Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Quán Hư Không Tạng Bồ Tát

04 Tháng Mười Hai 201300:00(Xem: 18268)
Kinh Quán Hư Không Tạng Bồ Tát

 

Kinh Quán Hư Không Tạng Bồ-tát


Đại Chánh Tân Tu, Bộ Đại Tập, số 0409

Nguyên tác: [1]

Hán dịch: Đời Tống, Tam tạng Đàm-ma-mật-đa.

Việt dịch: Tì-kheo Thích Vạn Thiện.

---o0o---


Đúng thật như thế, chính tôi được nghe: Một thời Đức Phật cùng với một nghìn hai trăm năm mươi tì-kheo và một nghìn bồ-tát ở kiếp Hiền do ngài Di-lặc làm thượng thủ, an trú tại trụ xứ của tiên nhân Chính Giác, núi Khư-đà-la.

Bấy giờ, trưởng lão Ưu-ba-li liền từ chỗ ngồi đứng dậy, chỉnh trang y phục rồi đảnh lễ Đức Phật và thưa:

- Bạch Thế Tôn! Trước đây ở trong kinh Công đức, Thế Tôn nói danh hiệu dại bồ-tát Hư Không Tạng có thể trừ tất cả các nghiệp ác bất thiện, đối trị các ác luật nghi của vua Chiên-đà-la, cho đến sa-môn Chiên-đà-la. Nếu muốn đối trị các việc ác ấy thì nên quán bồ-tát Hư Không Tạng như thế nào? Giả sử được diện kiến ngài, thì làm sao chung ở để bố-tát và làm việc của tăng? Trước đây, trong Tì-ni, Thế Tôn nói: Nếu ưu-bà-tắc phá năm giới, phạm tám trai giới; hàng tì-kheo, tì-kheo ni, sa-di, sa-di ni, thức-xoa-ma-na phạm bốn tội nặng; hàng bồ-tát tại gia hủy phạm sáu tội nặng, bồ-tát xuất gia phạm tám tội nặng tội thì quyết định đuổi đi, bọn họ như tảng đá lớn đã vỡ. Nay ở trong kinh này, Đức Phật nói bồ-tát Đại Bi Hư Không Tạng hay cứu các khổ và thuyết thần chú để tiêu trừ tội lỗi. Giả sử có vị bồ-tát này thì làm sao biết được? Lấy gì làm chứng? Cúi xin đức Thiên Tôn phân biệt giải nói?

Ðức Phật bảo ngài Ưu-ba-li:

- Ở đời vị lai, ông và tất cả những người khéo hành trì Tì-ni, cần phải giáo hóa những chúng sinh phạm tội ấy và khuyên giải tâm họ! Thệ nguyện đại từ của Thế Tôn rộng lớn, chẳng bỏ một loài nào. Trong kinh Công đức sâu xa có nói đến pháp trị tội lỗi tên là Quyết định Tì-ni. Trong đó có ba mươi lăm Đức Phật đại bi cứu thế mà ông phải kính lễ. Khi kính lễ, ông phải mặc áo tàm quí, giống như đôi mắt bị ung nhọt, người bệnh cảm thấy hổ thẹn; như người bệnh hủi phải theo lời chỉ dạy của lương y. Ông cũng như thế, nên sinh lòng hổ thẹn. Ðã hổ thẹn rồi, thì từ một ngày cho đến bảy ngày đảnh lễ mười phương Phật, xưng danh hiệu của ba mươi lăm vị Phật và đặc biệt xưng danh hiệu bồ-tát Đại Bi Hư Không Tạng. Hành giả phải tắm gội thân thể sạch sẽ, đốt đầy đủ các thứ hương thơm quí giá như Kiên hắc, Trầm thủy. Lúc sao mai mọc, hành giả nên quì dài chắp tay, rơi lệ buồn khóc, xưng danh hiệu Hư Không Tạng và thưa: “Bạch Ðại đức! Ðấng bồ-tát Ðại Bi! Xin ngài thương xót nghĩ đến con, nên vì con mà hiện thân!”.

Bấy giờ, phải quán tưởng trên đỉnh bồ-tát Hư Không Tạnghạt châu Như Ý màu vàng tía. Nếu thấy châu Như Ý tức là thấy thiên quan[1]. Trong thiên quan có ba mươi lăm tượng Phật xuất hiện. Trong hạt châu Như Ýmười phương Phật tượng xuất hiện. Thân bồ-tát Hư Không Tạng cao hai mươi do-tuần. Nếu hiện thân lớn thì đồng với bồ-tát Quán Thế Âm .v.v... Vị bồ-tát này ngồi kiết già, tay cầm hạt châu vương Như Ý. Từ hạt châu ấy phát ra pháp âm hợp với Tì-ni.

Vì vị bồ-tát này thương xót chúng sinh, nên hóa làm hình dáng tì-kheo và tất cả sắc tướng. Hoặc ở trong mộng, hoặc khi ngồi thiền, tì-kheo này dùng ấn ngọc ma-ni in vào cánh tay người đó. Dấu ấn có chữ “Trừ tội”. Ðược chữ này rồi, người ấy liền trở lại trong chúng tăng nói giới như cũ. Nếu ưu-bà-tắc được chữ này thì chẳng chướng ngại việc xuất gia. Nếu không được chữ này, thì sẽ nghe trong hư không vang lên tiếng: “Tội diệt! Tội diệt!”. Nếu chẳng nghe trong hư không có tiếng phát ra khiến cho biết Tì-ni, thì khi mộng thấy bồ-tát Hư Không Tạng, người này phải thưa:

- Bồ-tát Tì-ni! Bồ-tát Tì-ni! Con là tì-kheo tên…, con là ưu-bà-tắc tên …!

Lúc bấy giờ bồ-tát dạy cho người ấy sám hối, từ một ngày cho đến bốn mươi chín ngày lễ bái ba mươi lăm đức Phật. Nhờ uy lực của bồ-tát Hư Không Tạng mà tội người ấy giảm nhẹ.

Người biết pháp, lại dạy họ nên dọn dẹp nhà vệ sinh trải qua tám trăm ngày. Mỗi ngày đều bảo họ: “Ngươi đã làm những việc bất tịnh, thì hôm nay phải dốc lòng tẩy rửa tất cả nhà vệ sinh, không cần để cho ai biết. Làm vệ sinh xong, trong hai mươi mốt ngày, ngươi nên tắm gội sạch, đảnh lễ ba mươi lăm Đức Phật, xưng niệm danh hiệu Hư Không Tạng. Lại hướng về mười hai bộ kinh, gieo năm vóc sát đất, tỏ bày tội lỗi của mình. Bấy giờ, người hiểu biết thì nên nhóm họp thân thuộc đến trước tượng Phật xưng danh hiệu ba mươi lăm vị Phật, danh hiệu Văn-thù-sư-lợi, danh hiệu của bồ-tát kiếp Hiền..., để những vị ấy chứng minh, rồi lại bạch yết-ma như pháp thụ giới ở trước. Người này nhân tu tập khổ hạnh như vậy, nên tội nghiệp vĩnh viễn tiêu trừ, chẳng chướng ngại ba nghiệp bồ-đề.

Ðức Phật bảo Ưu-ba-li:

- Ông hãy thụ trì phép quán Hư Không Tạng này, vì những chúng sinh đời vị lai không biết tàm quí, phạm nhiều tội ácphân biệt giảng nói. Khi ông nói kinh này thì bồ-tát Hư Không Tạng ngồi kiết già, phóng ra ánh sáng sắc vàng, trong hạt châu Như Ý hiện ra ba mươi lăm đức Phật.

Bồ-tát Hu w Không Tạng bach Phật:

- Bạch đức Thế Tôn! Hạt châu Như Ý này của con từ Thủ-lăng-nghiêm hiện ra. Vì thế, chúng sinh thấy hạt châu thì được như ý tự tại.

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Ưu-ba-li:

- Ông hãy giữ gìn kinh này, chẳng được giảng nói cho tất cả mọi người nghe, chỉ vì một hạng người hành trì Tì-ni, làm đôi mắt sáng cho chúng sinh mù tối đời vị lai. Ông chớ quên lời Ta!

Ưu-ba-li nghe Phật dạy, lòng vô cùng vui mừng cung kính vâng theo.

-----------------------------------------------

 

[1] Thiên quan (mũ trời).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1288)
Kinh này nói về cái chết, vô thường, mất mát… Kinh này không nói về vô ngã, nhưng nói rằng phải xa lìa “cái của tôi,”
(Xem: 1047)
Bài kinh Kevaṭṭa-Sutta là một bài kinh dài giảng cho một người thế tục trẻ tuổi tên là Kevaṭṭa khi người này đến xin Đức Phật chỉ định ...
(Xem: 1333)
Phật từ tướng bạch hào Phóng quang khắp thế giới Hội thượng Phật Bồ Tát Tán thán Phật Tỳ Lô
(Xem: 1732)
Một thời, Thế Tôn trú ở Sāvatthī, tại Jetavana, khu vườn của ông Anāthapiṇḍika. Lúc bấy giờ, Tôn giả Girimānanda bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh.
(Xem: 1815)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc già phạm ở thành Vương xá, trong đỉnh Thứu phong, cùng chúng đại tỳ kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị đều đến tụ tập.
(Xem: 2112)
Tôi nghe như vầy: Một thời Đức Phật ở tại tịnh xá Cấp cô độc, vườn Kỳ-đà, gần thành Xá-vệ.
(Xem: 2097)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến. Chỉ có pháp hiện tại, Tuệ quán chính ở đây,
(Xem: 3788)
Thiền quán về Duyên khởi Tính không và giai đoạn hậu thiền với mục đích làm tăng trưởng những phẩm hạnh cao quý.
(Xem: 9222)
Nghi Lễ Hàng Ngày NS Thích Nữ Giới Hương biên soạn
(Xem: 30447)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 4512)
Tôi nghe như vầy. Một thời Đức Phật ở chùa Kỳ Viên thuộc thành Xá Vệ do Cấp Cô Độc phát tâm hiến cúng.
(Xem: 12270)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11621)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12850)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 9860)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 10765)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10539)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10729)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 16307)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 7138)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 5095)
Nói kinh Pháp cú Bắc truyền, được kết tập bằng tiếng Phạn, là để phân biệt với kinh Pháp cú Nam truyền, được kết tập bằng tiếng Pāli.
(Xem: 16549)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13879)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16615)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12141)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 16354)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14368)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16211)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12702)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12099)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11807)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15687)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 14032)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12026)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 15006)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 13142)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14569)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20744)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13249)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10979)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 14380)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20410)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 14038)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 14766)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 12069)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15298)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11089)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10542)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12478)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 14316)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 16858)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11591)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 11348)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12065)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52146)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15471)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13971)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11445)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13186)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12790)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant