Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Phật Nói Về Các Đức Phật

27 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 13184)
Kinh Phật Nói Về Các Đức Phật


KINH PHẬT NÓI VỀ CÁC ĐỨC PHẬT


Hán dịch: Đời Tống, Tam tạng Đại sư Thi Hộ người nước Thiên Trúc phụng chiếu dịch.
Việt dịch: Thích Nữ Đức Thuận
--- o0o ---

 

Đúng thật như thế, chính tôi được nghe: Một thời Đức Phật an trú tại núi Linh Thứu, trong thành Vương Xá. Khi ấy, sắp đến giờ thụ trai, tôn giả Đại Mục-kiền-liên đắp y, ôm bát định đến thành Vương Xá thì chợt nghĩ: “Hôm nay trước hết ta nên đến cõi trời Sắc Cứu Cánh để hỏi chút nhân duyên, sau đó sẽ trở về thụ trai”.

Thế rồi tôn giả Đại Mục-kiền-liên liền nhập tam-ma-địa Đẳng dẫn, trong khoảng thời gian ngắn như người lực sĩ co duỗi cánh tay đã đến cõi trời Sắc Cứu Cánh. Khi đến, hai bên dùng nhiều lời hòa nhã thăm hỏi nhau. Sau đó tôn giả hỏi thiên chúng: “Ở những thời kỳ nào có Đức Phật Thế Tôn hiện ra nơi đời, chứng Vô thượng bồ-đề”? Lúc ấy, một trăm vị thiên chủ ở đây đồng lên tiếng đáp: “Hết một trăm nghìn kiếp mới có Đức Phật hiện ra nơi đời, chứng Vô thượng bồ-đề”.

Nghe xong, tôn giả Đại Mục-kiền-liên tin nhận. Thế rồi, tôn giả lại nhập tam-ma-địa, trong khoảng thời gian ngắn như vị lực sĩ co duỗi cánh tay đã về lại thành Vương Xá, rồi lần lượt đi khất thực giống như ngày thường. Sau khi thụ trai, chải răng, thâu dọn y bát xong, tôn giả liền đến chỗ Phật, đầu mặt lễ chân Phật, rồi đến ngồi bên cạnh cung kính chắp tay bạch Đức Phật:

- Bạch Đức Thế Tôn! Trước giờ thọ trai hôm nay, con đã nhập tam-ma-địa đi đến cõi trời Sắc Cứu Cánh và hỏi thiên chúng ở đó: ‘Ở những thời kỳ nào có Đức Phật Thế Tôn hiện ra nơi đời, chứng Vô thượng bồ-đề’? Một trăm thiên chủcõi trời Sắc Cứu Cánh đều lên tiếng đáp: ‘Khắp trăm nghìn kiếp đều có Đức Phật hiện ra nơi đời, chứng Vô thượng bồ-đề’. Bạch Đức Thế Tôn! Tuy đã nghe như vậy, nhưng con không rõ việc này thế nào? Cúi xin Đức Thế Tôn giảng nói để con được thấu rõ.

Bấy giờ Đức Phật nói với tôn giả Đại Mục-kiền-liên:

- Nay ông hãy lắng nghe cho kĩ, Như Lai sẽ giảng nói. Này Đại Mục-kiền-liên! Các thiên chủ cõi trời Sắc Cứu Cánh thấy biết rất hạn hẹp mới cho rằng mãn trăm nghìn kiếp mới có Đức Phật hiện ra nơi đời, chứng Vô thượng bồ-đề. Lời này chẳng đúng, không thể tin nhận. Này Đại Mục-kiền-liên! Ta nhớ thuở xưa, đầu tiên là được gặp sáu mươi ức Đức Phật Như Lai hiện ra nơi đời, nhưng thời gian các Đức Phật ấy trụ ở đời để lợi ích chúng sinh thì lại có dài có ngắn, mỗi vị đều theo duyên mà lần lượt nhập diệt. Tiếp tục lại có tám mươi ức Phật hiện ra nơi đời, đồng có tên là Diệu Hoa. Ở trước mỗi một vị Phật ấy, Ta đều phát thệ nguyện lớn và giữ Phạm hạnh. Sau các Đức Phật này lại có năm trăm vị Phật hiện ra nơi đời, đồng có tên là Chính Phạm. Tiếp đó lại có tám trăm Đức Phật hiện ra nơi đời, đồng có tên là Nhiên Đăng.

Kế đó lại có một vạn năm nghìn vị Phật, đồng có tên là Tảm-ma-một, hiện ra nơi đời. Sau đó lại có một nghìn Đức Phật hiện ra nơi đời, tên gọi, dòng họ của mỗi vị đều khác nhau. Đối trước các Đức Phật này, Ta lại phát thệ nguyện tu trì Phạm hạnh. Sau các vị Phật này, lại có sáu nghìn vị Phật hiện ra nơi đời, đồng có tên là Tô-bát-la-đa-ba. Sau đó lại có chín vạn vị Phật hiện ra nơi đời, đồng có tên là Diệu Ca-diếp. Sau các vị Phật này, lại có một nghìn vị Phật hiện ra nơi đời, đồng có tên là Vi Nhật.

Tiếp đó lại có một nghìn Đức Phật hiện ra nơi đời, đồng có tên là Nhiễm-một-dạ-dã. Tiếp đó lại có tám vạn vi Phật hiện ra nơi đời, đồng có tên là Ê-la-phạ-đế. Kế đó lại có bảy vạn vị Phật hiện ra nơi đời, đồng có tên là Đế Thích. Kế đó lại có một vị Phật tên là Đức, hiện ra nơi đời. Đối trước vị Phật này, Ta cùng với các đệ tử thanh văn đồng phát thệ nguyện cung kính cúng dường. Cách nhiều năm sau, lại có tám mươi ức na-do-tha bích-chi-phật hiện ra nơi đời.

Này Đại Mục-kiền-liên! Đối trước Ta, vị Bích-chi-phật ấy phát thệ nguyện lớn. Lại có Chuyển luân thánh vương tên là Biến Chiếu, cũng ở trước Ta, lần đầu gặp được bốn mươi vị Phật đồng có tên là Vô Năng Thắng. Này Đại Mục-kiền-liên! Sau khi Phật Đức diệt độ, Ta lại gặp Đức Phật cũng có tên là Vô Năng Thắng. Trong đời vị Phật này, Ta làm Chuyển luân thánh vương tên là Bách Hiệu, cùng với các đệ tử thanh văn của Phật Vô Năng Thắng đồng phát thệ nguyện cung kính cúng dường. Trải qua nhiều năm, sau khi Phật Vô Năng Thắng diệt độ, Ta xây tháp bằng bảy báu để tôn thờ xá-lợi. Ta tu hành như thế, trải qua vô lượng thời gian, đến hôm nay Ta mới chứng được Vô thượng bồ-đề.

Lại nữa, này Đại Mục-kiền-liên! Chư thiêncõi trời Sắc Cứu Cánh ấy thấy biết hạn hẹp. Sau khi Phật Vô Năng Thắng diệt độ, lại có vị Phật hiện ra nơi đời, tên là Trì Thế. Tiếp đó lại có vị Phật hiện ra nơi đời, tên là Trì Địa. Sau lại có Đức Phật tên là Năng Nhân hiện ra nơi đời. Sau lại có Đức Phật tên là Diệu Hiện hiện ra nơi đời. Kế đó lại có Đức Phật tên là Sư Tử hiện ra nơi đời. Sau lại có Đức Phật tên là Tối Thượng Hi Hữu hiện ra nơi đời. Sau lại có Đức Phật tên là Đoạn Nhất Thiết Ưu hiện ra nơi đời. Sau lại có Đức Phật tên là Nhất Thiết Thắng Thành Tựu hiện ra nơi đời. Sau lại có Đức Phật tên là Đắc Thắng hiện ra nơi đời.

Nối tiếp theo thứ tự xuất hiện ở đời là các Đức Phật: Bảo Quang, Ý Xứng, Ô-ba-để-thất-la, Để-thất-la, Viên Quang, Nguyệt Quang, Thiên Quang, A-đề-bộ, A-đề-dã-du, Vô Diệt Thông, Tối Thắng, Để-thất-lỗ-đa-lỗ, Thượng Hoa.

Sau đó lại có: Đức Phật A-lí-sắt-tra, Đức Phật A-đề-bộ, Đức Phật Nhiên Đăng, Đức Phật Hàng Oan, Đức Phật Kim Diệu, Đức Phật Kim Quang, Đức Phật Bảo Nhãn, Đức Phật Liên Hoa Nhãn, Đức Phật Tối Thượng Liên Hoa, Đức Phật Đại Liên Hoa, Đức Phật Liên Hoa, Đức Phật Tì-bà-thi, Đức Phật Thi-khí, Đức Phật Tì-xá-phù, Đức Phật Câu-lưu-tôn, Đức Phật Câu-na-hàm Mâu-ni, Đức Phật Ca-diếp, cho đến hôm nay có Ta là Thích-ca Mâu-ni hiện ra nơi đời.

Này Đại Mục-kiền-liên! Xưa kia Ta phát thệ nguyện là dùng hoa bảy báu để rải cúng dường các Đức Phật này, rồi mới thành Chính đẳng chính giác

Này Đại Mục-kiền-liên! Mỗi một vị Phật kia, từ lúc mới phát tâm cho đến khi thành tựu Chính đẳng chính giác, đều phải trải qua vô số kiếp tu hành. Ta từ khi mới phát tâm cho đến ngày nay được thành Phật là đã trải qua vô lượng kiếp, không thể tính kể. Chư thiên ở cõi trời Sắc Cứu Cánh thấy biết hạn hẹp. Ông chsinh nghi!

Khi nghe Thế Tôn nói kinh này rồi, tôn giả Đại Mục-kiền-liên trừ được mối nghi, vô cùng vui mừng, đỉnh lễ Đức Phật rồi lui ra.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12727)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12656)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11697)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11686)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12286)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12342)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19789)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11920)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11959)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16838)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12644)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15010)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16061)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12837)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12188)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11882)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11898)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13117)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16474)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13200)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12441)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11777)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19808)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11120)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11223)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10370)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11056)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10936)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 9998)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11710)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
(Xem: 11593)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11908)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11072)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11314)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12043)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12529)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10737)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17939)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11697)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9915)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 11211)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 13126)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 16495)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 11805)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10871)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 11806)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 28752)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12316)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 52923)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35425)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 16028)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 12149)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12269)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 11356)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17125)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14907)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 14579)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13798)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11670)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15007)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant