Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phật Vi Niên Thiếu Tỳ Kheo Thuyết Chánh Sự Kinh

13 Tháng Giêng 201400:00(Xem: 14672)
Phật Vi Niên Thiếu Tỳ Kheo Thuyết Chánh Sự Kinh


Phật Vi Niên Thiếu Tỳ Kheo Thuyết Chánh Sự Kinh

(Kinh Phật Vì Tỳ Kheo Trẻ Tuổi Nói Việc Làm Chân Chánh)

 

- Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0502[1]

- Dịch Phạn sang Hán: Tây Tấn, Sa môn Pháp Cự dịch

- Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ kheo Thích Hạnh Tuệ - Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ

- Hiệu đính: HT Thích Như Điển – Phương trượng Chùa Viên Giác, Đức Quốc

 

 

Tôi nghe như vầy.

Một thuở nọ, Đức Phật đang an cư mùa hạ tại vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ. Lúc bấy giờ trong chúng có nhiều vị trưởng lão Thanh văn ở hai bên Đức Thế Tôn trong hang động, dưới gốc cây để an cư.

Lúc ấy có chúng gồm nhiều vị Tỳ kheo trẻ tuổi đi đến chỗ Đức Phật, cúi đầu đảnh lễ chân Phật rồi lui ngồi một phía. Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ[2]. Khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ rồi, an trụ trong trầm lặng. Các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nghe Đức Phật thuyết pháp rồi, tuỳ hỷ vui mừng, từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễlui về.

Các vị Tỳ kheo trẻ tuổi đi đến chỗ các vị trưởng lão Tỳ kheo[3], đảnh lễ dưới chân các vị trưởng lão rồi ngồi vào một phía. Bấy giờ các vị trưởng lão Tỳ kheo khởi niệm như vầy: Chúng ta nên tiếp nhận các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nầy, hoặc một người nhận một người, hoặc một người nhận hai, ba hay nhiều người. Nghĩ như vậy rồi liền bèn tiếp nhận, hoặc một người nhận một người, hoặc nhận hai, ba hay nhiều người, hoặc có vị trưởng lão nhận đến sáu mươi người.

Bấy giờ là ngày rằm, Đức Thế Tôn trong lúc bố tát, ở trước đại chúng trải toà mà ngồi. Lúc ấy, Đức Thế Tôn quán sát các vị Tỳ kheo rồi bảo các vị Tỳ kheo rằng: “Lành thay! Lành thay! Ta nay vui mừng cho các vị Tỳ kheo đã thực hành các việc chân chánh. Cho nên, Tỳ kheo! Phải siêng năng, tinh tấn.”

Ở nước Xá Vệ lúc nầy, tháng ca-đề[4] đã mãn, các Tỳ kheo sống tại các thôn xóm[5] nghe rằng: Đức Thế Tôn an cư ở nước Xá Vệ, tháng ca-đề đã mãn rồi, may y đã xong, đắp y ôm bát đang du hành trong nhân gian, nước Xá Vệ. (Các vị Tỳ kheo ấy) dần đi đến nước Xá Vệ, cất y bát, rửa chân xong, đến chỗ Đức Thế Tôn, cúi đầu đảnh lễ dưới chân xong, rồi lui ngồi vào một phía.

Bấy giờ Đức Thế Tôn vì các vị Tỳ kheo trong nhân gian thuyết pháp các loại, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, làm cho hoan hỷ rồi; Ngài yên lặng.

Lúc ấy, các vị Tỳ kheo trong nhân gian đã nghe Đức Phật thuyết pháp, vui mừng, tuỳ hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ mà đi; đi đến chỗ các vị Tỳ kheo trưởng lão, cúi đầu đảnh lễ dưới chân, rồi lui ngồi vào một phía. Bấy giờ, các vị trưởng lão nghĩ như vầy: Chúng ta nên nhận các vị Tỳ kheo trong nhân gian nầy, hoặc một người nhận một người, hoặc hai, ba, cho đến nhiều người, tức liền tiếp nhận lấy.” Hoặc một người nhận một người, hoặc hai, ba, cho đến có vị nhận sáu mươi người. Các vị Tỳ kheo trưởng lão ấy nhận các vị Tỳ kheo trong nhân gian chỉ dạy giới pháp, làm người mẫu mực, khéo hiểu biết thứ lớp, trước sau.

Bấy giờ là ngày rằm, Đức Thế Tôn trong lúc bố tát, ở trước đại chúng trải tòa mà ngồi, quán sát các Tỳ kheo, bảo các Tỳ kheo: “Lành thay! Lành thay! Các Tỳ kheo, ta vui mừng khi các ông đã làm các việc chân chánh. Các Tỳ kheo! Chư Phật trong quá khứ cũng có chúng Tỳ kheo làm các việc chân chánh như chúng đây ngày nay. Chư Phật ở vị lai có các đại chúng cũng sẽ như hôm nay đang có, làm các việc chân chánh giống như đại chúng ngày hôm nay. Vì sao vậy? Vì hôm nay, trong chúng đây các vị Tỳ kheo trưởng lão có vị đắc Sơ thiền, đệ nhị thiền, đệ tam thiền, đệ tứ thiền, từ bi hỷ xả, không nhập xứ, thức nhập xứ, vô sở hữu nhập xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ, an trụ được đầy đủ. Có vị Tỳ kheo đã hết sạch ba kết[6] đắc Tu đà hoàn không đọa vào cõi ác, pháp quyết định hướng đến tam bồ đề[7], còn sanh vào trong cõi trời người bảy lần[8], rốt ráo cõi khổ. Có Tỳ kheo ba kết đã sạch hết, tham sân si giảm bớt, đắc Tư đà hàm. Có Tỳ kheo năm hạ phần kết[9] đã hết sạch, đắc A na hàm, sanh Bát niết bàn[10], không còn trở lại cõi đời nầy nữa. Có Tỳ kheo đắc cảnh giới vô lượng thần thông: thiên nhĩ, tha tâm trí, túc mạng trí, sanh tử trí, lậu tận trí. Có Tỳ kheo tu quán bất tịnh để đoạn trừ tham dục, tu tâm từ bi để đoạn trừ sân hận, tu quán vô thường để đoạn trừ ngã mạn, tu An-na-bàn-na niệm[11] để đoạn trừ các giác[12] tưởng. Thế nào là Tỳ kheo tu An-na-bàn-na niệm để đoạn trừ giác tưởng? Đó là vị Tỳ kheo nương nơi làng xóm mà ở, cho đến quán diệt nơi hơi thở ra, như thật rõ biết quán diệt nơi hơi thở ra. Đó gọi là tu An-na-bàn-na niệm để đoạn trừ các giác tưởng.”

Đức Phật nói kinh nầy xong, các Tỳ kheo đã nghe Đức Phật nói rồi hoan hỷ phụng hành.

Kinh Phật Vì Tỳ Kheo Trẻ Tuổi Nói Việc Làm Chân Chánh

 

Dịch xong ngày 12/01/2014



[1] Tương đương “Kinh Bố Tát” số 815 trong Tạp A Hàm (Đại Chánh Tân Tu, Bộ A Hàm, Kinh số 0099, Hán dịch: Cầu Na Bạt Đà La đời Lưu Tống), bản dịch Việt của HT Thích Đức Thắng và HT Thích Tuệ Sỹ hiệu chú.

[2] Hán dịch: 示教照喜 thị, giáo, chiếu, hỷ: khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ. Sđd.

[3] Hán dịch:上座比丘 Thượng tọa Tỳ kheo: chỉ cho các vị Tỳ kheo trưởng lão.

[4] 迦提月“ca-đề nguyệt”, kaṭṭika (P), thường chỉ tháng sau ngày giải chế an cư. Sđd.

[5] 人間毗丘 “nhân gian Tỳ kheo”, gāmantavihārin (P), Tỳ kheo sống tại các thôn xóm/ Tỳ kheo ở giữa người đời. Sđd.

[6] 三結 “Tam kết” (kiết) gọi đủ là Tam kết (kiết) sử Samyojanani (p): Thân kiến kiết sử: Sakkaya-ditthi (p), Nghi kiết sử: Vici-kiccha (p), Giới cấm thủ: Silabhata-paramaso (p)

[7] 三菩提“Tam bồ đề”, nói cho đủ là “A nậu đa la tam miệu tam Bồ đề” tức là đắc Niết bàn. Đắc Niết bàn tức là Như Lai pháp thân.

[8] 七有 “Thất hữu” hay “Thất chủng sanh”, Sattakkhattuparama (P): là bậc Dự lưu mà phải sanh lại cõi dục (Trời – Người) cho đến bảy lần, mới đắc A-la-hán.

[9] 五下分結 “Ngũ hạ phần kết”, Pañca āvarabhāgiya-saṃyojanāni (P): Năm loại phiền não trói buộc chúng sanh hữu tìnhDục giới. Sở dĩ gọi là hạ phần là bởi vì nó ở hạ giới, tức Dục giới, khác với thượng giới, tức là Sắc giớiVô sắc giới. Năm loại là: 1. Dục kết: những phiền não tham dục; 2. Sân kết: những phiền não giận hờn; 3. Thân kiến kết: phiền não ngã kiến, chấp ngã; 4. Giới thủ kết: phiền não giữ gìn những giới luật phi lý, vô đạo; 5. Nghi kết: phiền não nghi ngờ chân lý.

[10] 般涅槃 “Bát niết bàn”, parinirvāṇa (S), parinibbāna (P) là tịch diệt hoàn toàn, đồng nghĩa với “Niết bàn” nirvāṇa (S).

[11] 安那般那念 “An-na-ban-na niệm”, Anāpānassati (P): niệm hơi thở ra vào.

[12] Giác, đây chỉ cho giác tưởng phân biệt, hay vọng tưởng phân biệt, saṅkappa (P).


====== Nguyên tác Hán ngữ =====


No. 502

佛為年少比丘說正事經

西晉沙門法炬譯

如是我聞:

一時佛住舍衛國祇樹給孤獨園夏安居。爾時眾多上座聲聞,於世尊左右樹下窟中安居。時有眾多年少比丘詣佛所,稽首佛足,退坐一面,佛為諸年少比丘,種種說法,示教照喜。示教照喜已,默然住。諸年少比丘聞佛所說,歡喜隨喜,從座起,作禮而去。

諸年少比丘往詣上座比丘所,禮諸上座足已,於一面坐。時諸上座比丘作是念:「我等當攝受此諸年少比丘,或一人受一人,或一人受二、三多人。」作是念已,即便攝受,或一人受一人,或受二、三多人,或有上座乃至受六十人。

爾時世尊十五日布薩時,於大眾前敷座而坐。爾時世尊觀察諸比丘已,告比丘:「善哉,善哉!我今喜諸比丘行諸正事,是故比丘!當勤精進。」

於此舍衛國滿迦提月諸處人間比丘,聞世尊於舍衛國安居滿迦提月已,作衣竟,持衣鉢,於舍衛國人間遊行。漸至舍衛國,舉衣鉢,洗足已,詣世尊所,稽首禮足已,退坐一面。爾時世尊為人間比丘種種說法。示教照喜已,默然。

爾時人間比丘聞佛說法,歡喜隨喜,從座起,作禮而去。往詣上座比丘所,稽首禮足,退坐一面。時諸上座,作是念:「我等當受此人間比丘,或一人受一人,或二、三乃至多人,即便受之。」或一人受一人,或二、三乃至有受六十人者。彼上座比丘受諸人間比丘,教戒教授,善知先後次第。

爾時世尊月十五日布薩時,於大眾前敷座而坐。觀察諸比丘,告諸比丘:「善哉,善哉!諸比丘,我欣汝等所行正事,樂法等所行正事。諸比丘!過去諸佛亦有比丘眾,所行正事,如今此眾;未來諸佛所有諸眾,亦當如是,所行正事,如今此眾。所以者何?今此眾中,諸長老比丘,有得初禪、第二禪、第三禪、第四禪、慈悲喜捨、空入處、識入處、無所有入處、非想非非想處,具足住;有比丘三結盡得須陀洹,不墮惡趣,法決定向三菩提,七有天人往生,究竟苦邊;有比丘三結盡,貪恚癡薄,得斯陀含;有比丘五下分結盡,得阿那含,生般涅槃,不復還生此世;有比丘得無量神通境界,天耳、他心智、宿命智、生死智、漏盡智;有比丘修不淨觀斷貪欲,修慈心斷瞋恚,修無常想斷我慢,修安那般那念斷覺想。云何比丘修安那般那念斷覺想?是比丘依止聚落,乃至觀滅出息,如觀滅出息覺,是名修安那般那念斷覺想。」

佛說此經已,諸比丘聞佛所說,歡喜奉行。

佛為年少比丘說正事經


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22871)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 11648)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 19166)
"Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật".
(Xem: 23964)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 13257)
Một thời Đức Thế Tôn ở tại cung điện của chú tể Đại dương, cùng với chúng đại tỳ kheo tám ngàn vị và chúng đại bồ tát ba mươi hai ngàn vị.
(Xem: 12988)
Người giảng: Lão Hòa thượng Tịnh Không; Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ – Viên Đạt cư sĩ; Biên tập: Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 12886)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 215, Hán dịch Pháp Cự; Việt dịch: Thích Bảo An
(Xem: 13019)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 706, Bộ Kinh Tập, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Thiên Ân
(Xem: 14337)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Hoa Nghiêm, Kinh số 0301, Hán dịch: Thật Xoa Nan Ðà; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 105779)
Sám văn gồm có ba cuốn ngày nay là sám văn ấy. Đem nước từ bi tam muội rửa sạch oan nghiệp nhiều kiếp, lấy ý nghĩa đó để mệnh danh Thủy sám... HT Thích Trí Quang
(Xem: 14611)
Trong đời mạt pháp, các đệ tử của ta chỉ đeo đuổi theo bên ngoài, ít có ai quan niệm đến vấn đề Sanh Tử... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 19801)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0665, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 38440)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0642; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Định Huệ
(Xem: 14044)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0639, Hán dịch: Na Liên Ðề Da Xá, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12840)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0628, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích nữ Tịnh Nguyên
(Xem: 13722)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0626, Hán dịch: Chi Lâu Ca Sấm, Việt dịch: Phật tử Phước Thắng
(Xem: 12518)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0619, Hán dịch: Đàm Ma Mật Đa, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 19390)
Từ Bi Thủy Sám Pháp - Trước thuật: Ngộ Đạt Thiền Sư; Dịch Giả: Thích Huyền Dung
(Xem: 27039)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, số 2076, Nguyên tác Đạo Nguyên, Việt dịch: Lý Việt Dũng
(Xem: 13486)
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí-Tịnh, Anh dịch: Quảng Định / Quảng Hiếu hiệu đính, Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 21620)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0615, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 17990)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0614, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 14217)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0600, Hán dịch: Thực Soa Nan Đà, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 16081)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0599, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 15062)
Đại Chánh Tân Tu - Kinh số 685; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Hạnh Cơ
(Xem: 14172)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0232 - Hán dịch: Mạn Ðà La Tiên; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 13154)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0226 - Hán dịch: Đàm Ma Ty, Trúc Phật Niệm; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 14405)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0592 - Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 19695)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0590; Hán dịch: Trí NghiêmBảo Vân ; Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 16723)
Trong Tam tạng Kinh điển tất cả giáo PhápTiểu Thừa hay Đại Thừa, dù tại gia hay xuất gia, Giới Luật luôn là phần trọng yếu nhất... Ngài Hoằng Tán lược sớ - Thích Nữ Trí Hải (tự Như Hải) dịch
(Xem: 21122)
Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm - Hán dịch: Bát Lạt Mật Đế; Việt dịch và chú thích: Hạnh Cơ
(Xem: 14772)
Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận - Dịch giả: TT Thích Viên Giác; Xuất bản năm 1963
(Xem: 39128)
Đêm nay ngày lành Nguyên đán, Giờ này phút thiêng giao thừa, Chúng con : Tuân lệ cổ tục ngày xưa, Mở cửa nghinh xuân tiếp phước.
(Xem: 19320)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0579; Hán dịch: Thất Dịch; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Châu
(Xem: 14682)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0549; Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Thiện
(Xem: 16117)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0475 - Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Do Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 15209)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0508 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14878)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0466; Hán dịch: Tỳ Ni Đa Lưu Chi; Việt dịch: Thích Nữ Tuệ Thành
(Xem: 15519)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0464; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 39077)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0456; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 14095)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0455; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 24483)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0454; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 14349)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0453; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 19423)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 17981)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 21428)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 19669)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích Nguyên Chơn
(Xem: 17473)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0450; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14799)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0449; Hán dịch: Ðạt Ma Cấp Ða; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 13867)
Kinh Ưu Bà Tắc, kinh số 128, thuộc bộ Trung A Hàm, tạng Đại Chánh - Hán dịch: Cù Đàm Tăng Già Đề Bà; Việt dịch: cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 13738)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0516; Hán dịch: Thí Hộ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14085)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0762 - Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 21879)
KINH A DI ĐÀ (Văn Vần)... Như Lai Phật Tổ lúc này, Tại vườn Cô Độc rừng cây Kỳ Đà; Cách thành Xá Vệ không xa, Là nơi Phật ở nói ra kinh này... HT Thích Khánh Anh
(Xem: 16717)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0680; Hán dịch: Pháp sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tịnh Quang
(Xem: 15219)
Kinh Tám Đề Tài Giác Ngộ Của Các Bậc Đại Nhân (Kinh Bát Đại Nhân Giác) - Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 14513)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0506, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14025)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0777, Hán dịch: Bạch Pháp Tổ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14331)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0367, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 15625)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0840, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant