Nhất giác (Giác ngộ)

 Lìa ái dục vô lậu

Tâm thanh tịnh hoan hỷ

Cúng dường năm trăm chúng

Bởi nhờ công đức này

Tại đây đời cuối cùng

Sanh họ Thích, thế lực

Ðúng thời, miệng tuyên thuyết

Trong nhà có của báu

Tiền tài và vật dụng

Tôi đem cho tất cả

Cứu các nngười bần cùng

Tôi cho không mệt mỏi

Cứu tế kẻ thấp hèn

Tin làm lành, báo đáp

Huống chi hay bố thí

Trong nhà nghe tôi nói

Buốn lo và hoảng hốt

Bỏ chạy khắp tám phương

Nhũ mẫu cũng lánh mặt

Mẹ tôi vì ân ái

Liền mới bảo tôi rằng:

“Là Trời, người, quỷ thần”

Sao nói lời quái dị?

Lúc đó tôi liền thưa:

“Con là người chẳng qủy

Biết kiếp trước bố thí

Ưa thích thấy người cho”

Khi mẹ nghe lời ấy

Vui mừng chẳng sợ hãi

Bà hứa khuyến trợ tôi

Rộng tâm mà bố thí

Trong nhà nhiều quyến thuộc

Mẹ bảo cúng dường tôi

Ðược mọi người kính yêu

Ai thấy cũng hoan hỷ

Lúc đó tôi mới sanh

Trong nhà liền hưng thạnh

Nhờ vậy các Tịch Chí

Gọi tôi: Thi Lợi La

Ở đó liền bố thí

Cấp dưỡng các người nghèo

Khi gặp bậc Chánh Giác

Liền bỏ nhà học đạo

Mới sanh nhà hưng thịnh

Chạm đất liền biết nói

Cho nên gọi Thi Lợi

Tiếng tăm ai cũng biết

Sanh ra chẳng tham lam

Cũng chẳng có sợ hãi

Nhờ tín xuất gia học

Ðủ tất cả thần thông

Ðược quốc chủ khâm phục

Vị Ðại thần, nhân dân

Ðược cúng nhiều y thực

Sàng tọa, các an ổn

Như vậy Thi Lợi La

Ở trong Tỳ-kheo Tăng

Tại ao A-nậu-đạt

Tự nói việc đời trước.

 

 

13. PHẨM BẠT CÂU LÔ (Họ Cố- 12 bài kệ)

Xưa tôi từng bán thuốc

Ở nước Bàn Ðầu Ma

Ngay đời Phật Duy Vệ

Kính cá Tỳ-kheo Tăng

Khi có người ốm đau

Ðem thuốc trị lành bệnh

Cung cấp các rê thuốc

Bố thí các Tỳ-kheo

Một năm các chúng Tăng

Chẳng thiếu thốn vật gì

Khi thí các Sa-môn

Cho một Ha Lê Lặc (Ha tử: tên một loại thuốc)

Trong chín mươi mốt kiếp

Chưa từng vào đường ác

cõi trời hay người

Phước đó tự nhiên gặp

Tạo phước đức chút xíu

Thọ phước đức vô cùng

Cúng một Ha Lê Lặc

Mãi mãi sanh chỗ thiện

Phước đức xưa sót lại

Nay được làm thân người

Gặp được Bậc Chánh Giác

Ðạo sư không ai bằng

Chưa từng tự nhớ nghĩ

Quận, Huyện, chỗ thọ thí

Nhân giả, tôi hai đêm

Chứng thông Tam Ðạt Trí

Thường mặc y thô xấu

Nhằm vá rất nhiếu lớp

Bỏ nhà đi học đạo

Muốn ở chỗ an nhàn

Thọ một trăm sáu mươi

Ở đó không dơ uế

Chưa từng có tật bệnh

Sanh đâu cũng an lạc

Phật thuyết pháp, khắp nơi

Thiểu dục, không ngủ nghĩ

Xét bố thí thuốc ấy

Phước đức lớn như vậy

Nay tôi đã nhớ rõ

Xưa gieo ít công đức

Ðã đạt quả chân thật

Vừa ý được an ổn

Khi Hiền Bạt Câu Lô

Giữa chúng Tỳ-kheo Tăng

Tại ao A-nậu-đạt

Tự nói việc làm xưa.

 

 

14. PHẨM MA HA TRỞ (Ðại Trường- 12 bài kệ)

Xưa làm thợ thuộc da

Ðời sống cũng an ổn

Gặp lúc lúa thóc hiếm

Làm mềm da để thuộc

Khi gặp nhiều da tốt

Nấu chín làm thật đẹp

Lúc đó Sa-môn đến

Khất thực muốn xin ăn

Tôi thấy liền hoan hỷ

Chia phần cơm cúng dường

Vị Tịch Chí ăn xong

Liền bay lên hư không 

Thấy đạo nhân bay vút

Tức thì tôi chắp tay

Cung kính Ngài khắp nơi

Ngài đi đâu cũng theo

Tâm hoan hỷ, rộng lớn

Liền tự phát nguyện rằng:

–Mong con được như vậy

Thường ở cùng tôn giả

Như pháp đạo nhân này

Ngài đã được pháp thân

Khiến thân con cũng vậy

Mau thành nghĩa chánh nguyện

Chỗ thí không hình sắc

Khí chất cũng ô uế

Không hương cũng không vị

Tôi đã thí như vậy

Ðã tạo chút ít đức

Ðược phước rất an lạc

cõi trời hay người

Phước đó tự nhiên gặp

Nay là đời cuối cùng

Lại được làm thân người

Gặp được Ðẳng Chánh Giác

Ðạo sư không ai bằng

Tôi vốn đã cầu nguyện

Thấy Thế tôn, thượng nhân

Bấy giờ đều như ý

Thanh lương được diệt độ

Lúc ấy đều biết rõ

Xưa đã làm công đức

Tất phải được thật quả

Vừa ý, được hoan hỷ

Bậc Ðại tôn như vậy

Tự nói việc làm xưa.

 

15.PHẨM ƯU VI CA-DIẾP (8 bài kệ)

Ðạo sư có hai người

Ðồng loại đều anh em

Thấy tháp Phật Ca-diếp

Hư nát và sụp đổ

Tập hợp các khách buôn

Cùng nhau sửa lại tháp

Lúc đó, hai anh em

Cùng nhau xây dựng tháp

Nhờ công đức xưa này

Sanh cõi trờ rất lâu

Lại sanh xuống nhân gian

Vào giòng họ thế tộc

Chưa gặp Bậc Chánh Giác

Bỏ nhà học đạo khác

Bên giòng sông Ni Liên

Tu lâu hạnh Bện tóc

Thế Tôn không ai bằng

Xót thương bọn chúng con

Ở bên giòn sông Hằng

Cảm động liền biến hóa

Chúng con thấy biến hóa

Theo Phật xin xuống tóc

Ðại tôn thấy xót thương

Cho chúng con xuất gia

Cúng dường Chùa Tháp Phật

Ðến trước cúi đầu lạy

Nhờ vậy bọn chúng tôi

Thanh lươngdiệt độ

Ưu vi Ca-diếp tôn

Và Giang hà Ca-diếp

Tại ao A-nậu-đạt

tự nói việc làm xưa.

 

 

16. PHẨM CA DA (Tróc Thủ- 15 bài kệ)

Xưa làm người bán hương

Khi được hương đem bán

Có một người đồng nữ

Ði đến chơ mua hương

Dung mạo thật tuyệt đẹp

Thấy cô đến chỗ tôi

Liền nắm tay đùa giỡn

Dục ý tuy đắm trước

Thân cũng không xúc phạm

Tôi cũng không hội hiệp

Chỉ nắm tay cô thôi

Vì giỡn con gái người

Do vậy bị tội ác

Mạng chung đọa địa ngục

Nay lại được thân người

Tay mặt tự nhiên khô

Như vậy năm trăm đời

Sanh ở đâu cũng vậy

Tay mặt thường teo tóp

Khổ đau rất bất tiện

Nhân gỉa, nên nghĩ rằng:

Tạo tội tuy rất ít

Bị tai ương vô cùng

Thiện, ác không lìa thân

Gặp được Bậc Chánh Giác

Bỏ nhà làm Sa-môn

Ðã chứng A-la-hán

Thanh lương nhập Niết-bàn

Nhân giả, tôi lúc đó

thần túc tự tại

Hiện nay cánh tay mặt

Không lanh bằng tay trái

Giả như có người nam

Thích phạm người nữ khác

Mạng chung đọa địa ngục

Khổ đau rất khốc hại

Không nên phạm sắc ngoài

Như vứt bỏ đống lửa

Bậc trí người hiểu rõ

Luôn luôn viết dừng đủ

Nếu thấy phụ nữ người

Phải quán thấy bất tịnh

Tôi vào trong địa ngục

Chịu khổ não vô lượng

Khi tôi phạm tội ấy

Tự cho không nói hết

Phải lãnh lấy thật quả

Tội phước chẳng hề lìa

Gặp được Bậc Chánh Giác

Ðạo sư không ai bằng

Ðã được không chỗ chấp

Thanh lương được diệt độ

Ðây là đời cuối cùng

Ðã được câu cam lồ

Ðã hết tất cả khổ

Thanh lương được diệt độ

Ca Da Tôn như vậy

Ở trong Tỳ-kheo Tăng

Tại ao A-nậu-đạt

Tự nói việc làm xưa.

 

17. PHẨM THỌ ÐỀ CÙ (37 bài kệ)

Phật Thế Tôn Duy Vệ

Thành nước Bàn Ðầu Ma

Có ông phú trưởng giả

Tên: A Năng Càn Na

Các quyến thuộc của Phật

Sáu mươi hai trăm ngàn

Thỉnh tôn Phật Duy Vệ

Và chúng, cúng ba tháng

Chủ tôi Bàn Ðầu Ma,

Tôi cúng Nhân-trung-tôn

Ăn uống vật ngon lạ

Cúng dường đệ tử Phật

Như cúng dường Ðức Phật

Tại nước bàn Ðầu Ma 

Lúc đó, thí cuối cùng

Vua Bàn đầu muốn dâng

Cúng dường phạn thực ngon

Y phục và giường nằm

Làm nhà thí vi diệu

Chính do vua tạo nên

Dâng lên các tiện nghi

Sàng tọa đến trăm ngàn

Cứ mỗi một Tỳ-kheo

Huệ thí, khiến vừa ý

Quốc vương cuối cùng đó

Ðã cúng dường như vậy

Phụng sự các Thế Tôn

Thần thông bậc Ðạo sư

Lúc ấy thấy vua cúng

Giường nằm các tiện nghi

Thí y phục ẩm thực

Sàng tọa đều đầy đủ

Khi Chư Thiên-trung-tôn

Ðế thích đến bên tôi

Thiên Ðế Thích bảo tôi:

–Ta là bạn của ngươi

Tức thời biến nhà thí

Khả ý, như cõi trời

Ðặt bày tòa cõi trời

Cúng ẩm thực cõi trời

Khi ấy Phật Thế Tôn

Duy Vệ không ai bằng

Thỉnh cúng tròn một tháng

Tôn nhân và đệ tử

Tôi lấy ẩm thực trời

Cúng dường cho đạo sư

Dâng cúng y phục trời

Ðại nhân và đệ tử

Do nhờ công đức ấy

Thọ ân thật vô cùng

Suốt chín mươi mốt kiếp

Chưa từng rơi ác đạo

Thấy rõ phước đã làm

Thiên thượngnhân gian

Tôi phụng thờ Ðại Thánh

Phật Duy Vệ tôn qúy.

Nay là đời cuối cùng

Sanh thành La-duyệt-kỳ

Trong cung Vua Bình Sa

Nhà giàu, của vô lượng

Ðược quốc Vương Bình Sa

Tất cả người ái kính

Mọi người thất cung phụng

Các thần và nhân dân

Tôi ở trời ca hát

Ðời bây giờ tự vui

Sanh ra được thân người

Tự vui kỷ nhạc trời

Bấy giờ Phật Ðại Trí

Ðạo sư không ai bằng

Ði đến La-duyệt-kỳ

Ðạo sư ban lòng thương

Tôi nghe Ðại Trí tuệ

Phật đến thành Vương xá

Tâm vui mừng nhảy nhót

Ðến Thế Tôn nhân từ

Xa thấy hào quang Ngài

Chiếu sáng khắp tất cả

Tôi liền bước xuống xe

Ði bộ đến chỗ Phật

Vui mừng tôi đến trước

Cúi lạy chân tối thắng

Khi lạy Như Lai xong

Liền ngồi qua một bên

Tôi mãi nghĩ Chánh-Hùng

Nay mới thấy Ðại Nhân

Ðạo sư, bậc chiếu sáng

Hàng phục lưới của Ma

Thế Tôn, bậc vô thượng

Tức thì thương xót tôi

Giải nói pháp Tứ Ðế

Như điều Ngài giảng nói

Ngài bảo: “Chớ buồn lo”

Thế Tôn nói như vậy

Ðại Thông muốn xuân gia

Mong được thọ Ðại giới

Tức thì Ðại trí huệ

Ðức Phật không ai bằng

Nói rằng: Tỳ-kheo đến

Cụ Túc thành Sa-môn

Nhờ vậy chẳng buông lung

Vững tinh tấn, định ý

Ðã gặp chỗ cam lồ

Ðược vô vi không động

Ðược thấy Bậc Chánh Giác

Ðạo sư không ai bằng

Do thành A-la-hán

Thanh lươngdiệt độ

Nhân giả, tôi nhớ lại

Thân vốn đã làm ác

Ðều phải lãnh thật quả

Vừa ý, vui, an ổn

Rộng Hành được chu toàn

Lìa Sanh, Lão, Bệnh, Tử

Thoát tất cả khổ não

Ưu sầu và khóc lóc

Như vậy, thọ Ðề Tôn

Ở trong chúng Tỳ-kheo

Tại ao A-nậu-đạt

Tự nói việc làm trước.

 

 

18. PHẨM LẠI TRA HÒA LA (26 bài kệ)

Có Vua Tu-duy-ni

Nhà vua có một người con

Tên: Lại-tra-bạt-đàn

Là con út của vua

Phật Ca-diếp tốt đẹp

Xây dựng chùa tháp lớn

Muốn hộ ý Vua cha

Mới tạo lập cột chùa

Tâm vui mừng nhảy nhót

Kiến lập vòng tròn tháp

Tôi nguyện làm Sa-môn

Cùng hội Bậc Chánh giác

Bởi nhờ công đức này

Ðời đời sanh ở đâu

Hoặc cõi trời, hay người

Tự nhiên được đức ấy

Nay lần sanh cuối cùng

Tại nước Ðầu-lâu-tra

Sanh vào nhà tôn giả

Chỉ một người con gái

Tất cả đều mến yêu

Như vậy vua Câu Liệp

bà con nhà tôi

Quốc thổ cũng như vậy

Ðoan chánh đẹp vô cùng

Sắc mặt rất vui vẻ

Vui chơi trong kiếp người

Thọ hưởng tất cả dục

Hết lòng kính Thế Tôn

Ði đến Ðầu-lâu-tra

Tôi thấy tâm hoan hỷ

Liền xin làm Sa-môn

Công đức xưa tạo nên

Biến hóa khó so sánh

Từ bi, xót thương tôi

Miệng Ngài nói lời rằng:

“Chánh giáo của Chư Phật

Cha mẹ không cho phép

Không được làm Sa-môn”

Tộc tánh tử, tự biết

Liền trở về nhà mình

Ðến trước thưa cha mẹ:

“Xin xha mẹ cho con

xuất gia làm Sa-môn”

Cha mẹ nghe tôi nói

Ưu sầu không kể xiết:

“Con tuy có mạng chung

Còn không muốn xa lìa

Lúc ấy tôi không ăn

Một lòng, không ưa thích

Chí mong pháp thanh bạch

Muốn cầu làm Sa-môn

Lúc ấy tôi không ăn

Nằm dài trên mặt đất

Nếu không cho phép tôi

Thề chết ở nơi ấy

Sáu ngày không ăn uống

Một lòng chỉ buồn lo

Chí mong pháp thanh bạch

Muốn cầu làm Sa-môn

Lúc bạn hữu tri thức

Nói cha mẹ tôi rằng:

–Lành thay, thuận theo ý

Dùng thân chết làm gì?

Nếu vui lòng cho đi

Làm Sa-môn vẫn sống

Người sống có thể gặp

Chết rồi sau gặp được?

Thời cha mẹ tri thức

Ðồng buông tiếng bi ai

“Nếu cho làm Sa-môn

Về thăm nhà mới được”

Thì bạn hữu tri thức

Liền đến bảo chàng rằng:

“Cha mẹ anh đã cho

Sáng mai làm Sa-môn

Hai bác đồng giao ước:

Nếu anh làm Sa-môn

Thỉnh thoảng vể thăm nhà

Mới chịu cho xuất gia” 

Anh nghe nói: Lành thay!

Tự bồi dưỡng sức khỏe

Ði đến chỗ Thế Tôn

Tới trước bạch Ðức Phật 

“Cha mẹ đã cho phép

Thọ giáo pháp của Phật”

Thế Tôn cạo tóc tôi,

Cho tôi làm Sa-môn

Nhờ cúng vòng tháp tròn

Ðược an ổn khoái lạc

cõi trời hay người

Công đức tự nhiên được

Phật thấy khắp, bảo tôi

“Thích nhàn cư bậc nhất”

Ðã chứng A-la-hán

Thanh lươngdiệt độ

Cho nên phải hoan hỷ

Vui lòng hướng Thế Tôn

Nên cúng dường chùa tháp

Ðược thoát lo sợ lớn

Ðại tôn Lại Tra Hòa

Nhàn cư y ngủ nạp

Tại ao A-nậu-đạt

Tự nói việc làm xưa.

 

 

19. PHẨM HÓA ÐỀ (27 bài kệ)

tôn giả giàu lớn

Từng ở thành Vương xá

Có năm trăm đạo sĩ

Ở nhà tôi một năm

Năm trăm các trưởng giả

Tất cả đều như vậy

Bấy giờ các đạo nhân

Ðến thọ thực một nhà

Thí như bọn chúng tôi

Nhà nào cũng nấu cơm

Với tất cả Tỳ-kheo

Cũng cúng dường như vậy

Xin đạo sĩ lớn tuổi 

Phần ấy cho trưởng giả

Ðạo nhân vô thượng tôn

Tâm niệm ông như vậy

Cúng dường năm trăm người

Ðỗ đậu, canh trên cơm

Tôi đã cúng đầy đủ

Nuôi Tỳ-kheo như vậy

Suốt cả hai ngày trường

Bố thí Tỳ-kheo ấy

Lúc đó tôi khởi ý

Tâm tham, ghét và ác

Khó nuôi nấng con mình

Phụ nữ và chị em

Huynh đệ, các thân tộc

Cúng dường phạn thực này

Huống chi Tỳ-kheo này

Phải cúng dường ba tháng

Cúng dường năm trăm người

Nhà ta rất hao tổn

Ta muốn cho Tỳ-kheo

Bằng cách nào để chết

Giả sử họ chết đi

Nhà ta khỏi hao tổn

Tâm nghĩ điều ác rồi

Mới đem lúa của ngựa

Ðể nấu cơm cúng dường

Bảo: giết người, không khổ

Khi ăn cơm này xong

Bị bệnh rất khốn khổ

Cột, xé ruột, bao tử

Thương tổn cả năm tạng

Chư Thiênquỷ thần

Ðều phát ra tiếng nói

“Trưởng giả này rất ác

Giết hại bậc Ðạo Nhân

Vị Duyên Giác tôn kính

Thanh lương mà vô lậu”

Tôi nghe, biết lời ấy

Suy nghĩ sầu khổ não

“Chúng tôi tội vô lượng

Sát hại Ðạo nhân tốt”.

Thân thuộc nghe lời ấy

Ðều buồn lo, suy nghĩ

Mời các Ðạo nhân lại

Cúi đầu xin sám hối

Quy y các Ðạo nhân

Cúi đầu sám hối xong

Thỉnh năm trăm đạo nhân

Cúng dường bằng trai soạn

Lại sám hối tội lỗi

Quy y các đạo nhân

Cúng dường trai soạn xong

tâm tự phát nguyện rằng:

Khiến cho con cùng với

Chư tôn giả hiệp hội

Ðều đắc độ như vậy.

Tâm con thoát điều ác

Ðời đời, sanh ở đâu

Chớ có bị bần cùng

Chớ khiến con hưng khởi

Tâm ý tham, ghanh ghét.

Vì hại Phật-bích-chi

Phạm tội ác như vậy

Sau khi bị mạng chung

Ðọa địa ngục Thái-Sơn

Khổ đau mấy ngàn năm

Áo não không thể nói

Lại được làm thân người

Chết yểu, dời rất nhanh

Hiện tại được giàu có

Ðược mọi người cúng dường

Ruột, bao tử đốt cháy

Sau đó mới mạng chung

Vứt bỏ nhà ra đi

Sa-môn chẳng ai kính

Siêng năng tu lời Phật

Ðoạn trừ tất cả dục

Ruột, bao tử năm tạng

Tất cả đều thối nát 

Tôi đã tạo tội lỗi

Ác ý hại Tỳ-kheo

Tội ác xưa sót lại

Cuối cùng mới thấy rõ

Thân tôi đã tạo ác

Và làm các điều lành

Tôi phải chịu quả báo

Thiện và ác, trước sau

Sống trong thành Xá-vệ

Hóa Ðề, Ðại thần túc

Tại ao A-nậu-đạt

Tự nói việc làm xưa.

 

 

20. PHẨM THIỀN THỪA CA-DIẾP (11 bài kệ)

Có các Tỳ-kheo Tăng

Suốt cả bảy năm rường

Gặp lúa gạo khan hiếm

Ðói kém rất hãi hùng

Tôi có gặp một người

Diệu Ðạo nhân Ma-kiệt

Bậc Duyên Giác tôn kính

Thanh lươngvô lậu

Lúc đó tôi phát sanh

Khởi lên ý độc ác:

“Ta giữ đồ ăn lại

Nuôi Tỳ-kheo làm gì?

Liền giữ lại phạn thực

Khiến sanh dòi hôi thúi

Ðến xem các người ở

Sau đó mới cúng dường

Vì tạo tội ác này

Mạng chung đọa địa ngục

Hiệp hội thiêu với đốt

Ðau khổ không nói được

Khi ra khỏi địa ngục

Ðời đời sanh ở đâu

Làm biết bao phương tiện

Kiếm sống rất khó khăn

Nay là đời cuối cùng

Lại được sanh cõi người

Gặp bậc Ðẳng Chánh Giác

Là Ðạo sư vô thượng

Nhờ tin nên xuất gia

Trừ hại, hết các lậu

Ðã được không đắm trước

Thanh lươngdiệt độ

Nhân giả! Tôi lúc đó

Thần túc thường tự tại

Cầu thực, bày phương tiện

Nhưng vẫn không thể được

Ði xa, tránh đường xá

Mệt mỏi không thể nói.

Nay mới được may mắn

Ăn uống vật cúng dường

Ngài Thừa già Ca-diếp

Thông suốt với tiếng tăm

Tại ao A-nậu-đạt

Tự nói việc làm xưa.

 

 

21. PHẨM CHÂU LỢI BÀN BẠC (8 bài kệ)

Ngày xưa, kiếp trước tôi

Từng là người nuôi heo

Sống ở bên giòng sông

Cột chặt miệng các heo

Muốn đưa đến giữa giòng

Chỉ mình tôi qua được

Vì heo không được thở

giữa giòn đều chết chìm

Bấy giờ tôi kiếm sống

Chẳng còn gì để nương

Tiên nhân đến chỗ tôi

Phóng luồng ánh sáng từ

Khuyên nhũ, giáo hóa tôi

Cạo bỏ râu và tóc

Giả dụ, hay thiện luật

Hành vô tướng Tam muội

Sau khi thọ mạng chung

Liền được sanh cõi trời

Tuổi thọ trời lại hết

Liền sanh xuống nhân gian

Gặp được Bậc Chánh Giác

Bỏ nhà làm Tịch chí

Khi đó ý mê muội

Ðọc kinh liền quên ngay

Tôi đọc một bài kệ

Hết ba tháng mới thuộc

Tập đọa tụng bốn câu

Ðoạn tuyệt các ái dục

Ðức Thế Tôn hỏi tôi

Châu Lợi Bàn đặc thưa:

Nguyên nhân việc thiện ác

Tại ao A-nậu-đạt.

 

 

22. PHẨM THÍ ÐỀ HỒ (27 BÀI KỆ)

Phật Ca-diếp diệt độ

Tôi là đệ tử cuối

Rộng nghe biết ba đời

Thường thầm tiếc kinh pháp

Không nói cho Tỳ-kheo

Không chịu chỉ cho người

Dù có người xin hỏi

Cùng chúng tôi trao đổi

Ví có Tỳ-kheo đến

Chỗ tôi để hỏi chuyện

Thì tôi lừa dối họ

Họ không hiểu, tức giận

Các Ðạo nhân lại giận

Buồn lo mắng chửi rằng

“Vì sao không thuyết pháp

Nhân giả không chết sao?”

Ðến khi lúc mạng chung

tâm liền tự hối, trách:

Chưa từng giảng luận pháp

Ðó là điều rất xấu”.

Tự biết mình sắp chết

Chỉ còn bảy ngày nữa

Hội tụ các Tăng chúng

tức thời liền thuyết pháp

Ngày đêm giảng yếu nghĩa

Trừ bỏ tham, tật đố.

Thuyết pháp chưa hoàn tất

Buổi tối thì mạng chung

Như tôi đã phân biệt

Người nghe rất vui mừng

Thọ giáo suy tư nghĩa

Thay nhau cùng khuyến hóa

Tôi thuyết pháp rất ít

Hội mọi người bảy ngày

Nhờ vậy được sanh thiên

Dùng Thiên nhạc vui chơi

Hết tuổi thọ cõi trời

Trở lại thọ thân người

Tại Ca-duy-la-vệ

Sanh nhà vua họ Thích

Ðoan chánh ai cũng kính

Ðược mọi người mến yêu

Nhiều của cải châu báu

Ðem bố thí tất cả

Thấy các tộc tánh tử

Theo đạo bỏ nhà cửa

Tôi muốn làm Tịch Chí

Bỏ nhà, cửa, ái dục

Thế Tôn không ai bằng

Từ niệm, thương xót tôi

Ðã nhiều phen khích lệ

Khuyên bảo tôi xuất gia

Tôi liền vâng lời Phật

Học giáo lý vô thượng

Này nhân giả, thân tôi

Bảy năm làm bố thí

Bấy giờ hội thí xong

Hết bảy năm đó rồi

Sau đó làm Tịch Chí

Theo lời dạy Thắng Trí

Bảy năm là lâu dài

Mạng người thì ngắn ngủi

Hôm nay đem bố thí

Ai giữ được thân mình

Nhờ Thế Tôn dạy bảo

Tôi liền làm Tịch Chí

Nhơn giá, tôi bảy ngày

Xuất gia bỏ râu tóc

Tin tưởng làm Sa-môn

Tu hành thân Phật pháp

Trong hai mươi lăm năm

Tâm tịch định như nước

Bấy giờ tệ ác đạo

Khởi niệm đắm việc nhà

Phụng hành việc đáng bỏ

Cũng không dùng cam lộ

Với y, rất thổ thẹn

Mong cầu điều tệ hại

Hủy nhục với thân thuộc

Gặp cừu địch ganh ghét

Làm vậy là không nên

Cũng không bị oán hận

Ðã có chí giữ tịnh,

Há lại nhớ nhà cửa

chủng tánh, nhà cửa,

Ðam mê nơi tà lợi

Phải nên bỏ ý ấy

Thề không xa lìa giới

Chẳng thà ta chết đi

Ðừng sống mà xấu ác

Ta nên cầm dao lớn

Hủy bỏ thân mạng này

Liền cầm dao kiếm lớn

Cắt bỏ thân mạng mình

Cắt đứ cấu trượt rồi

Thì tâm mới giải thoát

Nhất tâm bèn giải độ

Lần hồi khiến người định

Tôi đối thật quả Từ

Mau gặp pháp Quang Minh

Tuổi thọ tôi sắp mất

Giảng thuyết pháp tôn diệu

Nhờ làm được điều ấy

Ðịnh ý được giải thoát

Thích tử đại thần túc

Nhược căn Tát Ba Ðạt

Tại ao A-nậu-đạt

Tự nói việc làm xưa.

 

 

23.PHẨM A NA LUẬT(Vô Liệp- 9 bài kệ)

Xưa tôi từng không ăn

Lúc ấy tôi bố thí

Gặp được bậc Sa-môn

Ðại thông Hòa-liệp-tra

Nên sanh nhà họ Thích

Hiệu là A-na-luật

Công đức tự vui chơi

Với tất cả kỷ nhạc

Lúc thấy Bậc Chánh Giác

Liền hâm mộ Thế Tôn

Trong lòng rất sung sướng

Bỏ nhà làm Tịch Chí

Ðời trước hành tinh tấn

Phương tiện thường kiên cố

Ðã thoát, Tam đạt trí

Ðầy đủ như Phật dạy

Tự biết mạng kiếp trước

Tạo hành đã trải qua

Ở trên trời Ðao-lợi

bảy lần sanh cõi trời

Bảy lần sanh nhơn gian

Vào trong nhà tôn kính

Giàu cóquân tử

Vàng, ngọc báu tự nhiên

Ở đây bảy, kia bảy

Sanh tử mười bốn lần

Vốn đã biết rõ ràng

Việc làm ở đời trước

Như vậy, quả bố thí

Chưa bao giờ tham, ghét

Ðời đời sanh ở đâu

Thường cầu không sanh tử

Lúc Ngài A-na-luật

Ở trong các chúng Tăng

Tại ao A-nậu-đạt

Tự nói việc làm xưa.

 

 

24. PHẨM DI CA PHẤT (Lộc tử-14 bài kệ)

Xưa tôi theo chó dữ

Ði đến chợ bán thuốc

Gặp một vị duyên giác

Thân thể bị bệnh tật

Tôi cung cấp thuốc men

Ðiều dưỡng Ngài bảy ngày

Tôn nhân sau bảy ngày

Liền bay lên hư không

Lúc đó, tôi thấy, bảo:

Người nhà, khách, trẻ ở.

Các thần đã đến đây

Xuất gia học như vậy.

Tôi nghe trẻ nói vậy

Bích-chi-phật bay đi

Trong tâm rất hoan hỷ

Một lòng chắp tay vái

Nhờ ý được vui vẻ

Bố thí Ngài thuốc men

cõi trời hay người

Công đức tự nhiên thấy

Nay là đời cuối cùng

Lại được làm thân người 

Lại gặp Bậc Chánh Giác

Ðạo sư không ai bằng

Ở chỗ Thích Sư Tử

Xuất gia làm Tịch Chí

Ðã được Vô sở trước

Thanh lươngdiệt độ

Ngày xưa tôi làm vậy

Ðược cùng dường rất nhiều

Y phụcẩm thực

Giường nằm và ngọa cụ

y phục cho Ngài

Nhờ bố thí thuốc thang

Bốn phương cung cấp thuốc

Ðời sống không thiếu thốn

Trời người đến bảo rằng

Với Quốc vương Bình Sa

- Khanh nên đem thuốc thang

Cúng dường Di Ca Phất

Nước Ngài sẽ được lợi

Rất nhiều các loại thuốc

Bảo y vương Kỳ Vức

Ðem thuốc cúng Lộc tử

Y dược bốn phươn đến

Thảy đều đem cho tôi

Lúc đó vua Bình Sa

Thi thố đại thần thông

Bấy giờ đem cho tôi

Ðầy đủ nhà nhu nhuyến

Biến khắp Tỳ-kheo tăng

Ngàn hai trăm năm mươi

Vị Tỳ-kheo Lộc kia

Lục thông, Ðại thần túc

Tại ao A-nậu-đạt

Tự nói việc làm xưa.

 

 

25. PHẨM LA VÂN (10 bài kệ)

Xưa tôi từng làm vua

Làm chủ nước Ma-kiệt

Có rất nhiều dân chúng

Xử sự bằng nghĩa lý

Bấy giờ có tiên nhân

Uống nước trong hào rãnh

Liền đi đến chỗ tôi 

Nói với tôi như vầy:

–Ðại vương, tôi là giặc

Uống trộm nước của Ngài

Xin hãy trách phạt tôi

Như trị người trộm cắp.

Lúc đó tôi đáp rằng:

–Tiên nhân giữ pháp dược

Tôi tha thứ cho Ngài

Cứ đi, tùy ý thích

Ðại vương, tôi hồ nghi

Tội xưa chưa trừ được

Xin hãy trách phạt tôi

Ðể tiêu trừ tội chúng

Tôi nhốt ông sau vườn

Rồi quên luôn sáu ngày

Sau sáu ngày qua rồi

Cũng không cho ăn uống

Do nhân duyên như vậy

Chưa từng có ác ý

Ðọa Hắc Hằng thiêu đốt

Trải qua sáu vạn năm

Tại ương xưa sót lại

Nay lần sanh cuối cùng

Phải ở trong bụng mẹ

Sáu năm mới sanh được

Chưa từng khởi loạn ý

Thân, miệng không phạm tội

Mới gặp được thật quả

Tội phước không lìa mình

Như vậy La Vân Tôn

Ở trong Tỳ-kheo Tăng

Tại ao A-nậu-đạt

Tự nói việc làm xưa.

 

 

26.PHẨM NAN ÐỀ (14 bài kệ)

Ðời xưa Phật Duy Vệ

Tôi cúng nhà tắm ấm

Cho các Tỳ-kheo Tăng

Và phát thệ nguyện rằng:

Khiến tôi cùng các Ngài

Tôn chúng cùng tập hội

Ðời đời được thanh lương

Ly dục, không trần cấu

Ðoan chánh thường tốt đẹp

Thanh tịnh như diệu hoa

Nhờ vậy sau mạng chung

Ðược sanh lên cõi trời

Tại cõi trời hay người

Nhan sắc đẹp đoan chánh

Ðời đời, sanh chỗ nào

chỗ ở thế lực lớn

Nơi đó, mạng chung rồi

Lại sanh ở nhân gian

Chư thiênnhân dân

Nhìn tôi không biết chán

Thấy tháp Phật Bích Chi

Tôi tu bổ trở lại

Trang sức cho thật đẹp

Treo tràng phan ở trên

Lúc đó tôi phát nguyện:

Muốn cầu được tướng tốt

Thân chói sáng vàng tía

Ðoan nghiêm không ai bằng

Nhờ đã làm phước này

Sanh nước Ba-la-nại

Tại Chỉ Duy Ni Sanh

Làm con chẳng giận hại

Thấy tháp Phật Ca-diếp

Trong lòng rất hoan hỷ

Liền vào chùa tháp ấy

Cột trụ thật vững chắc

Dùng để cúng tháp này

Và sửa lại tháp ngài

Dựng trên một trụ đá

Tôi thọ phước vô lượng

Nhờ phước dư còn lại

Nay là đời cuối cùng

Sinh nhà Vua họ Thích

Ðược làm em Ðức Phật

Thân tôi tự nhiên

Tướng tốt của Ðại nhân

Trang nghiêm thành La Sạn

Bình đẳng trải ba ngàn

Phật khắp thấy nói tôi

Là đoan chánh bậc nhất

Ðã trừ hết các lậu

Ðã được câu cam lồ

Nan-đề, con cha mẹ

Ở trong Tỳ-kheo Tăng

Tại ao A-nậu-đạt

Tự nói việc làm xưa.

 

 

27. PHẨM BẠT ÐỀ (19 bài kệ)

Ngày xưa lúa thóc hiếm

Ðói khát rất hãi hùng

Có năm trăm Tỳ-kheo

Khất thực tôi đều cho

Tất cả các trưởng giả

Huệ thí các đạo thuật

Khất thực được đồ ăn

Liền đem đến cho tôi

Tuy được đồ ăn dở

Thường ăn nhín nuôi thân

Dù không thể biết tôi

Họ đều theo lời tôi

Các nhân dân đi đến

Kiếm đầy đủ thức ăn

Lúc đó tôi gắng sức

Theo họ để ra đi

Bấy giờ họ đuổi theo

Tin xa đến cầu xin

Hết sức đuổi theo sau

Cũng không theo kịp tôi

Tôi liền đi qua sông

Rồi ngồi xuống bờ sông

Nhìn chung quanh bốn hướng

Thanh tịnh, không người đến

Ngày nay, mình tôi ăn

Ðồ ăn mềm, thơm ngon

No đủ, lòng thỏa mãn

Cả ngày được an ổn

Bấy giờ có Tỳ-kheo

Là Duyên-Giác Thế Tôn

Oai thần cao vời vợi

Ðã trừ bỏ sanh tử

Tâm ý thường nghĩ rằng:

Nghèo khốn thật kịch khổ

Xưa không tu công đức

Cho nên nay mới nghèo

Liền khởi tâm thanh tịnh

Tâm hoan hỷ nghĩ rằng:

Nên cúng cho Tỳ-kheo

Ðó là gốc các phước

Thì Thế Tôn liền nhận

Ðến đó để thọ thực

Rồi Ngài xót thương tôi

Liền bay lên hư không

Lúc ấy tôi phát nguyện

Xin chớ để con nghèo

Ðời sau sanh giàu có

Ðoan chánh như hoa đẹp

Giống Thế Tôn chẳng khác

Ðời đời cùng hội ngộ

Khiến con nương pháp này

Như nhơn giả đã được

Nhờ đã tạo đức này

Ðược an vui mãi mãi

cõi trời hay người

Tự thấy phước đã tạo

Cũng được làm quốc vương

Trời người vô số lần

Chưa từng đọa ác đạo

Cũng không có tội ương

Nhờ có phước dư ấy

Nay là đời cuối cùng

Lai sanh nhà quyền thế

Sanh đại tánh họ Thích

Khi ấy Phật Thế Tôn

Ði đến chỗ của tôi

Tôi liền làm Tịch Chí

Cùng với các thân quyến

Tôi vốn đã lập nguyện

Liền đầy đủ như ý

Ðã được vô sở trước

Thanh lươngdiệt độ

Bỏ đời làm Sa-môn

Bạt Ðề theo Phật dạy

Tại ao A-nậu-đạt

Tự nói việc làm xưa.

 

 

28.PHẨM LA BÀN BẠT ÐỀ (14 bài kệ)

Lúc Phật Câu-lâu-tần

Xưa có người dựng tháp

Lúc ấy tôi ở đấy

Ngôi chùa rất to lớn

Khi dựng chùa tháp này

Tôi buông miệng trách rằng:

–Tháp này hết sức lớn

Chừng nào mới thành tựu

Làm chút ít công đức

Như vậy dễ thành hơn

Ðã ít tốn công sức

Chùa tháp cũng mau thành

Dùng miệng nói lời ác

lời nói tạo tội

Sau khi thọ mạng hết

Liền đọa trong địa ngục

Khi ở địa ngục ra

Thân lùn nhỏ, xấu tệ

Ðời đời sanh ở đâu

Bị mọi người khinh chê

Ðến thời Phật Ca-diếp

Làm quạ đen chim đỏ

Giữa đường Ba-la-nại

Bay liệng trong rừng cây

Thấy hào quang Thế Tôn

Có Tỳ-kheo vây quanh

Liền theo Phật đảnh lễ

Miệng kêu tiếng não nuột

Khi Phật Thế Tôn đi

Ðến nước Ba-la-nại

Ðều theo Ngài ra vào

Thường cất tiếng bi cảm

Nhờ làm công đức này

Lại được làm thân người

Ðượv gặp Bậc Chánh Giác

Ðạo sư không ai bằng

Ðược làm vị Tịch Chí

Ở chỗ Thích sư tử

Ðã được vô sở trước

Thanh lươngdiệt độ

La Hán được tự tại

Lục thông, Ðại thần túc

Gọi là bậc Trì Pháp

Chánh chơn có biệt tài

Tất cả chúng tụ hội

Lắng nghe âm thanh tôi

Chư Thiênnhân dân

Tất cả đều hoan hỷ.

Tôi tạo tội chút ít

Cũng tạo phước chút ít

Ðều phải thọ thật quả

Ðã tạo tội và phước

Ngài La-bàn-bạt-đề

Ở trong Tỳ-kheo Tăng

Tại ao A-nậu-đạt

Tự nói việc làm xưa.

 

 

29. PHẨM MA ÐẦU HÒA LUẬT CHÍ (21 bài kệ)

Xưa Phật Duy-da-ly

Tôi làm con khỉ lớn

Chạy đến cầm bát Phật

Tỳ-kheo thấy la mắng:

Ðừng làm bể bát Phật

Thế Tôn bảo Tỳ-kheo:

–Tỳ-kheo chớ có la

Nó không làm bể bát

Lúc ấy ầm bát Phật

Tôi từ từ lên cây

Lấy đầy một bát mật

Rồi lại leo xuống cây

Tay cầm bát đầy mật

Dâng lên đức Thế Tôn

Trong mật có trùng bọ

Ðức Chánh Giác không nhận

Vì Phật thấy trong bát

Ong chết cùng mật tạp

Tôi làm sạch thứ ấy

Lại dâng lên đức Phật

Thì Phật mới xem xét

Lại không chịu nhận bát

Tôi lấy nước rửa sạch

Mới đến trước đảnh lễ

Lấy nước rưới lên trên

Ðổ đầy một bát khác

Cúng dường Phật tôn xong

Tâm vui mừng hoan hỷ

Thế Tôn không ai bằng

Lúc đó độ ong chết

Liền thọ nhận bát mật

Ngài dùng với đệ tử

Khi ấy tôi vui mừng

Chấp tay và hướng Phật

Chuyên tâm trước Thế Tôn

Mà lòng thường tinh tấn

Và tôi phát nguyện rằng:

Khiến con làm thân người

Sanh đời gặp Thế Tôn

Liền hiểu nghĩa tối thượng

Nhờ tạo phước đức này

Nên được làm thân người

Ðược gặp Bậc Chánh Giác

Ðấng Ðạo sư Vô thượng

Xuất gia làm Sa-môn

Ðứng đầu Thích sư tử

Ðã được vô sở trước

Thanh lươngdiệt độ

Làm La-hán tự tại

Lục thông, Ðại thần túc

Lấy tên là Xuất Mật

Các Tỳ-kheo cũng biết

Nhờ trước đã làm phước

Nên nay được cung kính

Cùng mấy trăm Tỳ-kheo

Cùng chu du qua lại

Dù gặp bước đường cùng

Tỳ-kheo Tăng đói khát

Tâm liền tự phát nguyện:

–Tôi muốn được nước mật

Biết tâm tôi đang nghĩ

Mọi người liền trở về

Mang theo mật, cơm ngon

Là để dâng lên tôi

Tức thì tôi thọ nhận

Tự nhiên rất ngon bổ

Ðem cúng Tỳ-kheo Tăng

Khả ý, rất no đủ

Tôi lúc đó sanh ra

Làm con khỉ gieo phước

Ðộ thoát trong chớp nhoáng

Liền được câu cam lồ

Như tôi đã phát nguyện

Liền được như ý muốn

Cúng dường Phật Thế Tôn

Sở cầu được như ý

Nhơn giả, hãy nghĩ rằng:

–Tôi đã tạo công đức

Nên gặt lấy thật quả

Khả ý, tốt, an ổn

Cúng mật Phật như vậy

Ở trong Tỳ-kheo Tăng

Tại ao A-nậu-đạt

Tự nói việc làm xưa.

 

 

30. PHẨM THẾ TÔN (50 bài kệ)

Tất cả Thắng phổ minh

Tất cả thế gian tối

Ðã trừ hết các cấu

Hàng phục các chúng hội

Bậc thông huệ thấy khắp

Ðại nhân thông tất cả

Ðộ các oán, sợ hãi

Thuyền pháp đến bờ kia

Hiểu rõ các huyễn hóa

Vui thay, thương thế gian

Cứu người thoát sanh tử

Vì nghĩa cứu tất cả 

Trừ khử cho mọi người

Ðều mở hết trói buộc

Tối thắng giữa loài người

Thuyết pháp để khai ngộ

Ðại nhơn, huệ vô cùng

Ðại hùng tiếng tăm lớn

Ðại quang, pháp vô biên

Ðộ thoát nhờ tối pháp

Ðại lực hóa không huệ

Khai hóa huệ sáng lớn

Khuyên bảo kiếp chúng sanh

Ðại y sư cứu độ

Thế Tôn phá các oán

Vô thượng trừ ưu sầu

Phật thương mà độ thoát

Ngục lớn chắc trói buộc

Ðại Long, Ðại sư tử

Vô trước, Ðại Tỳ-kheo

Thế Tôn, Ðại trí huệ

Cứu tế chúng trần lao

Tinh tấnđại lực

Phương tiện rất kiên cường

Hàng phục chúng trời, người

Ðạo lớn, tịch tịnh an

Phật Ðại Thiên Trung Thiên

Tất cả các quỷ thần

Ðều lạt chân trí tuệ

Phật thương xót thế gian

Hằng tại sanh tử lớn

Xé rách lưới Ma vương

Thần thông thương tất cả

Ðộ thoát ngục chắc lớn

Ðại Long, Ðại Thiên nhơn

Ở trước các chúng hội

Rộng thí, thí vô cùng

Ðã được đại tịch tịnh

Bậc tôn trưởng tiên nhơn

Ðã độ các tôn pháp

Thành tựu Ðại đệ tử

Ðạo sư đức to lớn

Trên hết trong các Thần

Vô thượng trừ sầu lo

Các nơi độ được khắp

Bậc đủ các tướng tốt

Ðoạn tuyệt các sắc dục

Dứt sạch các ân ái

Khi du hóa Long-vương

ao lớn A-nậu-đạt

Các việc làm thành tựu

Bay lên trên hư không

Chúng đệ tử vây quanh

Năm trăm vị tịch nhiên

Xót thương các chúng sanh

từ hộ với mọi người

Quán sát chúng Tỳ-kheo

Liền tự nói lời rằng:

Nghe rõ lời ta nói

Việc làm ở đời trước

Thân xưa có tạo tác

Nay phải bị dư ương

Thân mạng ta lúc trước

Làm người tên Văn La

Phỉ báng Bích-chi-phật

Thiện diệu, không tỳ vết

Mọi người đều đến hội

Bắt trói Thiệu Diệu sĩ

Bỏ vào ngục, đóng lại

Bắt đi như tử tù

Lúc ấy thấy Sa-môn

Bị trói buộc khổ não

Trong lòng bỗng thương xót

Nên cứu thoát cho Ngài

Bởi do tội ương này

Ðọa địa ngục rất lâu

Sau được sanh làm người

Thường bị đời phỉ báng

Vì nghiệp ương xót lại

Nay là đời cuối cùng

Ði dạo Tu-đà-lợi

Nghị luận phỉ náng ta

Từng là Bà-la-môn

Nghe nhiều, trì đạo thuật

Có năm trăm học chí

Giảng thuật trong rừng cây

Thì có đại thần túc

Tỳ-kheo ngũ thông đến

Ta thấy đạo nhân tới

Phỉ báng dương điều ác

Tiên nhơn nhiều ái dục

Tự cao sống trong rừng

Các Ma-nạp nghe tiếng

Cùng bắt chước ta nói

Thì tất cả học chí

Nhà nhà đi xin ăn

Trong đại chúng phỉ báng

“Tiên nhân có dục uế”

Vì vậy mợi phạm tội

Cô gái Tu-đà-lợi

Năm trăm đệ tử Phật

Cũng đều bị phỉ báng

Phật là hết sức sáng

Bị chửi mắng sai lầm

Biết đệ tử Thế Tra

Người là Sa-môn sao:

Sanh trong ngục Thái Sơn

Khổ đau rất tàn khốc

Vì do dư ương này

Bị điều đạt đôi đá,

Khi ấy đá rơi xuống

Trúng dập ngón chân Phật.

Chèo thuyền vào sông biển

Cùng muốn vượt nước sâu

Khi cùng đi trên thuyền

Rút giao giết thương nhơn

phạm tội báo này

Thân đọa trong địa ngục

Bởi do dư ương này

Gươm sắc hiện trước Phật

Từng ở chợ bắt cá

Lúc đó ta vui mừng

phạm tội này vậy

Ðọa địa ngục Thái Sơn

Thiêu đốt trong Hắc Hằng

Khổ đau rất độc hại

Quốc vương Tỳ-lâu-lặc

Khi giết hại họ Thích

Vì có dư ương này

Ngày nay bị đau đầu

Thời Thế Tôn Duy Vệ

Mắng chửi đệ tử ông

Không nên ăn lúa thơm

Thường bảo ăn lúa sống

Bởi vì phạm tội này

Là do nói lời ác

Ðọa vào ngục Hắc hằng

Thọ khổ không thể được

Vì có dư ương này

Oán kết Bà-la-môn

Thỉnh ta suốt một thời

Ba tháng ăn lúa mạch

Từng là thầy cha bệnh

Chữa bệnh Tôn-giả-tử

Cố ý hốt nhầm thuốc

Khiến bệnh càng thêm nặng

phạm tội lỗi này

Ðọa địa ngục rất khổ

Vì có dư ương này

Cho nên bị kiết lỵ

Ta vào lúc tiền thế

Từng là thầy dạy võ

Cùng lực sĩ đấu nhau

Giết hại người đối thủ

Bởi vì phạm tội này

Thọkhổ không lường được

Vì dư ương này vậy

Nên đau nhừ bên hông

Rằng Nan-đề-hòa-lợi

Khinh chê Phật Ca-diếp

Vì thấy Sa-môn này

Nói:–Không đắc Phật Ðạo.

 

KINH NĂM TRĂM ÐỆ TỬ NÓI VỀ BỔN KHỞI

--- o0o ---

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 43707)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 42907)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 48879)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39608)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53655)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36706)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40694)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49618)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47164)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27516)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 25717)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 29772)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 26984)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 24572)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 21157)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23100)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 23727)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22666)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 29422)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20496)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 34024)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 24519)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 29854)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20092)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20299)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15040)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 23732)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
(Xem: 33920)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 23848)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29037)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 59866)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27444)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68485)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24396)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 26199)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 20637)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 19885)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27380)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46119)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 25404)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29089)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
(Xem: 187694)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
(Xem: 27190)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 30981)
Kinh Pháp Cú (Kinh Lời Vàng), The Path of Truth - Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu - Họa sĩ: Mr. P. Wickramanayaka (vẽ theo bản tiếng Anh mà HT Thích Minh Châu dịch) - Vi tính: Tâm Tịnh
(Xem: 32966)
Tích truyện Pháp Cú - Thiền viện Viên Chiếu - Nguyên tác: "Buddhist Legends", Eugène Watson Burlingame
(Xem: 23857)
Sau 45 năm thuyết pháp, những lời giảng daỵ của Đức Phật không những không bị quên lãng, thất lạc mà còn được lưu giữ, truyền bá mãi đến ngày nay...
(Xem: 25438)
Ta Bà là chốn tạm ở thôi Cửa không mau phải hồi đầu lại Hai sáu nguyện vương tiêu tai chướng Ba ngàn hoá Phật chứng lòng thành
(Xem: 26532)
Cuộc đối thoại đầy đạo vị hứng thú dĩ nhiên được truyền tụng khắp nơi trong giới Phật giáo cũng như ngoài nhân gian. Về sau, vào thế kỷ đầu sau Tây lịch, sợ để khẩu truyền lâu ngày
(Xem: 36409)
Ở phương Ðông cách đây hơn mười căn dà sa cõi Phậtmột thế giới tên là Tịnh Lưu Ly. Ðức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
(Xem: 27167)
Lúc Đức Phật Thích-ca chứng đắc, Chuyển bánh xe chánh pháp độ sanh, Kiều-trần-như được duyên lành, Năm anh em họ viên thành lý chân,
(Xem: 30204)
Phật Thùy Ban Niết Bàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh (Kinh Di Giáo) - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; HT. Thích Trí Quang dịch Việt
(Xem: 37095)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 23784)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Kỳ Thọ Cấp Cô Độc gần thành Xá Vệ, với đại chúng khất sĩ gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị. Hôm ấy vào giờ khất thực, Bụt mặc áo và ôm bát đi vào thành Xá Vệ.
(Xem: 36740)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
(Xem: 27453)
Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm Kinh - Năm trăm Danh Hiệu Phật và Bồ Tát Quán Thế Âm
(Xem: 28181)
Công Phu Khuya
(Xem: 24031)
Nói một cách vắn tắt, sự xuất hiện của Duy-ma-cật là xu hướng khẳng định vai trò tích cực của chúng đệ tử tại gia trong giáo pháp của Phật, về các mặt hành đạo cũng như hóa đạo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant