Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh A Di Đà

26 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 15353)
Kinh A Di Đà


KINH A DI ĐÀ


Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366

Nguyên tác Hán ngữ  [1]

Hán dịch: Diêu Tần Cưu Ma La Thập dịch

Việt dịch: HT Thích Tâm Châu

---o0o--- 
 

Lời Phật Dạy

 

• Điều mình không ưa chớ nên trách người.
• Anh hãy là ngọn đuốc và nơi nương náu cho chính mình anh. Anh đừng nên phó thác vào chốn dung thân nào khác.
• Muốn bình thiên hạ, hãy bình tâm địa trước đã.
• Chiến thắng vạn quân không bằng tự chiến thắng mình. Chiến thắng mình là chiến công oanh liệt nhất!
• Các vị Tỳ khưu, Tỳ khưu ni, thiện nam tín nữ nào luôn luôn làm trọn phận sự, biết ăn ở theo chính giáo, biết noi theo đường chân lý, mới đáng gọi là những người biết tôn kính, thờ phụng, sùng bái, cúng dàng Như Lai bằng cách cao thượng.


Mật Niệm

 

(Thắp đèn đốt hương, toàn thể đứng ngay ngắn,
chắp tay để ngang ngực, mật niệm):

Tịnh pháp giới chân ngôn

Úm lam Sa ha (3 lần)

Tịnh tam nghiệp chân ngôn

Úm sa phạ bà phạ, truật đà sa phạ,
đạt ma sa phạ, bà phạ truật độ hám (3 lần)

(Vị chủ lễ quỳ thẳng, cầm 3 cây hương,
dâng ngang trán, đọc bài nguyện hương)

Nguyện Hương

 

Nguyện đem lòng thành kính,
Gửi theo đám mây hương.
Phảng phất khắp mười phương,
Cúng dường ngôi Tam Bảo.
Thề trọn đời giữ đạo,
Theo tự tính làm lành,
Cùng pháp giới chúng sinh,
Cầu Phật từ gia hộ,
Tâm Bồ đề kiên cố,
Xa bể khổ nguồn mê,
Chóng quay về bờ giác.

 

Kỳ Nguyện

 

Nay đệ tử chúng con, theo lời Phật dạy, phúng tụng kinh chú, trì niệm hồng danh, ngưỡng mong mười phương Tam Bảo, Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Tiếp dẫn Đạo sư A Di Đà Phật, Long Hoa Giáo Chủ Di Lặc Tôn Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Lực Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, chư tôn Bồ Tát, chư Hiền Thánh Tăng, từ bi gia hộ đệ tử chúng con phiền não dứt sạch, tội chướng tiêu trừ, thường được an lành, xa lìa khổ ách, tâm bồ đề bền chắc, chí tu học vững vàng, phúc tuệ song tu, trang nghiêm Tịnh độ. Nguyện cầu chư chân linh, tứ sinh, lục đạo, sớm rõ đường lành, thoát vòng mê muội, ra khỏi u đồ, siêu sinh Lạc quốc. Âm, dương đều lợi, ba cõi cùng nhờ, pháp giới chúng sinh, cùng thành Phật đạo.

 

Tán Phật - Quán Tưởng

 

(Kỳ nguyện xong, vị chủ lễ đứng dậy, đứng thẳng chắp tay và đọc)

Đấng Pháp Vương vô thượng,
Ba cõi chẳng ai bằng,
Thầy dạy khắp trời, người,
Cha lành chung bốn loài.
Quy y trọn một niệm,
Dứt sạch nghiệp ba kỳ,
Xưng dương cùng tán thán,
Ức kiếp không cùng tận.

 

Phật, chúng sinh tính thường rỗng lặng,
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn,
Lưới đế châuđạo tràng,
Mười phương Phật bảo hào quang sáng ngời,
Trước bảo tọa thân con ảnh hiện,
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.

 

Đỉnh Lễ

 

- Chí tâm đỉnh lễ: Nam mô tận hư không, biến pháp giới, quá, hiện, vị lai, thập phương chư Phật, tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trụ Tam Bảo. (1 lạy)

- Chí tâm đỉnh lễ: Nam mô Sa bà giáo chủ, Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Long Hoa giáo chủ đương lai hạ sinh Di Lặc Tôn Phật, Đại trí Văn Thù Sư Lỵ Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp chư tôn Bồ Tát, Đạo tràng hội thượng Phật, BồTát.(1lạy)

- Chí tâm đỉnh lễ: Nam mô Tây phương Cực lạc thế giới đại từ đại bi A Di Đà Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (1 lạy)

 

Trì Tụng

 

Cành dương nước tịnh,
Rưới khắp tam thiên.
Tính không tám đức,
Lợi lạc nhân, thiên.
Thấm nhuần pháp giới,
Tịnh nghiệp tăng diên,
Phúc sinh tội diệt,
Lửa hóa hồng liên.

Úm chiết lệ, chủ lệ chuẩn đề, sa bà ha (10 lần)
Nam mô Thanh lương địa Bồ tát ma-ha-tát (3 lần)

 

Chú Đại Bi

 

(Vị nào muốn tụng chú Đại Bi bằng tiếng Phạm, xin xem ở cuối cuốn kinh này.)

 

Nam-mô Đại bi Hội Thượng Phật, Bồ tát. (3 lần)

Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà-ra-ni:

Nam-mô hát ra đát na đá ra dạ da. Nam-mô A rị gia bà lô kiết đế, thước bát ra da, Bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca ru ni ca da. Úm tất bàn ra phạt duệ, số đát na đát tả. Nam-mô tất kiết lật đỏa, y mông a rị gia bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà.

Nam-mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đá sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đá, na ma bà dà ma phạt đặc đậu. Đát diệt tha. Úm a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế. Di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma la ma la, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu ru cu ru kiết mông, cu ru cu ru, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế. Đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da. Dá la dá la, mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ. Y hê y hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lị. Phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hu lu hu lu ma la. Hu lu hu lu hê lị, sa ra sa ra, si ri si ri, su ru su ru, Bồ đề dạ, Bồ đề dạ, Bồ đà dạ, Bồ đà dạ. Di đế rị dạ, na la cẩn trì, địa rị sắt ni na. Ba dạ ma na sa bà ha. Tất đà dạ sa bà ha. Ma ha tất đà dạ sa bà ha. Tất đà du nghệ thất bàn ra dạ, sa bà ha. Na la cẩn trì, sa bà ha. Ma ra na ra sa bà ha. Tất ra tăng a mục khê gia, sa bà ha. Sa bà ma ha, a tất đà dạ, sa bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, sa bà ha. Ba đà ma kiết tất đà dạ, sa bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, sa bà ha. Ma bà rị thắng kiết ra dạ, sa bà ha.

Nam-mô hát ra đát na đá ra dạ da. Nam-mô a rị gia ba lô kiết đế, thước bàn ra dạ, sa bà ha.

Úm tất điện đô mạn đá ra bạt đà giạ, sa bà ha (3 lần)


Lò hương vừa đốt,
Cõi pháp thơm lây,
Chư Phật bốn biển đều xa hay.
Thấu tâm thành này,
Chư Phật hiện thân ngay.

Nam-mô Hương vân cái Bồ tát ma-ha-tát (3lần)

 

Chân ngôn sạch nghiệp khẩu

Tu lỵ, tu lỵ, ma ha tu lỵ, tu tu lỵ, sa bà ha (3 lần)

 

Chân ngôn sạch nghiệp thân

Tu đa lỵ, tu đa lỵ, tu ma lỵ, sa bà ha (3 lần)

 

Chân ngôn sạch ba nghiệp

Úm sa phạ bà phạ, truật đà sa phạ, đạt ma sa phạ, bà phạ truật độ hám. (3 lần)

 

Chân ngôn an thổ địa

Nam-mô tam mãn đá một đà nẫm, úm độ rô độ rô địa vĩ, sa bà ha. (3 lần)

 

Chân ngôn phổ cúng dường

Úm nga nga nẵng tam bà phạ phiệt nhật la hộc. (3 lần)

 

Kệ Khai Kinh

Pháp Phật cao siêu rất nhiệm mầu,
Nghìn muôn ức kiếp dễ hay đâu.
Con nay nghe, thấy, xin vâng giữ,
Chân nghĩa Như Lai hiểu thật sâu.

 

Nam-mô bổn sư Thích ca Mâu ni Phật. (3 lần)
Nam-mô liên trì hội thượng Phật, Bồ tát. (3 lần)

 

Phật nói Kinh A Di Đà

 

Chính tôi được nghe: vào một thời kia, đức Phật trụ ở vườn Cấp-cô-độc, rặng cây Kỳ-đà, thuộc nước Xá-vệ, cùng với một nghìn hai trăm năm mươi đại tỳ khưu tăng, các vị ấy đều là đại la hán, là bậc tri thức trong hàng tăng chúng, như là các ngài: trưởng lão Xá-lỵ-phất, Ma-ha Mục-kiền-liên, Ma-ha Ca - diếp, Ma-ha Ca-chiên-diên, Ma-ha Câu-hy-la, Lỵ-bà-đa, Chu-lỵ-bàn-đà-già, Nan-đà, A-nan- đà, La-hầu-la, Kiều-phạm-ba-đề, Tân đầu-lư-phả-la-đọa, Ca-lưu-đà -di, Ma-ha Kiếp-tân-na, Bạc-câu-la, A-nâu-lâu-đà... Đấy là các vị hàng đại đệ tử. Lại gồm các vị hàng đại Bồ tát: Văn-thù-sư-lỵ Pháp vương tử, A-dật-đa Bồ tát, Kiền-đa - ha-đề Bồ tát, Thường-tinh-tiến Bồ tát... Cùng với các vị đại bồ tát khác, và cùng vô lượng đại chúng chư thiên: Thích-đề-hoàn-nhân..., tất cả đều cùng ở trong pháp hội.

 

Bấy giờ, đức Phật bảo ngài trưởng lão Xá-lỵ-phất rằng: Từ sa-bà này hướng về phương tây quá mười vạn ức cõi nước chư Phật, có một thế giới gọi là Cực Lạc, mà cõi ấy có đức Phật hiệu là A-Di-Đà-Phật và nay ngài đang thuyết pháp tại đó.

 

Này Xá-lỵ-phất, tại sao cõi kia gọi là Cực Lạc? Chúng sinh cõi ấy không có đau khổ và thuần hưởng thụ những sự vui sướng, vì vậy cho nên gọi là Cực Lạc.

 

Lại còn đây nữa, ông Xá-lỵ-Phất, nước Cực Lạc có bảy trùng lan can, bảy trùng màn lưới, bảy trùng hàng cây, những trùng trùng đó bằng bốn ngọc báu, vây bọc xung quanh, thế nên nước kia gọi là Cực Lạc.

 

Lại còn đây nữa, ông Xá-lỵ-phất, cõi Cực Lạc có hồ ao bảy báu, nước tám công đức tràn đầy trong ấy. Lại lấy cát vàng trải khắp đáy ao. Và đường bốn bên đều hợp thành bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê cao quý. Lâu các trên ao đều nghiêm sức bằng vàng bạc, lưu ly, pha lê, xà cừ, xích châu, mã não. Hoa sen màu xanh tỏa ánh sáng xanh, hoa sen màu vàng tỏa ánh sáng vàng, hoa sen màu đỏ tỏa ánh sáng đỏ, hoa sen màu trắng tỏa ánh sáng trắng, các hoa sen ấy có những hương vị thanh khiết vi diệu. Này Xá-lỵ-phất, cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm như thế!

 

Lại còn đây nữa, ông Xá-lỵ-phất, nước đức Phật kia thường trổi âm nhạc của các cõi trời; đất bằng vàng ròng, ngày đêm sáu thời, thường thường rải xuống hoa mạn-đà-la. Chúng sinh cõi ấy cứ sáng sớm ra, đem những lẳng hoa, đựng nhiều hoa quý, cúng dường chư phương mười vạn ức Phật. Và trong giây lát họ đã về ngay tới nước của họ, đúng kịp bữa ăn. Ăn uống xong rồi, họ đi kinh hành. Này Xá-lỵ-phất, cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm như thế!

 

Lại còn đây nữa, ông Xá-lỵ-phất, nước kia thường có đủ các giống chim, màu sắc lạ đẹp, như chim bạch hạc, khổng tước, anh vũ, cùng chim xá-lỵ, ca-lăng- tần-già và chim cộng-mệnh. Các giống chim ấy, ngày đêm sáu thời, hót tiếng hòa nhã. Trong những tiếng ấy diễn tỏ diệu pháp: năm căn, năm lực, bảy bồ- đề-phận, tám thánh-đạo-phận. Những diệu pháp ấy, chúng sinh cõi này khi nghe được rồi, hết thảy đều niệm: niệm phật, niệm pháp, niệm tăng. Này Xá-lỵ-phất, ông đừng cho rằng các giống chim ấy, do tội báo sinh. Như thế là sao? Cõi nước Phật kia, không ba đường ác! Này Xá-lỵ-phất, nước Phật Di-đà, không tên đường ác, huống là có thực! Các giống chim ấy, do Phật Di-đà muốn cho pháp âm lan rộng cùng khắp, ngài biến hóa ra hình tướng như thế!

 

Này Xá-lỵ-phất, cõi nước Phật kia, gió hiu hiu thổi, rung các cây báu cùng những lưới báu phát ra những tiếng êm dịu nhiệm mầu, như trăm nghìn nhạc đồng thời trổi lên. Ai nghe tiếng ấy, tâm tự nhiên sinh: niệm phật, niệm pháp, niệm tăng. Này Xá-lỵ-phất, cõi nước Phật kia thành tựu công đức trang nghiêm như thế!

 

Này Xá-lỵ-phất, ý ông nghĩ sao? Với đức Phật kia, tại sao lại có hiệu A-di-đà? Này Xá-lỵ-phất, đức Phật kia có vô lượng quang minh soi khắp mười phương, không gì chướng ngại, nên có tên hiệu là A-di-đà. Lại còn đây nữa, ông Xá-lỵ-phất, nói về thọ mệnh của đức Phật kia và cả nhân dân, vô lượng vô biên a - tăng-kỳ kiếp, nên có tên hiệu là A-di-đà.

 

Này Xá-lỵ-phất, Phật A-di-đà thành Phật đến nay đã là mười kiếp!

 

Lại còn đây nữa, ông Xá-lỵ-phất, đức Phật kia có vô lượng vô biên đệ tử Thanh- văn. Các vị đều là bậc A-la-hán, số lượng rất nhiều, không tính hết được. Cả đến Bồ tát cũng đều như thế. Này Xá-lỵ-phất, nước đức Phật kia thành tựu công đức trang nghiêm như thế!

 

Lại còn đây nữa, ông Xá-lỵ-phất, chúng sinh các nơi sinh sang Cực Lạc, đều là các vị chứng ngôi bất thoái. Và trong số đó có rất nhiều vị nhất sinh bổ xứ. Mà số nhiều ấy không thể tính toán để biết hết được, hoặc chỉ nói lên bằng với con số vô lượng vô biên a-tăng-kỳ thuyết.

 

Này Xá-lỵ-phất, chúng sinh được nghe danh hiệu Phật kia, cần nên phát nguyện, nguyện sinh Cực Lạc. Như thế là sao? Vì được cùng với bậc thượng-thiện-nhân hội họp một chốn! Này Xá-lỵ-phất, không thể chỉ có một chút nhân duyên phúc đức thiện căn mà được sinh sang cõi nước Phật kia! Này Xá-lỵ-phất, nếu có thiện namthiện nữ nào, nghe được danh hiệu Phật A-di-đà, trì danh hiệu ấy một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày, cho đến bảy ngày, nhất tâm không loạn, khi thọ mệnh hết, người ấy sẽ được Phật A-di-đà, cùng các thánh chúng, hóa hiện ngay trước, khiến cho khi mất, tâm không điên đảo, liền được đưa sang cõi nước Cực Lạc của Phật Di-đà.

 

Này Xá-lỵ-phất, tôi thấy lợi ấy, nói ra lời này, mong chúng sinh nào nghe lời nói ấy, thì nên phát nguyện, sinh sang nước kia!

 

Này Xá-lỵ-phất, như tôi ngày nay tán thán công đức và những lợi ích không thể nghĩ bàn của Phật Di-Đà, thì nơi phương Đông có các đức Phật: A-Súc-Bệ Phật, Tu-Di-Tướng Phật, Đại-Tu-Di Phật, Tu-Di-Quang Phật, và Diệu-Âm Phật. Chư Phật như thế, số lượng nhiều như số cát sông Hằng, các Ngài trụ tại nơi nước các Ngài, hoan hỷ xuất ra tướng quảng-tràng-thiệt, che khắp tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thực, khuyên các chúng sinh: “Chúng sinh cần nên tin tưởng về sự xưng tán công-đức không thể nghĩ bàn của kinh Di-Đà mà hết thảy Phật đã thường hộ-niệm”.

 

Này Xá-lỵ-phất, thế giới phương Nam có các đức Phật: Nhật-Nguyệt-Đăng Phật, Danh-Văn-Quang Phật, Đại-Diệm-Kiên Phật, Tu-Di-Đăng Phật, Vô-Lượng Tinh-Tiến Phật. Chư Phật như thế, số lượng nhiều như số cát sông Hằng, các Ngài trụ tại nơi nước các Ngài, hoan hỷ xuất ra tướng quảng-tràng-thiệt, che khắp tam thiên đại-thiên thế-giới, nói lời thành-thực, khuyên các chúng sinh: “Chúng sinh cần nên tin tưởng về sự xưng tán công đức không thể nghĩ bàn của kinh Di-Đà mà hết thảy Phật đã thường hộ niệm.”

 

Này Xá-lỵ-phất, thế giới phương Tây có các đức Phật: Vô-Lượng-Thọ Phật, Vô-Lượng-Tướng Phật, Vô-Lượng-Tràng Phật, Đại-Quang Phật, Đại-Minh Phật, Bảo-Tướng Phật, Tịnh-Quang Phật. Chư Phật như thế, số lượng nhiều như số cát sông Hằng, các Ngài trụ tại nơi nước các Ngài, hoan hỷ xuất ra tướng quảng-tràng-thiệt, che khắp tam thiên đại-thiên thế giới nói lời thành thực, khuyên các chúng sinh: “Chúng sinh cần nên tin tưởng về sự xưng tán công đức không thể nghĩ bàn của kinh Di-Đà mà hết thảy Phật đã thường hộ niệm.”

 

Này Xá-lỵ-phất, thế giới phương Bắc có các đức Phật: Diệm-Kiên Phật, Tối- Thắng-Âm Phật, Nan-Tử Phật, Nhật-Minh Phật, Võng-Minh Phât. Chư Phật như thế, số lượng nhiều như số cát sông Hằng, các Ngài trụ tại nơi nước các Ngài hoan hỷ xuất ra tướng quảng-tràng-thiệt, che khắp tam thiên đại thiên thế giới nói lời thành thực, khuyên các chúng sinh: “Chúng sinh cần nên tin tưởng về sự xưng tán công đức không thể nghĩ bàn của kinh Di-Đà mà hết thảy Phật đã thường hộ niệm.”

 

Này Xá-lỵ-phất, thế giới hạ phương có các đức Phật: Sư-Tử Phật, Danh-Văn Phật, Danh-Quang Phật, Đạt-Ma Phật, Pháp-Tràng Phật, Trì-Pháp Phật. Chư Phật như thế, số lượng nhiều như số cát sông Hằng, các Ngài trụ tại nơi nước các Ngài, hoan hỷ xuất ra tướng quảng-tràng-thiệt, che khắp tam thiên đại thiên thế giới nói lời thành thực, khuyên các chúng sinh: “Chúng sinh cần nên tin tưởng về sự xưng tán công đức không thể nghĩ bàn của kinh Di-Đà mà hết thảy Phật đã thường hộ niệm.”

 

Này Xá-lỵ-phất, thế giới thượng phương có các đức Phật: Phạm-Âm Phật, Tú- Vương Phật, Hương-Thượng Phật, Hương-Quang Phật, Đại-Diệm-Kiên Phật, Tạp-Sắc-Bảo Hoa-Nghiêm-Thân Phật, Sa-La-Thụ-Vương Phật, Bảo-Hoa-Đức Phật, Kiến-Nhất-Thiết-Nghĩa Phật, Như-Tu-Di-Sơn Phật. Chư Phật như thế, số lượng nhiều như số cát sông Hằng, các Ngài trụ tại nơi nước các Ngài, hoan hỷ xuất ra tướng quảng-tràng-thiệt, che khắp tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thực, khuyên các chúng sinh: “Chúng sinh cần nên tin tưởng về sự xưng tán công đức không thể nghĩ bàn của kinh Di-Đà mà hết thảy Phật đã thường hộ niệm.”

 

Này Xá-lỵ-phất, ý ông nghĩ sao? Tại sao gọi là hết thẩy chư Phật hộ niệm kinh này? Này Xá-lỵ-phất, nếu có thiện namthiện nữ nào, nghe và thụ trì kinh giáo này đây, cũng như nghe được danh hiệu chư Phật, tất cả thiện namthiện nữ ấy, đều được hết thẩy chư Phật hộ niệm, được ngôi bất thoái trong đạo vô thượng chính đẳng chính giác. Vì thế cho nên, ông Xá-lỵ-phất, các ông đều nên tin nhận lời tôi và lời chư Phật.

 

Này Xá-lỵ-phất, nếu có người nào đã phát nguyện rồi, nay đang phát nguyện hay sẽ phát nguyện, muốn được sinh sang nước Phật Di-Đà, người ấy chứng được ngôi bất thoái chuyển, trong đạo vô thượng chính đẳng chính giác một khi đã sinh hay nay đang sinh, hoặc là sẽ sinh sang cõi nước kia. Vì thế cho nên, ông Xá-lỵ-phất, các thiện nam tửthiện nữ nhân, nếu có tín tâm, cần nên phát nguyện sinh sang nước kia!

 

Này Xá-lỵ-phất, như tôi hôm nay xưng tán công đức không thể nghĩ bàn của các đức Phật, các đức Phật ấy lại cũng xưng tán công đức của tôi không thể nghĩ bàn, mà thốt lên rằng: “Đức Phật Thích-Ca hay làm những việc khó khăn, hy hữu, thường hay ở trong cõi nước sa bà, năm thứ ác trược: kiếp trược, kiến trược với phiền não trược, với chúng sinh trược, cùng là mệnh trược, được đạo vô thượng chính đẳng chính giác, vì mọi chúng sinh, nói ra những pháp mà cả thế gian cho là khó tin.”

 

Này Xá-lỵ-phất, ông nên biết tôi ở trong cõi đời năm thứ ác trược, làm việc khó làm, được đạo vô thượng chính đẳng chính giác, vì cả thế gian, nói ra những pháp, cho là khó tin, đấy thực là khó!

 

Khi đức Phật nói kinh này xong rồi, ông Xá-lỵ-phất và các Tỳ khưu, hết thảy thế gian, các chúng trời, người và A-tu-la... nghe Phật nói pháp, hoan hỷ tín thụ, làm lễ mà lui.

 

Đà-ra-ni bạt hết thẩy nghiệp chướng căn bản được sinh tịnh độ

 

Nam mô a di đá bà dạ, đá tha già đá dạ, đá địa dạ tha, a di rị đô bà tỳ, a di rị đá tất đam bà tỳ, a di rị đá tỳ ca lan đế, a di rị đá tỳ ca lan đá, già di nhị, già già na, chỉ đá ca lệ, sa-bà-ha. (3 lần)

 

Liên trì hải hội, Di-đà Như lai
Quán-âm, Thế-chí, ngồi trên liên đài.
Tiếp dẫn chúng sinh, cùng lên kim giai.
Nguyện lớn rộng mở, mong khỏi trần ai.

Nam-mô Liên trì hội thượng Phật, Bồ tát ma-ha-tát. (3 lần)

 

Tâm Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa

 

Khi Ngài Quán-tự-tại Bồ tát thực hành sâu xa pháp Bát nhã ba-la-mật-đa, Ngài soi thấy năm uẩn đều không, qua hết thảy khổ ách.

 

Này ông Xá-lỵ-tử! Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc, Sắc tức là Không, Không tức là Sắc. Thụ, Tưởng, Hành, Thức cũng đều như thế!

 

Này ông Xá-lỵ-tử! Tướng “không” của mọi pháp, không sinh, không diệt, không nhơ, không sạch, không thêm, không bớt.

 

Cho nên trong “chân không” không có Sắc, không có Thụ, Tưởng, Hành, Thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không có nhãn giới cho đến không có ý thức giới; không có vô minh, cũng không có cái hết vô minh; cho đến không có già chết, cũng không có cái hết già chết; không có khổ, tập, diệt, đạo; không có trí tuệ, cũng không có chứng đắc.

 

Vì không có chỗ chứng đắc, nên Bồ tát y theo Bát-nhã ba-la-mật-đa, tâm không ngăn ngại. Vì không ngăn ngại, nên không sợ hãi, xa hẳn mộng tưởng điên đảo, đạt tới cứu cánh Niết bàn.

 

Chư Phật trong ba đời cũng y vào Bát-nhã ba-la-mật-đa, được đạo quả vô thượng chánh đẳng chánh giác.

 

Cho nên biết Bát-nhã ba-la-mật-đađại thần chú, là đại minh chú, là vô thượng chú, là vô đẳng đẳng chú, trừ được hết thảy khổ, chân thực không hư.

 

Vì vậy, nói ra bài chú Bát-nhã ba-la-mật-đa, liền nói bài chú ấy rằng:

 

“Yết đế, yết đế, Ba la yết đế. Ba la tăng yết đế. Bồ đề tát bà ha” (3 lần)

 

Niệm Phật

 

A-di-đà Phật mình vàng,
Dung quang rực rỡ mười phương khôn bì,
Chiếu vòng năm núi Tu-di,
Mắt như bốn biển cực kỳ trong xanh.
Hào quang hóa hiện Phật hình,
Biến ra Bồ tát cũng thành vô biên.
Độ sinh bốn tám lời nguyền,
Tiếp cho chín phẩm đều lên đài vàng.

Nam-mô Tây phương Cực lạc thế giới đại-từ đại-bi A-di-đà Phật (3 lần)

Nam-mô A-di-đà Phật (tùy niệm nhiều ít)
Nam-mô Quán-thế-âm bồ tát (10 lần)
Nam-mô Đại-thế-chí bồ tát (10 lần)
Nam-mô Địa-tạng-vương bồ tát (10 lần)
Nam-mô Thanh-tịnh Đại-hải-chúng bồ tát. (10 lần)

 

Sám nguyện

 

Mười phương chư Phật ba đời,
Di-đà bậc nhất phát lời độ tha,
Độ lên chín phẩm liên hoa,
Trang nghiêm oai đức so ra ai bì.
Con nay trọn niệm quy-y,
Sám thanh ba nghiệp tội chi không còn.
Vun trồng phúc thiện nơi con,
Đem hồi hướng khắp được tròn công duyên.
Mong người niệm Phật tinh chuyên,
Được phần cảm ứng tùy duyên, tùy thời;
Lâm chung lạc cảnh hiện bày,
Rõ ràng trước mắt không sai chút nào.
Thấy, nghe tinh tiến nâng cao,
Cùng về Cực lạc tiêu dao tháng ngày.
Thoát sinh tử, thấy Phật ngay,
Theo như Phật độ muôn loài hữu duyên.
Vô biên phiền não dứt liền,
Pháp môn vô lượng tinh chuyên tu trì.
Chúng sinh độ hết không từ,
Đều thành Phật đạo không dư không còn.
Hư không dù có tiêu mòn,
Nguyện con phát nguyện vẫn còn nguyên tinh.
Hữu tình cùng với vô tình,
Viên thành Phật trí thanh thanh thoát trần.

 

 

Cúi lạy phương tây cõi An lạc,
Tiếp dẫn chúng sinh Đại-đạo-sư.
Nay con phát nguyện, nguyện vãng sinh,
Nhờ lượng từ bi xin nhiếp-thụ.

Đệ tử chúng con, vì khắp tất cả, bốn ơn ba cõi pháp giới chúng sinh, cầu đạo bồ đề, nhất thừa vô thượng, chuyên tâm trì niệm A-di-đà Phật, muôn đức hồng danh, cầu sinh Tịnh độ. Đệ tử chúng con, phước cạn nghiệp sâu, chướng dầy tuệ mỏng, nhiễm tâm dễ khởi, tịnh đức khó thành, nay đối Từ Tôn, kính gieo năm vóc, bày tỏ một lòng, chí thành sám hối. Con và chúng sinh, khoáng kiếp đến nay, mê tâm bản tịnh, phóng tham, sân, si, nhiễm nhơ ba nghiệp, vô lượng vô biên, tội cấu đã gây, vô lượng vô biên, nghiệp oan đã kết, nguyện đều tiêu diệt. Nguyện từ hôm nay, lập thệ nguyện sâu, xa lìa pháp ác, thề không còn tạo; siêng tu đạo thánh, thề chẳng biếng lui, thề thành chính giác, thề độ chúng sinh. Xin đức Từ Tôn, dùng nguyện từ bi, chứng biết lòng con, thương xót đến con, gia bị cho con. Nguyện khi thiền quán, hoặc lúc mộng mơ, được thấy thân vàng A-di-đà Phật, được chơi cõi tịnh của đức Đạo Sư, được nhờ Từ Tôn, cam lộ rưới đầu, quang minh soi thân, tay xoa đầu con, áo đắp thân con, khiến cho chúng con, chướng cũ tự trừ, căn lành thêm lớn, mau tiêu phiền não, chóng phá vô minh, viên giác diệu tâm, bỗng nhiên khai ngộ, Tịch quang cảnh thật, thường được hiện tiền. Đến lúc lâm chung, biết ngày giờ trước, thân không hết thảy bệnh khổ ách nạn, tâm dứt hết thảy tham luyến mê hoặc, các căn vui đẹp, chính niệm phân minh, xả báo an lành, như vào thiền định. Phật A-di-đà, Quán-âm, Thế-chí, cùng thánh hiền chúng phóng quang tiếp dẫn, giơ tay dắt dìu, lâu các tràng phan, nhạc trời hương lạ, Tây phương cảnh Phật, bày hiện rõ ràng, khiến cho chúng sinh, kẻ thấy người nghe, mừng vui khen cảm, phát bồ-đề-tâm. Bấy giờ thân con ngồi đài kim cương, bay theo sau Phật, như khảy móng tay, sinh vào sen báu, nơi ao thất bảo, ở cõi Tây phương. Khi hoa sen nở thấy Phật, Bồ tát, nghe tiếng pháp mầu, chứng vô sinh nhẫn, giây phút lại đi, thừa sự chư Phật, nhờ ơn thụ ký. Được thụ ký rồi, ba thân bốn trí, năm nhãn sáu thông, vô lượng trăm nghìn môn đà-ra-ni, hết thảy công đức đều được thành tựu. Từ đó về sau, không rời an dưỡng, trở lại sa-bà, phân thân vô số, khắp cả mười phương, dùng sức thần thông tự tại khó bàn, và các phương tiện, độ thoát chúng sinh, đều khiến lìa nhiễm, chứng được tịnh tâm, đồng sinh Tây phương, lên ngôi bất thoái.

 

Nguyện lớn như vậy, thế giới không tận, chúng sinh không tận, nghiệp và phiền não, thảy đều không tận, đại nguyện của con cũng không cùng tận. Nay con lễ Phật, phát nguyện tu trì, xin đem công đức, hồi thí hữu tình, bốn ơn khắp báo, ba cõi đều nhờ, pháp giới chúng sinh, trọn thành Phật trí.

 

Hồi hướng

 

Công đức tụng kinh khó nghĩ lường,
Vô biên thắng phước đều hồi hướng.
Khắp nguyện chúng sinh trong pháp giới;
Đều được vãng sinh về Cực-lạc.
Nguyện tiêu ba chướng trừ phiền não,
Nguyện chân trí tuệ thường sáng tỏ,
Nguyện bao tội chướng thảy tiêu trừ,
Kiếp kiếp thường tu Bồ tát đạo.
Nguyện sinh Cực Lạc cảnh phương Tây,
Chín phẩm hoa sencha mẹ,
Hoa nở thấy Phật chứng vô sinh,
Bồ Tát bất thoái là bạn hữu.

 

Phục nguyện

 

Kính mong:

Phật nhật tỏ thêm, pháp luân quay mãi. Mây từ rợp khắp, nguồn đạo dài lâu. Quốc gia hưng vượng, dân chúng an hòa. Thế giới thanh bình, chúng sinh hoan lạc.

Cúi xin:

Công đức trì chú, niệm Phật, tụng kinh, hồi hướng Tây phương, trang nghiêm Tịnh độ; báo bốn trọng ân, giúp ba đường khổ. Hiện tiền tứ chúng, tăng trưởng thắng nhân; quá vãng chân linh, siêu sinh lạc quốc. Âm dương đều lợi, ba cõi cùng nhờ, pháp giới chúng sinh, đồng thành Phật đạo.

 

(Đại chúng cùng đọc)

Nam-Mô A-Di-Đà Phật

 

Tự quy

(Đại chúng đứng dậy, chắp tay đọc)

 

Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sinh, thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng. (1 lạy)

Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sinh, thấu rõ kinh tạng, trí tuệ như biển. (1 lạy)

Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sinh, thống lý đại chúng, hết thảy không ngại. (1 lạy)

 

Nguyện đem công đức này,
Hướng về khắp tất cả.
Đệ tửchúng sinh,
Đều trọn thành Phật đạo.


(Xá 3 xá rồi lui ra)

 

 

Chú Đại Bi bằng tiếng Phạm
The Mantra of Aralokiteshrara

01. Namo ratnatrayaya
02. Namo Aryavalokiteshvaraya
03. Bodhisattvaya Mahasattvaya Mahakarunikaya
04. Om sarva abhayah sunadhasya
05. Namo Sukrtvemama Arayavalokiteshvaragarbha
06. Namo Nilakantha Mahabhadrashrame
07. Sarvarthasubham ajeyam sarvasattvanamavarga mahadhatu
08. Tadyatha Om avaloke lokite karate
09. Hari mahabodhisattva sarva sarva mala mala
10. Mahahrdayam kuru kuru karmam
11. Kuru vijayati Mahavijayati
12. Dharadhara dharin surava
13. Chala chala mama Bharmara muktir
14. Ehi Ehi chinda chinda harsham prachali
15. Basha basham presaya hulu hulu mala
16. Hulu hulu hile sara sara siri siri suru suru
17. Bodhiya Bodhiya Bodhaya Bodhaya
18. Maitreya Nilakantha Dharshinina
19. Payamana svaha Siddhaya svaha Maha sid dhaya svaha
20. Siddhayogeshvaraya svaha. Nilakantha svaha
21. Varahananaya svaha. Simhashiramukhaya svaha
22. Sarvamahasiddhava svaha. Chakrasiddhaya svaha
23. Padmahastaya svaha. Nilakanthavikaraya svaha
24. Maharsishankaraya svaha
25. Namo ratnatrayaya
26. Namo Aryavalokiteshvaraya svaha
27. Om Siddhyantu Mantrapadaya Svaha.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22748)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 11541)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 19048)
"Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật".
(Xem: 23719)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 13119)
Một thời Đức Thế Tôn ở tại cung điện của chú tể Đại dương, cùng với chúng đại tỳ kheo tám ngàn vị và chúng đại bồ tát ba mươi hai ngàn vị.
(Xem: 12878)
Người giảng: Lão Hòa thượng Tịnh Không; Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ – Viên Đạt cư sĩ; Biên tập: Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 12765)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 215, Hán dịch Pháp Cự; Việt dịch: Thích Bảo An
(Xem: 12897)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 706, Bộ Kinh Tập, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Thiên Ân
(Xem: 14191)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Hoa Nghiêm, Kinh số 0301, Hán dịch: Thật Xoa Nan Ðà; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 105544)
Sám văn gồm có ba cuốn ngày nay là sám văn ấy. Đem nước từ bi tam muội rửa sạch oan nghiệp nhiều kiếp, lấy ý nghĩa đó để mệnh danh Thủy sám... HT Thích Trí Quang
(Xem: 14498)
Trong đời mạt pháp, các đệ tử của ta chỉ đeo đuổi theo bên ngoài, ít có ai quan niệm đến vấn đề Sanh Tử... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 19630)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0665, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 38293)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0642; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Định Huệ
(Xem: 13901)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0639, Hán dịch: Na Liên Ðề Da Xá, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12737)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0628, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích nữ Tịnh Nguyên
(Xem: 13567)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0626, Hán dịch: Chi Lâu Ca Sấm, Việt dịch: Phật tử Phước Thắng
(Xem: 12393)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0619, Hán dịch: Đàm Ma Mật Đa, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 19285)
Từ Bi Thủy Sám Pháp - Trước thuật: Ngộ Đạt Thiền Sư; Dịch Giả: Thích Huyền Dung
(Xem: 26882)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, số 2076, Nguyên tác Đạo Nguyên, Việt dịch: Lý Việt Dũng
(Xem: 13368)
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí-Tịnh, Anh dịch: Quảng Định / Quảng Hiếu hiệu đính, Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 21473)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0615, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 17855)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0614, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 14080)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0600, Hán dịch: Thực Soa Nan Đà, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 15962)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0599, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 14966)
Đại Chánh Tân Tu - Kinh số 685; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Hạnh Cơ
(Xem: 14021)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0232 - Hán dịch: Mạn Ðà La Tiên; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 13054)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0226 - Hán dịch: Đàm Ma Ty, Trúc Phật Niệm; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 14305)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0592 - Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 19526)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0590; Hán dịch: Trí NghiêmBảo Vân ; Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 16613)
Trong Tam tạng Kinh điển tất cả giáo PhápTiểu Thừa hay Đại Thừa, dù tại gia hay xuất gia, Giới Luật luôn là phần trọng yếu nhất... Ngài Hoằng Tán lược sớ - Thích Nữ Trí Hải (tự Như Hải) dịch
(Xem: 21011)
Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm - Hán dịch: Bát Lạt Mật Đế; Việt dịch và chú thích: Hạnh Cơ
(Xem: 14672)
Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận - Dịch giả: TT Thích Viên Giác; Xuất bản năm 1963
(Xem: 38981)
Đêm nay ngày lành Nguyên đán, Giờ này phút thiêng giao thừa, Chúng con : Tuân lệ cổ tục ngày xưa, Mở cửa nghinh xuân tiếp phước.
(Xem: 19177)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0579; Hán dịch: Thất Dịch; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Châu
(Xem: 14578)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0549; Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Thiện
(Xem: 15985)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0475 - Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Do Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 14516)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0502 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 15101)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0508 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14773)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0466; Hán dịch: Tỳ Ni Đa Lưu Chi; Việt dịch: Thích Nữ Tuệ Thành
(Xem: 15396)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0464; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 38863)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0456; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 13962)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0455; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 24310)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0454; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 14215)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0453; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 19275)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 17818)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 21306)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 19546)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích Nguyên Chơn
(Xem: 17343)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0450; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14665)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0449; Hán dịch: Ðạt Ma Cấp Ða; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 13755)
Kinh Ưu Bà Tắc, kinh số 128, thuộc bộ Trung A Hàm, tạng Đại Chánh - Hán dịch: Cù Đàm Tăng Già Đề Bà; Việt dịch: cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 13632)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0516; Hán dịch: Thí Hộ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 13982)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0762 - Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 21727)
KINH A DI ĐÀ (Văn Vần)... Như Lai Phật Tổ lúc này, Tại vườn Cô Độc rừng cây Kỳ Đà; Cách thành Xá Vệ không xa, Là nơi Phật ở nói ra kinh này... HT Thích Khánh Anh
(Xem: 16627)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0680; Hán dịch: Pháp sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tịnh Quang
(Xem: 15112)
Kinh Tám Đề Tài Giác Ngộ Của Các Bậc Đại Nhân (Kinh Bát Đại Nhân Giác) - Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 14412)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0506, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 13911)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0777, Hán dịch: Bạch Pháp Tổ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14235)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0367, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Quảng Minh
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant