Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Xưng Tán Tịnh Ðộ Phật Nhiếp Thọ

26 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 12284)
Kinh Xưng Tán Tịnh Ðộ Phật Nhiếp Thọ


Kinh Xưng Tán Tịnh Ðộ Phật Nhiếp Thọ


Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0367

Nguyên tác Hán ngữ  [1]

Ðại Ðường Tam Tạng pháp sư Huyền Trang(1) vâng chiếu dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán

Dịch Việt: Như Hòa

Chứng nghĩa: Thượng Tọa Thích Nguyên Trí Viện Chủ Chùa Bát Nhã (Santa Ana)

---o0o--- 
 


Tôi nghe như thế này: Một thời, đức Bạc Già Phạm (2) ở tại vườn Cấp Cô Ðộc (3) trong rừng Thệ Ða (4) nơi thành Thất La Phiệt (5) và các đại tỳ kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị câu hội. Hết thảy đều là bậc tôn túc thanh văn, là bậc đại A La Hán được mọi người ngưỡng vọng. Tên họ là: tôn giả Xá Lợi Tử, Ma Ha Mục Kiện Liên, Ma Ha Ca Diếp, A Nê Luật Ðà (6)... Các vị đại Thanh Văn như vậy làm thượng thủ.
Lại có vô lượng Bồ Tát Ma Ha Tát cùng câu hội. Hết thảy các ngài đều trụ địa vị bất thối chuyển, trang nghiêm bằng vô lượng công đức, tên các ngài là: Diệu Cát Tường Bồ Tát (7), Vô Năng Thắng Bồ Tát (8) , Thường Tinh Tấn Bồ Tát, Bất Hưu Tức Bồ Tát. Các vị đại Bồ Tát như vậy làm thượng thủ.
Lại có Ðế Thích, Ðại Phạm Thiên Vương chủ của thế giới Kham Nhẫn (9), Hộ Thế tứ vương... các vị thượng thủ như vậy, các vị thiên tử số đến trăm ngàn câu chi na dữu đa (10) và vô lượng thiên nhân khác trong thế giới, a tố lạc (11) v.v.. vì nghe pháp nên cùng đến dự hội.
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo ông Xá Lợi Tử:
- Ông nay biết chăng? Từ phương Tây của thế giới này qua khỏi trăm ngàn câu chi na dữu đa cõi Phậtthế giới Phật tên là Cực Lạc. Ðức Thế Tôn trong cõi ấy tên là Vô Lượng ThọVô Lượng Quang Như Lai, Ứng Chánh Ðẳng Giác, mười hiệu viên mãn nay hiện đang trụ trì an ổn nơi cõi ấy, vì các hữu tình (12) tuyên nói pháp vi diệu thậm thâm, khiến họ được lợi ích an lạc thù thắng.
Lại này Xá Lợi Tử! Nhân gì duyên gì thế giới Phật ấy tên là Cực Lạc?
Này Xá Lợi Tử! Do các loài hữu tình trong thế giới ấy chẳng có hết thảy đau khổ lo lắng nơi thân, nơi tâm, chỉ có vô lượng hỷ lạc thanh tịnh. Vì vậy gọi là thế giới Cực Lạc.
Lại này Xá Lợi Tử! Trong cõi Phật thanh tịnh Cực Lạc thế giới chốn chốn đều có bảy lớp lan can bằng diệu bảo, bảy lớp hàng cây đa la báu, bảy lớp lưới mành bằng các diệu bảo bao trọn khắp cả, trang hoàng bằng bốn báu: kim bảo, ngân bảo, báu phệ lưu ly (13), báu phả chi ca (14) xen lẫn nhau trang hoàng đẹp đẽ.
Này Xá Lợi Tử! Trong cõi Phật ấy có các thứ công đức trang nghiêm đẹp đẽ mầu nhiệm thế ấy rất đáng ưa thích. Vì vậy, gọi là thế giới Cực Lạc.
Lại này Xá Lợi Tử! Trong cõi Phật thanh tịnh Cực Lạc thế giới chốn chốn đều có các ao bằng bảy thứ báu mầu nhiệm. Nước tám công đức đầy ắp trong ấy. Vì sao gọi là nước tám công đức ?
Một là lặng sạch, hai là trong mát, ba là ngon ngọt, bốn là mềm nhẹ, năm là nhuận trạch, sáu là an hòa, bảy là khi uống vào, trừ được đói, khát... vô lượng khổ sở, tám là uống xong, quyết định trưởng dưỡng các căn và tứ đại, tăng ích các thứ thiện căn thù thắng. Chúng sanh nhiều phước thường thích thọ dụng. Ðáy các ao báu ấy trải cát vàng. Khắp cả bốn phía mỗi ao đều có bậc lên, lối đi, bốn báu trang nghiêm, rất đáng ưa thích.
Quanh khắp các ao có cây báu nhiệm mầu mọc xen lẫn thành hàng lối, mùi thơm ngào ngạt, bảy báu trang nghiêm thật đáng ưa thích. Bảy báu vừa được nói ấy chính là: một là vàng, hai là bạc, ba là phệ lưu ly, bốn là phả chi ca, năm là xích chân châu (15), sáu là a thấp ma yết lạp bà bảo (16), bảy là mâu sa lạc yết lạp bà bảo (17). Trong các ao đó, thường có các thứ hoa sen nhiều màu, to như bánh xe: hoa sen xanh hiện sắc xanh, ánh sáng xanh, bóng xanh, hoa sen vàng hiện sắc vàng, ánh sáng vàng, bóng vàng, hoa sen đỏ hiện sắc đỏ, ánh sáng đỏ, bóng đỏ, hoa sen trắng hiện sắc trắng, ánh sáng trắng, bóng trắng. Bốn loại hoa hiện bốn màu, bốn thứ ánh sáng, bốn thứ hình bóng.
Này Xá Lợi Tử! Trong cõi Phật ấy có các thứ công đức trang nghiêm đẹp đẽ mầu nhiệm thế ấy, thật đáng ưa thích. Vì vậy, gọi là thế giới Cực Lạc.
Lại này Xá Lợi Tử! Trong cõi Phật thanh tịnh Cực Lạc thế giới tự nhiên thường có vô lượng vô biên các thứ âm nhạc kỳ diệu, âm khúc hòa nhã thật đáng mến thích. Các loài hữu tình nghe được âm thanh nhiệm mầu ấy các phiền não ác thảy đều tiêu diệt, vô lượng thiện pháp lần lượt tăng trưởng, mau chứng Vô Thượng Chánh Ðẳng Bồ Ðề.
Này Xá Lợi Tử! Trong cõi Phật ấy có các công đức trang nghiêm đẹp đẽ mầu nhiệm thế ấy, thật đáng ưa thích. Vì vậy, gọi là thế giới Cực Lạc.
Lại này Xá Lợi Tử! Trong cõi Phật thanh tịnh Cực Lạc thế giới, khắp cả cõi đất do vàng ròng hợp thành, chạm vào mềm mại, thơm tho, sáng chói, trang hoàng bằng vô lượng vô biên diệu bảo chen lẫn.
Này Xá Lợi Tử! Trong cõi Phật ấy có các công đức trang nghiêm đẹp đẽ mầu nhiệm thế ấy, thật đáng ưa thích. Vì vậy, gọi là thế giới Cực Lạc.
Lại này Xá Lợi Tử! Trong cõi Phật thanh tịnh Cực Lạc thế giới, ngày đêm sáu thời thường mưa các thứ hoa trời thượng diệu: sáng đẹp, thơm sạch, mềm mịn, nhiều màu, tuy khiến kẻ thấy thân tâm vui sướng nhưng chẳng tham đắm, tăng trưởng vô lượng vô số công đức thù thắng chẳng thể nghĩ bàn cho các hữu tình. Các loài hữu tình ấy ngày đêm sáu thời thường đem cúng dường Vô Lượng Thọ Phật. Mỗi lúc sáng sớm cầm hoa trời ấy trong khoảng bữa ăn bay đến vô lượng thế giới ở nơi phương khác cúng dường trăm ngàn câu chi chư Phật. Ở nơi chư Phật, ai nấy đều dùng trăm ngàn câu chi cây hoa rải lên cúng dường, trở về cõi mình, an hưởng như chư thiên.
Này Xá Lợi Tử! Trong cõi Phật ấy có các công đức trang nghiêm đẹp đẽ mầu nhiệm thế ấy, thật đáng ưa thích. Vì vậy, gọi là thế giới Cực Lạc.
Lại này Xá Lợi Tử! Trong cõi Phật thanh tịnh Cực Lạc thế giới thường có các loài chim nhiều màu kỳ diệu đáng yêu, như là: ngỗng, nhạn, thu lộ (18), hồng hạc, khổng tước, anh vũ, yết la tần ca (19), chim mạng mạng (20) v.v.... Các thứ chim như vậy ngày đêm sáu thời luôn tụ tập lại, hót tiếng hòa nhã, loài nào tiếng ấy tuyên dương diệu pháp, như là: niệm trụ chánh đoạn thậm thâm, thần túc, căn, lực, giác đạo chi v.v... vô lượng diệu pháp. Chúng sanh cõi ấy nghe tiếng ấy xong ai nấy đều được vô lượng công đức như: niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng... huân tu thân mình.
Ông Xá Lợi Tử! Ý ông nghĩ sao? Các loài chim cõi kia há có thuộc vào nẻo ác bàng sanh không? Chớ nghĩ như thế. Vì cớ sao vậy? Cõi Phật thanh tịnh kia không có ba ác đạo, còn chẳng nghe có cái tên ba ác đạo nữa, huống là thật có các loài chim thuộc loài bàng sanh do tội nghiệp chiêu cảm ư! Nên biết rằng: chúng đều là do Vô Lượng Thọ Phật biến hóa ra để tuyên dương vô lượng pháp âm khiến các hữu tình lợi ích yên vui.
Này Xá Lợi Tử! Trong cõi Phật ấy có các công đức trang nghiêm đẹp đẽ mầu nhiệm thế ấy, thật đáng ưa thích. Vì vậy, gọi là thế giới Cực Lạc.
Lại này Xá Lợi Tử! Cõi Phật thanh tịnhthế giới Cực Lạc thường có gió mát thổi qua các cây báu và lưới mành báu phát ra tiếng vi diệu ví như trăm ngàn câu chi nhạc trời cùng lúc tấu lên vang ra tiếng vi diệu thật đáng ưa thích. Cõi ấy thường có gió lành như thế thổi các cây báu và lưới mành báu, khua động các thứ âm thanh kỳ diệu, nói các thứ pháp. Chúng sanh cõi ấy nghe tiếng ấy xong, khởi ý niệm Phật, Pháp, Tăng vô lượng công đức.
Này Xá Lợi Tử! Trong cõi Phật ấy có các công đức trang nghiêm đẹp đẽ mầu nhiệm thế ấy, thật đáng ưa thích. Vì vậy, gọi là thế giới Cực Lạc.
Lại này Xá Lợi Tử! Trong cõi Phật thanh tịnhthế giới Cực Lạcvô lượng vô biên việc rất hy hữu chẳng thể nghĩ bàn đến như thế ấy, ví dù suốt cả trăm ngàn câu chi na dữu đa kiếp, dùng vô lượng trăm ngàn câu chi na dữu đa lưỡi, trên mỗi một lưỡi thốt lên vô lượng tiếng khen ngợi công đức ấy cũng chẳng hết nổi. Vì vậy, gọi là thế giới Cực Lạc.
Lại này Xá Lợi Tử! Trong cõi Phật thanh tịnhthế giới Cực Lạc, do nhân duyênPhật hiệu Vô Lượng Thọ?
Này Xá Lợi Tử! Do Như Lai ấy và các hữu tình thọ mạng vô lượng vô số đại kiếp. Do nhân duyên này, Như Lai cõi ấy hiệu Vô Lượng Thọ.
Này Xá Lợi Tử! Vô Lượng Thọ Phật chứng được a nậu đa la tam miểu tam bồ đề đến nay đã mười đại kiếp.
Này Xá Lợi Tử! Do duyên cớđức Phật ấy hiệu là Vô Lượng Quang?
Này Xá Lợi Tử! Do đức Như Lai ấy luôn phóng vô lượng vô biên diệu quang chiếu khắp hết thảy cõi Phật mười phương thực hiện Phật sự nào có chướng ngại. Do duyên cớ ấy, đức Như Lai ấy hiệu Vô Lượng Quang.
Này Xá Lợi Tử! Tịnh độ Phật ấy thành tựu công đức trang nghiêm như thế, rất đáng ưa thích. Vì vậy gọi là thế giới Cực Lạc.
Lại này Xá Lợi Phất! Trong cõi Phật thanh tịnh Cực Lạc thế giới, Vô Lượng Thọ Phật thường có vô lượng Thanh Văn đệ tử, hết thảy đều là đại A La Hán đầy đủ các thứ công đức vi diệu. Số ấy vô biên chẳng thể tính kể.
Này Xá Lợi Tử! Tịnh độ Phật ấy thành tựu công đức trang nghiêm như thế, rất đáng ưa thích. Vì vậy gọi là thế giới Cực Lạc.
Lại này Xá Lợi Tử! Trong cõi Phật thanh tịnh Cực Lạc thế giới, Vô Lượng Thọ Phật thường có vô lượng Bồ Tát đệ tử, hết thảy đều là nhất sanh sở hệ (21), đầy đủ các thứ công đức vi diệu. Số ấy vô biên chẳng thể tính kể. Giả sử trong suốt vô số lượng kiếp, khen ngợi công đức của họ trọn chẳng hết nổi.
Này Xá Lợi Tử! Tịnh độ Phật ấy thành tựu công đức trang nghiêm như thế, rất đáng ưa thích. Vì vậy gọi là thế giới Cực Lạc.
Lại này Xá Lợi Tử! Nếu các hữu tình sanh về cõi ấy đều chẳng thối chuyển, quyết chẳng lại đọa vào các đường hiểm nạn: biên địa, hạ tiện, miệt lệ xa (22); thường đi qua các cõi nước Phật thanh tịnh, hạnh nguyện thù thắng niệm niệm tăng tấn, quyết định sẽ chứng a nậu đa la tam miểu tam bồ đề.
Này Xá Lợi Tử! Trong cõi Phật ấy thành tựu công đức trang nghiêm như thế, rất đáng ưa thích. Vì vậy gọi là thế giới Cực Lạc.
Lại này Xá Lợi Tử! Nếu các hữu tình được nghe cõi Phật thanh tịnh vô lượng công đức trang nghiêm của Phật Vô Lượng Thọ ở phương Tây đều nên phát nguyện sanh cõi Phật ấy. Vì cớ sao thế? Nếu sanh cõi kia sẽ được trang nghiêm bằng vô lượng công đức như vậy, cùng ở chung với các bậc đại sĩ, thọ dụng cõi Phật thanh tịnh được trang nghiêm bằng vô lượng các thứ công đức như thế, pháp lạc đại thừa luôn chẳng thối chuyển, vô lượng hạnh nguyện niệm niệm tăng tấn, chóng chứng Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác vậy.
Này Xá Lợi Tử! Các loài hữu tình thành tựu vô lượng vô biên công đức mới sanh cõi Phật ấy, chẳng phải các loài hữu tình có chút thiện căn sẽ được vãng sanh thế giới Cực Lạc: cõi Phật thanh tịnh của Phật Vô Lượng Thọ.
Lại này Xá Lợi Tử! Nếu có các thiện nam tử hoặc thiện nữ nhân lòng tin trong sạch được nghe danh hiệu vô lượng vô biên công đức chẳng thể nghĩ bàn của Phật Vô Lượng Thọthế giới Cực Lạc công đức trang nghiêm như vậy, nghe xong tư duy: hoặc một ngày đêm, hoặc hai, hoặc ba, hoặc bốn, hoặc năm, hoặc sáu, hoặc bảy ngày, hệ niệm chẳng loạn thì các thiện nam tử, hoặc thiện nữ nhân đó lúc lâm chung Vô Lượng Thọ Phậtvô lượng Thanh Văn đệ tử, Bồ Tát chúng của ngài vây quanh trước sau đến đứng trước mặt, từ bi gia hựu (*) khiến tâm chẳng loạn. Xả mạng xong theo Phật chúng hội sanh vào thế giới Cực Lạc, cõi Phật thanh tịnh của Vô Lượng Thọ Phật.
Lại này Xá Lợi Tử! Ta thấy đại sự nhân duyên lợi ích an lạc như vậy nên nói lời thành thật, chắc chắn: Nếu có các thiện nam tử, hoặc thiện nữ nhân lòng tin trong sạch được nghe danh hiệucông đức chẳng thể nghĩ bàn của Phật Vô Lượng Thọcõi Phật thanh tịnh Cực Lạc thế giới thì hết thảy đều nên tin nhận, phát nguyện, tu hành đúng như lời dạy sanh cõi Phật ấy.
Lại này Xá Lợi Tử! Như ta nay xưng dương, khen ngợi công đức vô lượng vô biên chẳng thể nghĩ bàn của cõi Phật Vô Lượng Thọ như vậy, hiện tại ở phương Ðông cũng có Bất Ðộng Như Lai, Sơn Tràng Như Lai, Ðại Sơn Như Lai, Sơn Quang Như Lai, Diệu Tràng Như Lai (23). Các vị Phật như vậy nhiều như số cát sông Căng Già (24) trụ ở phương Ðông trong Phật tịnh độ của mình, mỗi vị thị hiện tướng lưỡi rộng dài, che khắp tam thiên đại thiên thế giới bao trọn tất cả, nói lời thành thật rằng: “Hữu tình các ngươi đều nên tin nhận pháp môn Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Phật Ðộ Công Ðức được hết thảy chư Phật nhiếp thọ như vậy”.
Lại này Xá Lợi Tử! Cũng như vậy, hiện tại ở phương Nam cũng có Nhật Nguyệt Quang Như Lai, Danh Xưng Quang Như Lai, Ðại Quang Uẩn Như Lai, Mê Lô Quang Như Lai, Vô Biên Tinh Tấn Như Lai (25), các vị Phật như vậy như số cát sông Căng Già trụ ở phương Nam trong Phật tịnh độ của mình, mỗi vị thị hiện tướng lưỡi rộng dài, che khắp tam thiên đại thiên thế giới bao trọn tất cả, nói lời thành thật rằng: “Hữu tình các ngươi đều nên tin nhận pháp môn Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Phật Ðộ Công Ðức được hết thảy Chư Phật nhiếp thọ như vậy”.
Này Xá Lợi Tử! Cũng như vậy, hiện tại ở phương Tây cũng có Vô Lượng Thọ Như Lai, Vô Lượng Uẩn Như Lai, Vô Lượng Quang Như Lai, Vô Lượng Tràng Như Lai, Ðại Tự Tại Như Lai, Ðại Quang Như Lai, Quang Diệm Như Lai, Ðại Bảo Tràng Như Lai, Phóng Quang Như Lai (26), các vị Phật như vậy như số cát sông Căng Già trụ ở phương Tây, trong Phật tịnh độ của mình, mỗi vị thị hiện tướng lưỡi rộng dài, che khắp tam thiên đại thiên thế giới bao trọn tất cả, nói lời thành thật rằng: “Hữu tình các ngươi đều nên tin nhận pháp môn Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Phật Ðộ Công Ðức được hết thảy Chư Phật nhiếp thọ như vậy”.
Lại này Xá Lợi Tử! Cũng như vậy hiện tại ở phương Bắc cũng có Vô Lượng Nghiêm Thông Ðạt Giác Huệ Như Lai, Vô Lượng Thiên Cổ Chấn Ðại Diệu Âm Như Lai, Ðại Uẩn Như Lai, Quang Võng Như Lai, Sa La Ðế Vương Như Lai (27), các vị Phật như thế như số cát sông Căng Già trụ ở phương Bắc, trong Phật tịnh độ của mình, mỗi vị thị hiện tướng lưỡi rộng dài, che khắp tam thiên đại thiên thế giới bao trọn tất cả, nói lời thành thật rằng: “Hữu tình các ngươi đều nên tin nhận pháp môn Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Phật Ðộ Công Ðức được hết thảy Chư Phật nhiếp thọ như vậy”.
Lại này Xá Lợi Tử! Cũng như vậy, hiện tại ở phương dưới cũng có Thị Hiện Nhất Thiết Diệu Pháp Chánh Lý Thường Phóng Hỏa Vương Thắng Ðức Quang Minh Như Lai, Sư Tử Như Lai, Danh Xưng Như Lai, Dự Quang Như Lai, Chánh Pháp Như Lai, Diệu Pháp Như Lai, Pháp Tràng Như Lai, Công Ðức Hữu Như Lai, Công Ðức Hiệu Như Lai (28), các vị Phật như vậy như số cát sông Căng Già, trụ ở phương dưới trong Phật tịnh độ của mình, mỗi vị thị hiện tướng lưỡi rộng dài, che khắp tam thiên đại thiên thế giới bao trọn tất cả, nói lời thành thật rằng: “Hữu tình các ngươi đều nên tin nhận pháp môn Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Phật Ðộ Công Ðức được hết thảy Chư Phật nhiếp thọ như vậy”.
Lại này Xá Lợi Tử! Cũng như vậy, hiện tại ở phương trên cũng có Phạm Âm Như Lai, Túc Vương Như Lai, Hương Quang Như Lai, Như Hồng Liên Hoa Thắng Ðức Như Lai, Thị Hiện Nhất Thiết Nghĩa Lợi Như Lai (29), các vị Phật như vậy như số cát sông Căng Già, trụ ở phương trên trong Phật tịnh độ của mình, mỗi vị thị hiện tướng lưỡi rộng dài, che khắp tam thiên đại thiên thế giới bao trọn tất cả, nói lời thành thật rằng: “Hữu tình các ngươi đều nên tin nhận pháp môn Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Phật Ðộ Công Ðức được hết thảy Chư Phật nhiếp thọ như vậy”.
Lại này Xá Lợi Tử! Cũng như vậy, hiện tại ở phương Ðông Nam cũng có Tối Thượng Quảng Ðại Vân Lôi Âm Vương Như Lai (30), các vị Phật như vậy như số cát sông Căng Già, trụ ở phương Ðông Nam trong Phật tịnh độ của mình, mỗi vị thị hiện tướng lưỡi rộng dài, che khắp tam thiên đại thiên thế giới bao trọn tất cả, nói lời thành thật rằng: “Hữu tình các ngươi đều nên tin nhận pháp môn Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Phật Ðộ Công Ðức được hết thảy Chư Phật nhiếp thọ như vậy”.
Lại này Xá Lợi Tử! Cũng như vậy, hiện tại ở phương Tây Nam cũng có Tối Thượng Nhật Quang Danh Xưng Công Ðức Như Lai (31), các vị Phật như vậy như cát sông Căng Già, trụ ở phương Tây Nam trong Phật tịnh độ của mình, mỗi vị thị hiện tướng lưỡi rộng dài, che khắp tam thiên đại thiên thế giới bao trọn tất cả, nói lời thành thật rằng: “Hữu tình các ngươi đều nên tin nhận pháp môn Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Phật Ðộ Công Ðức được hết thảy Chư Phật nhiếp thọ như vậy”.
Lại này Xá Lợi Tử! Cũng như vậy, hiện tại ở phương Tây Bắc cũng có Vô Lượng Công Ðức Hỏa Vương Quang Minh Như Lai (32), các vị Phật như vậy như số cát sông Căng Già trụ ở phương Tây Bắc trong Phật tịnh độ của mình, mỗi vị thị hiện tướng lưỡi rộng dài, che khắp tam thiên đại thiên thế giới bao trọn tất cả, nói lời thành thật rằng: “Hữu tình các ngươi đều nên tin nhận pháp môn Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Phật Ðộ Công Ðức được hết thảy Chư Phật nhiếp thọ như vậy”.
Lại này Xá Lợi Tử! Cũng như vậy, hiện tại ở phương Ðông Bắc cũng có Vô Số Bách Thiên Câu Chi Quảng Huệ (33) Như Lai, các vị Phật như vậy như cát sông Căng Già trụ ở phương Ðông Bắc trong Phật tịnh độ của mình, mỗi vị thị hiện tướng lưỡi rộng dài, che khắp tam thiên đại thiên thế giới bao trọn tất cả, nói lời thành thật rằng: “Hữu tình các ngươi đều nên tin nhận pháp môn Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Phật Ðộ Công Ðức được hết thảy Chư Phật nhiếp thọ như vậy”.
Lại này Xá Lợi Tử! Do duyên cớ nào kinh này gọi là pháp môn Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Phật Ðộ Công Ðức được hết thảy chư Phật nhiếp thọ?
Xá Lợi Tử! Do trong kinh này xưng dương, khen ngợi thế giới Cực Lạc của Phật Vô Lượng Thọcõi Phậtcông đức chẳng thể nghĩ bàn và chư Phật Thế Tônmười phương muốn tạo phương tiện để làm lợi ích an lạc các hữu tình nên mỗi vị trụ trong cõi mình, hiện đại thần biến, nói lời thành thật khuyên các hữu tình tin nhận pháp này. Do đó, kinh này tên là “Pháp môn Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Phật Ðộ Công Ðức được hết thảy chư Phật nhiếp thọ”.
Lại này Xá Lợi Tử! Nếu thiện nam tử hoặc thiện nữ nhân nếu đã được nghe, hoặc sẽ được nghe, hoặc nay được nghe, nghe kinh này xong sanh lòng tin hiểu sâu xa. Sanh lòng tin hiểu xong quyết được mười Căng Già Sa chư Phật Thế Tôn đang trụ trong mười phương như vậy nhiếp thọ, đúng như lời dạy tu hành thì hết thảy nhất định được bất thối chuyển nơi a nậu đa la tam miểu tam bồ đề, nhất định sanh sang cõi Phật thanh tịnhthế giới Cực Lạc của Phật Vô Lượng Thọ.
Thế nên, Xá Lợi Tử! Hết thảy bọn hữu tình các ông đều nên tin nhận, lãnh hiểu lời ta và lời chư Phật Thế Tôn, nên siêng tinh tấn tu hành đúng như lời dạy, chớ sanh ngờ lo.
Lại này Xá Lợi Tử! Nếu thiện nam tử hoặc thiện nữ nhân đối với thế giới Cực Lạccõi Phật thanh tịnh công đức trang nghiêm của Phật Vô Lượng Thọ nếu đã phát nguyện, hoặc sẽ phát nguyện, hoặc nay phát nguyện, quyết định sẽ được mười căng già sa chư Phật Thế Tôn trụ trong mười phương như trên nhiếp thọ, đúng như lời dạy tu hành thì hết thảy nhất định được chẳng thối chuyển nơi a nậu đa la tam miểu tam bồ đề, hết thảy nhất định sanh về cõi Phật thanh tịnh của Phật Vô Lượng Thọthế giới Cực Lạc.
Thế nên, Xá Lợi Tử! Nếu có các thiện nam tử hoặc thiện nữ nhân lòng tin trong sạch, hết thảy đều nên với cõi Phật thanh tịnh của Phật Vô Lượng Thọthế giới Cực Lạc sanh lòng tin hiểu sâu xa, phát nguyện vãng sanh, chớ nên phóng dật.
Lại này Xá Lợi Tử! Như ta nay đang xưng dương công đức chẳng thể nghĩ bàn của cõi Phật thanh tịnh của Phật Vô Lượng Thọthế giới Cực Lạc, các đức Phật Thế Tônmười phương kia cũng khen vô biên công đức chẳng thể nghĩ bàn của ta, đều nói như sau:
- Thật hy hữu lạ lùng thay! Ðấng Thích Ca Tịch Tĩnh (34), Thích Ca pháp vương Như Lai, Ứng Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Viên Mãn, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Trượng Phu, Ðiều Ngự Sĩ, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn bèn có thể ở trong thế giới Kham Nhẫn này, trong đời ác ngũ trược tức là: kiếp trược, chư hữu tình trược, chư phiền não trược, kiến trược, mạng trược, ở trong ấy, chứng đắc a nậu đa la tam miểu tam bồ đề, vì muốn tạo phương tiện để lợi ích an lạc các hữu tình nên nói pháp mà thế gian hết sức khó tin nổi này.
Do vậy, Xá Lợi Tử! Nên biết ta nay trong thế giới Kham Nhẫn tạp nhiễm, đời ác ngũ trược này, chứng đắc a nậu đa la tam miểu tam bồ đề, vì muốn tạo phương tiện làm lợi ích an lạc các hữu tình nên nói pháp mà thế gian hết sức khó tin này, thật là hy hữu chẳng thể nghĩ bàn.
Lại này Xá Lợi Tử! Trong thế giới Kham Nhẫn tạp nhiễm, đời ác ngũ trược này, nếu có các thiện nam tử hoặc thiện nữ nhân lòng tin trong sạch nghe nói pháp thế gian hết sức khó tin nổi như thế này mà sanh lòng tin hiểu nổi, thọ trì, diễn nói, đúng lời dạy tu hành, phải biết rằng kẻ ấy thật là hy hữu, với Phật Vô Lượng Thọ đã từng gieo căn lành. Người ấy khi mạng chung nhất định sanh về Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, thọ dụng cõi Phật các thứ công đức trang nghiêm thanh tịnh, đại thừa pháp lạc, ngày đêm sáu thời thân cận, cúng dường Vô Lượng Thọ Phật, đi qua khắp mười phương cúng dường chư Phật, nơi chư Phật nghe pháp, được thọ ký, phước huệ tư lương chóng được viên mãn, mau chứng Vô Thượng Chánh Ðẳng Bồ Ðề.
Khi ấy, đức Bạc Già Phạm nói kinh này xong, tôn giả Xá Lợi Tử.... các vị đại Thanh Văn và các vị Bồ Tát Ma Ha Tát, vô lượng thiên nhân, a tố lạc v.v.. hết thảy đại chúng nghe lời Phật dạy đều hoan hỉ lớn, tin nhận, vâng làm[]

Kinh Xưng Tán Tịnh Ðộ Phật Nhiếp Thọ hết
(Bửu Quang tự đệ tử Như Hòa kính dịch xong ngày 09 tháng 01 năm 2002)

 Nguyện việc phiên dịch này nếu có chút công đức nào thì xin hồi hướng về khắp pháp giới chúng sanh đều được vãng sanh Cực Lạc.

 Nguyện cầu dịch phẩm thô lậu này đem lại sự an vui và pháp lạc cho đạo tràng Hoa Nghiêm. Ngưỡng mong các bạn đồng tu cùng thêm tinh tấn niệm Phật.

Chú thích:
(1) Huyền Trang (602-664): Cao tăng đời Sơ Ðường, là người huyện Câu Thị, Lạc Châu (nay là huyện Yển Sư, Hà Nam), họ Trần tên Huy, là sơ tổ tông Pháp Tướng. Ngài thông minh nổi tiếng từ nhỏ, thường đến chùa Tịnh Ðộ ở Lạc Dương nghe người anh thứ hai tu ở đó giảng kinh nên dần dần ngài không thích học Nho mà xu hướng đạo Phật. Năm 612, tuy còn nhỏ tuổi, nhưng do phong độ khác phàm, ngài được quan tuyển tăng nhà Tùy đặc cách cấp độ điệp cho theo học kinh Niết Bàn với ngài Huệ Cảnh.
Năm 622, ngài thọ giới Cụ Túc. Do học rộng các kinh điển đương thời, ngài thường than rằng các sư giảng không đồng nhất, thánh điển ghi chép cũng khác nhau, nên quyết chí phát nguyện sang Thiên Trúc cầu kinh sách Phật hầu giải quyết mối nghi. Năm 629, ngài sang Ấn Ðộ, trải qua nhiều gian khổ, cuối cùng đến được chùa Na Lan Ðà, lễ pháp sư Giới Hiền làm thầy. Ngài cũng học với các bậc cao tăng tôn túc của Ấn suốt cả 17 năm. Năm 641, ngài tranh luận với các phái Tiểu thừangoại đạo tại thành Khúc Nữ (kinh đô xứ Ma Kiệt Ðà) có hơn 7 ngàn vị tăng và ba la môn tham dự. Ngài đã viết Chân Duy Thức Luận để làm cơ sở tranh luận. Vua Giới Nhật ghi dưới bản văn: ‘Nếu ai nhận thấy một chữ sai lầm, trẫm xin cắt đầu mình tạ lỗi’. Không một ai tìm được chỗ sơ sót nào trong bản luận ấy. Do vậy, ngài hóa độ được rất nhiều người trở về Ðại Thừa.
Năm 643, ngài trở về nước, mang về Tàu 657 bộ kinh tiếng Phạn. Các vua Ðường Thái Tông và Cao Tông rất quý trọng ngài, họ thường thỉnh cầu ngài hoàn tục để làm quan giúp vua cai trị, nhưng ngài luôn từ chối. Suốt cuộc đời còn lại, Ngài dốc sức dịch kinh. Tổng cộng, ngài dịch được 75 bộ kinh, bộ quan trọng nhất là Ðại Bát Nhã (600 quyển), Ðại Tỳ Bà Sa luận (200 quyển).
Ngài bài xích chủ trương dịch thoát ý của ngài Cưu Ma La Thập, mà chủ trương dịch sát từng chữ với nguyên bản, cũng như nguyên tắc ngũ chủng bất phiên (năm loại không dịch mà chỉ phiên âm). Phương pháp này trở thành nguyên tắc dịch kinh mẫu mực cho đời sau. Do đó, các kinh dịch trước thời ngài gọi là Cựu dịch, từ ngài trở về sau gọi là Tân dịch. Ngài thị tịch năm 664, thọ 63 tuổi, hiệu là Ðại Biến Giác.
Ðệ tử nổi tiếng của ngài là pháp sư Khuy Cơ đã sáng lập ra Pháp Tướng Tông (Duy Thức tông, còn gọi là Từ Ân tông) dựa trên những bộ luận quan trọng của Ngài đã dịch như luận Thành Duy Thức, Duy Thức Tam Thập Tụng v.v..
(2) Bạc Già Phạm (Bhagavat) còn phiên là Bà Già Bà, dịch nghĩa là Thế Tôn.
(3) Cấp Cô Ðộc (Anathapindada): trưởng giả Tu Ðạt Ða, do hay chu cấp cho người cô quả nên có danh hiệu này, có chỗ còn phiên là A Na Bân Kỳ.
(4) Thệ Ða (Jeta): còn phiên là Kỳ Ðà, tên thái tử con vua Ba Tư Nặc, người dâng cúng rừng cây ở Kỳ Viên cho đức Phật làm tinh xá.
(5) Thất La Phiệt (Sravsti): tức là thành Xá VệTrung Ấn Ðộ, một trong năm đại thành thời đức Phật.
(6) A Nê Luật Ðà (Anirudha): tôn giả A Na Luật, còn dịch là A Nậu Lâu Ðà, A Ni Lô Ðà, Vô Diệt, Vô Chướng, Vô Bần, ngài là em con chú con bác của đức Phật.
(7) Diệu Cát Tường (Manjushri): Văn Thù Bồ Tát, còn dịch là Diệu Ðức Bồ Tát, Mạn Thù Thất Lợi Bồ Tát
(8) Vô Năng Thắng (Ajita): Tên của Bồ Tát Di Lặc. Di Lặc (Maitreya) là họ, dịch nghĩa là Từ. Tên ngài là A Dật Ða, có nghĩa là không ai hơn nổi (vô năng thắng). Tên ngài gọi đủ là A Dật Ða Di Lặc hay Vô Năng Thắng Từ Thị.
(9) Kham Nhẫn (Saha): thế giới Sa Bà (Ta Bà), do Saha có nghĩa là khó chịu đựng nổi, nên ở đây ngài Huyền Trang dịch chữ Saha thành Kham Nhẫn.
(10) Câu chi, na dữu đa: Câu chi (koti) là một trăm ngàn. Na Dữu Ða (nayuta): còn dịch là na do tha, nghĩa là một trăm vạn.
(11) A Tố Lạc: tức là loài a tu la.
(12) Hữu tình: xưa dịch là chúng sanh, từ thời ngài Huyền Trang về sau dịch là Hữu Tình
(13) Phệ lưu ly (Vaidurya): còn phiên là Tỳ Lưu Ly, hay gọi gọn là Lưu Ly, là một loại ngọc quý (lapiz lazuli) màu xanh nước biển rất đậm, rất quý.
(14) Phả chi ca (sphatika): tên một loại ngọc trong suốt có nhiều màu, thường được dịch là pha lê. Do sợ lẫn với pha lê (crystal) là một loại thủy tinh nên ngài Huyền Trang chỉ phiên âm.
(15) Xích chân châu: ngọc trai màu đỏ,
(16) A thấp ma yết lạp bà (Ashmagarbha): thường dịch là mã não, một loại ngọc báu màu đỏ tươi có vân như hình óc ngựa nên gọi tên như vậy, không phải là thứ đá mã não ta thường dùng làm vòng đeo tay.
(17) Mâu sa lạc yết lạp bà (musàragalva): nghĩa gốc là xà cừ, tên một loại ốc lớn ngoài biển, vỏ có sắc óng ánh rất đẹp. Nhưng đa số các học giả cho đây là một loại đá quý, ông Hisaoinagaki dịch sang tiếng Anh thành sapphire (bích ngọc)
(18) Thu lộ (sari) chim xá lợi, một loài chim thuộc họ cò, diệc mắt trong vắt, tiếng hót thanh thao. Mẹ của ngài Xá Lợi mang tên loài chim này vì mắt bà đẹp như mắt chim thu, giọng nói lại thanh tao, du dương..
(19) Yết la tần ca (Kalavika): Chim ca lăng tần già, một loài chim sống trong hang núi ở Ấn Ðộ, lông đen như chim sẻ, hình dáng rất đẹp, mỏ màu đỏ, tương truyền chim mới nở đã biết hót. Tiếng chim hót véo von, thánh thót hơn cả tiếng thiên nhạc.
(20) Mạng mạng (jivamjivaka): còn dịch là chim Cộng Mạng, thuộc họ Bách Thiệt, tương truyền loài chim này có hai đầu, cũng hót rất hay.
(21) Nhất sanh sở hệ (avaivarti): xưa dịch là A duy việt trí, hay Nhất Sanh Bổ Xứ, tức là vị Bồ Tát sau khi hết kiếp sống này sẽ thành Phật ở phương khác.
(22) Miệt lệ xa (Mleccha): Tên một xứ hoang vu man dã ở vùng Trung Á, kinh thường dùng chữ này để phiếm chỉ xứ sở hoang vu, mọi rợ, bán khai.
(23) Bất Ðộng Như Lai (Aksobhya: dịch nghĩa của danh hiệu A Súc Bệ Phật), Sơn Tràng Như Lai (Merudhvaja: Meru là núi Tu di, dhavja là cái tràng, một loại cờ phướn, có hình tròn.Bản La Thập dịch là Tu Di Tướng Phật), Ðại Sơn Như Lai (Mahammeru: Ðại Tu Di Phật), Sơn Quang Như Lai (Meruprabhasa: bản cũ dịch Tu Di Quang Phật, prabhasa nghĩa là ánh sáng).
Diệu Tràng Như Lai (Manjudhvaja): Manju là tốt lành, mầu nhiệm. Dhvaja là cái tràng. Như vậy phải dịch là Diệu Tràng Như Lai, cựu bản dịch Diệu Âm Phật là lầm.
(24) Căng Già: Phiên âm của chữ Gange, tức là sông Hằng.
(25) Nhật Nguyệt Quang Như Lai (Candrasuryapradipa: Candra là mặt trăng, Surya là mặt trời, pradipa là ánh sáng, ngọn đèn. Vì vậy, cựu bản dịch là Nhật Nguyệt Ðăng Phật)
Danh Xưng Quang Như Lai(Yasahprabha): Yasah là tiếng tăm, danh tiếng (tiếng Hán gọi là danh xưng hay danh văn, prabha là ánh sáng. Vì vậy, Tàu dịch thành Danh Xưng Quang hay Danh Văn Quang Phật.
Ðại Quang Uẩn Như Lai (Maharci skandha): cựu bản dịch là Ðại Diệm Kiên Phật, e là lầm vì skandha có nghĩa là tích chứa, thường dịch là uẩn hay ấm.
Mê Lô Quang Như Lai (Merupradipa): bản La Thập dịch là Tu Di Ðăng. Meru là núi Tu Di, gọi đủ là Tu Mê Lô (Sumeru) hay Tu Di Lưu, gọi tắt là Tu Di.
Vô Biên Tinh Tấn Như Lai (Anantavirya)
(26) Vô Lượng Thọ Như Lai (Amitayus)
Vô Lượng Uẩn Như Lai (Amitaskandha): bản cựu dịchVô Lượng Tướng Phật
Vô Lượng Quang Như Lai (Amitaprabha) Bản La Thập thiếu tên vị này
Vô Lượng Tràng Như Lai (Amitadhvaja)
Ðại Tự Tại Như Lai (Maheshvara): Bản cựu dịch thiếu tên vị Phật này.
Ðại Quang Như Lai (Mahaprabha)
Ðại Diệm Như Lai (Jvalana): Cựu dịch là Ðại Minh Phật, vì Jvalana có nghĩa là cháy rực, sáng rực.
Ðại Bảo Tràng Như Lai (Maharatnaketu): Ratna là châu báu, ketu là cái phan. Các loại cờ hiệu thờ Phật, loại hình tròn như cái thúng có tua chung quanh thì gọi là tràng, phan là loại hình chữ nhật, dài và dẹp. Nhưng thông thường, không phân biệt phan và tràng. Bản La Thập dịch tên vị này là Bảo Tướng Phật.
Phóng Quang Như Lai (Sphutarashmi): Bản La Thập dịch là Tịnh Quang Phật.
(27) Vô Lượng Nghiêm Thông Thông Ðạt Giác Huệ Như Lai (Amitaprabhavyuha-abhijna-budhi): Amita là vô lượng, prabha là ánh sáng, vyuha là trang nghiêm, abhijna là thông đạt. budhi là trí huệ giác ngộ. Bản La Thập thiếu tên vị Phật này.
Vô Lượng Thiên Cổ Chấn Ðại Diệu Âm Như Lai (Amitdivya-dundubhi-vaishvanara nirghosa): Bản La Thập dịch thành Tối Thắng Âm Phật.
Ðại Uẩn Như Lai (Mahaskandha): Ngài La Thập dịch Diệm Kiên Phật.
Quang Võng Như Lai (Jaleniprabha): Jaleni là cái lưới, màng lưới. Ngài La Thập dịch là Võng Minh Phật.
Sa La Ðế Vương Như Lai (Salendraraja): Salenddra là một loại cây thường dịch là cây Sa La. Raja là vua. Bản của ngài La Thập không có tên vị này, nhưng lại có tên hai vị khác là Nhật Sanh PhậtNan Trở Phật, tên tiếng Phạn theo ông Ðoàn Trung Còn hoàn toàn khác với tên những vị được coi là thiếu ở đây. Lại thấy tên Sa La Thọ Vương Phật theo bản cũ là vị Phật ở phương trên!
(28) Thị Hiện Nhất Thiết Diệu Pháp Chánh Lý Thường Phóng Hỏa Vương Thắng Ðức Quang Minh Như Lai (Sarva-saddharma-darshana-yukti-sada-jvalana-rajottama-shriprabha): Bản của ngài La Thập không có tên vị Phật này.
Sư Tử Như Lai (Simha)
Danh Xưng Như Lai (Yashas)
Dự Quang Như Lai (Yashahprabhasa): Yasha là tiếng tăm (danh văn, danh xưng, danh dự), nên cũng đồng nghĩa với Danh Văn Phật như trong bản của ngài La Thập.
Chánh Pháp Như Lai (Dharna): Ðạt Ma Phật
Diệu Pháp Như Lai (Sadharma): Bản La Thập thiếu tên vị Phật này. Pháp Tràng Như Lai (Dharmadhvaja)
Công Ðức Hữu Như Lai (Gunamitra): Guna là công đức, mitra là bè bạn, nên dịch là Công Ðức Hữu (bạn công đức).
Công Ðức Hiệu Như Lai (Gunanama): Nama là tên, danh hiệu, nên dịch là Công Ðức Hiệu. Bản của ngài La Thập không có tên hai vị Công Ðức Hữu và Công Ðức Hiệu, nhưng lại có tên Trì Pháp Phật mà bản này không có.
(29) Phạm Âm Như Lai (Brahmaghosa): Brahma là Phạm thiên, Ghosa là âm thanh vang rền.
Túc Vương Như Lai (Nakstraraja)
Hương Quang Như Lai (Gandhaprabhasa): Gandha là hương, mùi thơm. Bản Huyền Trang không nêu tên vị Hương Thượng Phật.
Như Hồng Liên Hoa Thắng Ðức Như Lai (Utpalashrikalpa):Utpala là hoa sen. Shrikalpa là đức hạnh thù thắng. Bản La Thập dịch thành Bảo Hoa Ðức Phật.
Thị Hiện Nhất Thiết Nghĩa Lợi Như Lai (Sarvarthadarsha): Ngài La Thập dịch là Kiến Nhất Thiết Nghĩa Phật.
(30) Tối Thượng Quảng Ðại Vân Lôi Âm Vương Như Lai (Uttama-vipula-megha-ghosa-raja): Uttma là không gì hơn, vipula là rộng lớn, megha là mây, ghosa là tiếng vang lớn như sấm rền. Ngài La Thập lược bỏ đoạn này.
(31) Tối Thượng Nhật Quang Danh Xưng Công Ðức Như Lai (Uttama-suryạ-prabha-yasho-guna): Ngài La Thập không dịch đoạn kinh này.
(32) Vô Lượng Công Ðức Hỏa Vương Quang Minh Như Lai (Amita-guna-jvalanadhipati-prabhasa) Ðoạn này cũng bị ngài La Thập lược đi không dịch.
(33) Vô Số Bách Thiên Câu Chi Quảng Huệ (Asamkhya-shata-sahasra-koti-nayuta-vipula-budhi) Bốn vị Phật sau cùng bị ngài La Thập lược bỏ.
(34) Tịch Tĩnh: dịch nghĩa chữ Mâu Ni (Muni)
(*) Gia hựu: Gia là tăng thêm, hựu là sự giúp đỡ đầy ân phước của các bậc thần minh. Gia hựu nghĩa rộng hơn gia hộ vì ngoài ý nghĩa gia hộ, đức Phật A Di Ðà còn vận lòng từ bi, dùng quả đức trang nghiêm, phước đức vô tận của mình để gìn giữ tâm chánh niệm cho hành giả, dẹp yên ma ngoại, phiền não, chướng duyên khởi lên trong lúc lâm chung.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 43730)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 42907)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 48881)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39621)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53661)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36707)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40694)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49620)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47164)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27523)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 25719)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 29774)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 26990)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 24576)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 21163)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23104)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 23739)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22672)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 29443)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20500)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 34031)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 24524)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 29860)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20094)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20300)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15043)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 23734)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
(Xem: 33924)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 23853)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29041)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 59879)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27448)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68492)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24400)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 26202)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 20639)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 19888)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27381)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46122)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 25405)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29089)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
(Xem: 187716)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
(Xem: 27190)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 30985)
Kinh Pháp Cú (Kinh Lời Vàng), The Path of Truth - Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu - Họa sĩ: Mr. P. Wickramanayaka (vẽ theo bản tiếng Anh mà HT Thích Minh Châu dịch) - Vi tính: Tâm Tịnh
(Xem: 32972)
Tích truyện Pháp Cú - Thiền viện Viên Chiếu - Nguyên tác: "Buddhist Legends", Eugène Watson Burlingame
(Xem: 23863)
Sau 45 năm thuyết pháp, những lời giảng daỵ của Đức Phật không những không bị quên lãng, thất lạc mà còn được lưu giữ, truyền bá mãi đến ngày nay...
(Xem: 25444)
Ta Bà là chốn tạm ở thôi Cửa không mau phải hồi đầu lại Hai sáu nguyện vương tiêu tai chướng Ba ngàn hoá Phật chứng lòng thành
(Xem: 26534)
Cuộc đối thoại đầy đạo vị hứng thú dĩ nhiên được truyền tụng khắp nơi trong giới Phật giáo cũng như ngoài nhân gian. Về sau, vào thế kỷ đầu sau Tây lịch, sợ để khẩu truyền lâu ngày
(Xem: 36411)
Ở phương Ðông cách đây hơn mười căn dà sa cõi Phậtmột thế giới tên là Tịnh Lưu Ly. Ðức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
(Xem: 27168)
Lúc Đức Phật Thích-ca chứng đắc, Chuyển bánh xe chánh pháp độ sanh, Kiều-trần-như được duyên lành, Năm anh em họ viên thành lý chân,
(Xem: 30207)
Phật Thùy Ban Niết Bàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh (Kinh Di Giáo) - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; HT. Thích Trí Quang dịch Việt
(Xem: 37102)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 23787)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Kỳ Thọ Cấp Cô Độc gần thành Xá Vệ, với đại chúng khất sĩ gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị. Hôm ấy vào giờ khất thực, Bụt mặc áo và ôm bát đi vào thành Xá Vệ.
(Xem: 36744)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
(Xem: 27458)
Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm Kinh - Năm trăm Danh Hiệu Phật và Bồ Tát Quán Thế Âm
(Xem: 28183)
Công Phu Khuya
(Xem: 24035)
Nói một cách vắn tắt, sự xuất hiện của Duy-ma-cật là xu hướng khẳng định vai trò tích cực của chúng đệ tử tại gia trong giáo pháp của Phật, về các mặt hành đạo cũng như hóa đạo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant