Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Phật Thuyết Thập Vãng Sanh A Di Đà Phật Quốc Kinh

29 Tháng Ba 201505:40(Xem: 16371)
Kinh Phật Thuyết Thập Vãng Sanh A Di Đà Phật Quốc Kinh

Phật Thuyết

Thập Vãng Sanh A Di Đà Phật Quốc Kinh


(
Vạn Tự Tục Tạng Kinh, quyển 87, kinh số 738)

Hán dịch: Không rõ tên người dịch

Chuyển ngữ: Bửu Quang tự đệ tử Như Hòa

Nguồn: niệmphật.net

-o0o-


Kinh Phật Thuyết Thập Vãng Sanh A Di Đà Phật Quốc KinhTôi nghe như thế này: Một thời đức Phật ngự tại thành Vương Xá, trong núi Kỳ Xà Quật, cùng với chúng đại tỳ-kheo một vạn hai ngàn người, đều là đại A La Hán, [là những vị] được mọi người hay biết, tên các ngài là: Ma Ha Ca Diếp, Ma Ha A Na Luật Đà, những vị như vậy đều làm thượng thủ. Lại cùng vô lượng Bồ Tát Ma Ha Tát cùng hội, hết thảy đều trụ địa vị Bất Thoái Chuyển, trang nghiêm bằng vô lượng công đức, tên các ngài là: Diệu Cát Tường Bồ Tát, Vô Năng Thắng Bồ Tát, Thường Tinh Tấn Bồ Tát, Bất Hưu Tức Bồ Tát, các vị đại Bồ Tát như vậy làm thượng thủ. Lại có Thích Đề Hoàn Nhân, chủ thế giới Kham Nhẫn: Đại Phạm Thiên Vương, Tứ Đại Thiên Vương, trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa các vị thiên tử thượng thủ như vậy và A Tố Lạc v.v… vì nghe pháp nên thảy đều đến dự. Ai nấy lễ dưới chân Phật, lui ra ngồi qua một bên.

Lúc bấy giờ, A Nan bạch Phật rằng:

- Thế Tôn từ khi thành đạo đến nay, trong các pháp để giải thoát hết thảy chúng sanh được phu diễn rộng rãi trong kinh điển Đại Thừa, Ngài tuyên nói pháp “Tây Phương Cực Lạc thế giới vi diệu tối thắng, thanh tịnh trang nghiêm, bổn thệ nguyện sâu nặng, công đức chẳng thể nghĩ bàn của đức Phật A Di Đà, hết thảy chúng sanh vãng sanh Cực Lạc thế giới”. Chúng con lắng nghe, tin nhận, tu hành, chưa nghe pháp quán thân, sự ấy như thế nào? Kính xin Phật giảng cho.

Phật bảo A Nan:

- Phàm pháp quán thân chẳng quán Đông Tây, chẳng quán Nam Bắc, chẳng quán bốn phương bàng, trên dưới, chẳng quán hư không, chẳng quán ngoại duyên, chẳng quán nội duyên, chẳng quán thân sắc, chẳng quán sắc thanh, chẳng quán sắc tượng, chỉ quán vô duyên. Đấy là pháp quán thân chân chánh, trừ cách quán thân này ra, tìm cầu kỹ khắp mười phương, nơi nơi chốn chốn, chẳng còn pháp nào khác để được giải thoát.

Phật lại bảo A Nan:

- Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.

A Nan lại bạch Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Chúng sanh trong thế gian nếu có chánh niệm giải thoát như thế, sẽ chẳng có hết thảy địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh ba đường ác.

Phật bảo A Nan:

- Chúng sanh trong thế gian chẳng được giải thoát là vì sao? Hết thảy chúng sanh đều do giả nhiều, thật ít, không có lấy một chánh niệm; do nhân duyên ấy địa ngục thì nhiều, giải thoát thì ít. Ví như có kẻ đối với cha mẹ mình và với sư, tăng, bề ngoài ra vẻ hiếu thuận, trong lòng bất hiếu, ngoài hiện vẻ tinh tấn, trong lòng chẳng thật. Kẻ ác như thế, báo tuy chưa đến, tam đồ chẳng xa, không có chánh niệm, chẳng được giải thoát.

A Nan lại bạch Phật rằng:

- Nếu là như vậy, nên tu thiện căn nào để được chánh giải thoát?

Phật bảo A Nan:

- Nay ông nghe kỹ, ta sẽ nói cho ông, có mười pháp vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới hòng được giải thoát. Thế nào là mười?

Một là quán thân chánh niệm, thường đem lòng hoan hỷ, dùng thức ăn, y phục thí Phật và Tăng, vãng sanh cõi Phật A Di Đà.

Hai là chánh niệm, dùng thuốc cam lộ tốt lành, thí cho một vị tỳ-kheo mắc bịnh và hết thảy, vãng sanh cõi Phật A Di Đà.

Ba là chánh niệm, chẳng hại một sanh mạng, từ bi đối với hết thảy, vãng sanh cõi Phật A Di Đà.

Bốn là chánh niệm, từ nơi thầy thọ giới, tịnh huệ tu phạm hạnh, thường ôm lòng hoan hỷ, vãng sanh cõi Phật A Di Đà.

Năm là chánh niệm, hiếu thuận cha mẹ, kính thờ sư trưởng, chẳng khởi tâm kiêu mạn, vãng sanh cõi Phật A Di Đà.

Sáu là chánh niệm, đi đến tăng phường, cung kính chùa tháp, nghe pháp hiểu một nghĩa, vãng sanh cõi Phật A Di Đà.

Bảy là chánh niệm, trong một ngày một đêm, thọ trì Bát Trai Giới, chẳng phá điều nào, vãng sanh cõi Phật A Di Đà.

Tám là chánh niệm, nếu có thể trong tháng chay hoặc trong ngày chay, xa lìa nhà cửa, thường đến chỗ thầy lành, vãng sanh cõi Phật A Di Đà.

Chín là chánh niệm, thường có thể giữ giới trong sạch, siêng tu Thiền Định, hộ pháp, chẳng ác khẩu. Nếu có thể làm được như thế sẽ vãng sanh cõi Phật A Di Đà.

Mười là chánh niệm, nếu đối với đạo vô thượng, chẳng khởi tâm phỉ báng, tinh tấn trì tịnh giới, lại dạy kẻ vô trí, lưu truyền kinh pháp này, giáo hóa vô lượng chúng sanh, những người như thế thảy đều được vãng sanh cõi Phật A Di Đà.

Lúc bấy giờ, mười phương thế giới chấn động sáu cách, trời mưa hoa quý đẹp, hết thảy các Bồ Tát trong mười phương cõi Phật đều nhóm đến trong hội này, một lòng nghe pháp. Trong đại hội có một vị Bồ Tát, tên là Sơn Hải Huệ, bạch Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Cõi Phật A Di Đà kia có những sự vui mầu nhiệm thù thắng gì mà hết thảy chúng sanh đều nguyện vãng sanh cõi ấy?

Phật bảo Sơn Hải Huệ Bồ Tát:

- Nay ông nên đứng dậy chắp tay, đứng ngay ngắn hướng về Tây, chánh niệm quán cõi Phật A Di Đà, nguyện được thấy Phật A Di Đà.

Lúc bấy giờ, hết thảy đại chúng, cũng đều đứng dậy chắp tay, cùng quán A Di Đà Phật. Lúc đó, A Di Đà Phật hiện đại thần thông, phóng quang minh lớn, chiếu thân Sơn Hải Huệ Bồ Tát. Lúc ấy, các vị như Sơn Hải Huệ Bồ Tát v.v… liền thấy tất cả những sự trang nghiêm diệu hảo trong cõi nước Phật A Di Đà thảy đều bằng bảy báu: núi bảy báu, tháp bảy báu, nhà cửa bảy báu, lầu gác bảy báu; nước, chim, rừng cây thường thốt ra pháp âm. Cây đạo tràng trong cõi nước ấy cao bốn mươi vạn do-tuần, dưới cây có tòa sư tử cao năm trăm do-tuần, A Di Đà Phật ngày ngày thường chuyển pháp luân. Nhân dân cõi ấy chẳng tu tập việc bên ngoài, chỉ chân chánh tu tập việc bên trong: miệng nói lời Phương Đẳng, tai nghe tiếng Phương Đẳng, tâm hiểu nghĩa Phương Đẳng.

Lúc bấy giờ, Sơn Hải Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Chúng con nay trông thấy lợi ích thắng diệu chẳng thể nghĩ bàn nơi cõi ấy, con nay nguyện hết thảy chúng sanh đều được vãng sanh, rồi sau đấy chúng con cũng nguyện sanh về cõi ấy.

Phật thọ ký rằng:

- Chánh quán, chánh niệm, đắc chánh giải thoát, thảy đều sanh về đó.

Phật bảo Sơn Hải Huệ Bồ Tát:

- Ông nay muốn độ hết thảy chúng sanh thì phải nên thọ trì kinh này.

Phật bảo đại chúng:

- Sau khi ta diệt độ, thọ trì kinh này trong tám vạn kiếp rộng tuyên nói, lưu truyền, đến thời ngàn đức Phật trong Hiền kiếp, khiến khắp các chúng sanh nghe biết, tin ưa tu hành; kẻ nói, kẻ nghe đều được vãng sanh cõi Phật A Di Đà. Nếu có những kẻ như thế, ta từ hôm nay trở đi, thường sai hai mươi lăm vị Bồ Tát hộ trì người ấy, thường khiến cho người ấy không bệnh, không khổ, dù là người hay phi nhân đều chẳng thừa dịp làm hại được, đi, đứng, nằm, ngồi, bất luận là ngày hay đêm, thường được an ổn.

Nếu có chúng sanh tin tưởng sâu xa kinh này, niệm A Di Đà Phật, nguyện vãng sanh thì đức Phật A Di Đà trong thế giới Cực Lạc kia bèn sai Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Dược Vương Bồ Tát, Dược Thượng Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Pháp Tự Tại Bồ Tát, Sư Tử Hống Bồ Tát, Đà La Ni Bồ Tát, Hư Không Tạng Bồ Tát, Đức Tạng Bồ Tát, Bảo Tạng Bồ Tát, Kim Tạng Bồ Tát, Kim Cang Bồ Tát, Sơn Hải Huệ Bồ Tát, Quang Minh Vương Bồ Tát, Hoa Nghiêm Vương Bồ Tát, Chúng Bảo Vương Bồ Tát, Nguyệt Quang Vương Bồ Tát, Nhật Chiếu Vương Bồ Tát, Tam Muội Vương Bồ Tát, Tự Tại Vương Bồ Tát, Đại Tự Tại Vương Bồ Tát, Bạch Tượng Vương Bồ Tát, Đại Oai Đức Vương Bồ Tát, Vô Biên Thân Bồ Tát, hai mươi lăm Bồ Tát ấy ủng hộ hành giả, dù đi hay đứng, dù nằm hay ngồi, dù ngày hay đêm, trong hết thảy thời, hết thảy nơi, chẳng cho ác quỷ, ác thần được thừa dịp làm hại.

Phật lại bảo Sơn Hải Huệ:

- Kinh này tên là Đổ A Di Đà Phật Sắc Thân Chánh Niệm Giải Thoát Tam Muội kinh (kinh thấy sắc thân A Di Đà Phật, chánh niệm giải thoát tam muội), còn tên là Độ Chư Hữu Lưu Sanh Tử Bát Nạn Hữu Duyên Chúng Sanh kinh (kinh cứu độ các chúng sanh hữu duyên trong các cõi sanh tử và tám chỗ nạn), thọ trì như thế. Chúng sanh chưa có duyên Niệm Phật Tam Muội thì kinh này có thể mở cửa đại tam muội, có thể đóng cửa địa ngục cho chúng sanh, kinh này có thể trừ sạch những kẻ hại, ác quỷ cho chúng sanh, bốn hướng thảy đều an ổn.

Phật bảo Sơn Hải Huệ:

- Như ta vừa nói, nghĩa ấy như thế.

Sơn Hải Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Con nay đảnh thọ (1) kinh cao quý, chẳng dám nghi ngờ. Nhưng trong đời này và đời mai sau, có các chúng sanh hay sanh phỉ báng, chẳng tin kinh này, những kẻ như thế sau này sẽ ra sao?

Phật bảo Sơn Hải Huệ Bồ Tát:

- Sau này trong Diêm Phù Đề, nếu có tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, hoặc nam, hoặc nữ, thấy có kẻ đọc tụng kinh này mà nếu như nóng giận, ôm lòng phỉ báng. Do vì báng chánh pháp, nơi thân hiện tại của người ấy bị các bệnh nặng dữ, thân căn chẳng đủ, hoặc là bịnh điếc, bịnh lòa, bịnh câm, bịnh ngọng, bịnh thất âm, quỷ mị, tà cuồng, bịnh phong, bệnh rét, sốt, trĩ, thủy thũng, mất trí, các bệnh nặng dữ như thế, đời đời mắc phải. Chịu khổ như thế, ngồi nằm chẳng yên, đại tiện tiểu tiện cũng đều chẳng thông, cầu sống chẳng được, cầu chết không xong.

Hoặc đến khi chết đi, đọa vào địa ngục, trong tám vạn kiếp, chịu khổ não lớn, trăm ngàn vạn đời, chưa từng nghe đến tên thức ăn, nước uống, mãi lâu sau mới được ra, sanh vào nhân gian, làm trâu, ngựa, heo, dê, bị người giết hại, chịu đại khổ não. Sau mới được làm người, thường sanh nhà hạ tiện, trăm ngàn vạn đời chẳng được tự tại, mãi chẳng được nghe danh hiệu Tam Bảo. Vì báng kinh này nên chịu khổ như thế.

Bởi thế, với kẻ vô trí, đừng nói kinh này; với người chánh quán, chánh niệm, với người như thế mới nên nói cho. Những ai chẳng kính kinh này đọa trong địa ngục. Những ai kính trọng được chánh giải thoát, vãng sanh nước Phật A Di Đà. Nếu có tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, thiện nam tử, thiện nữ nhân, chánh tín kinh này, ưa thích kinh này, khuyên lơn, chỉ dạy chúng sanh, người nói kẻ nghe thảy đều vãng sanh cõi nước Phật A Di Đà. Vì thế, kẻ có lòng tin, sau khi ta diệt độ, trì kinh pháp này, chánh pháp, tượng pháp, mạt pháp trong đời trược ác, rộng tuyên truyền lưu thông, người ấy chính thậtđệ tử ta, ngay trong thân này đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Phật nói kinh này xong, tôn giả A Nan, các đại Thanh Văn, và các tỳ-kheo, Bồ Tát Ma Ha Tát, hết thảy thế gian: trời, người, A Tu La v.v… nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ lớn, tin nhận, phụng hành.


Phật Thuyết Thập Vãng Sanh A Di Đà Phật Quốc kinh hết

(Bửu Quang tự đệ tử Như Hòa dịch xong ngày 24 tháng 07 năm 2004)

(1) Đảnh thọ: hiểu theo nghĩa đen nhận lấy vật gì đội lên đầu, hiểu theo nghĩa rộng là cung kính lãnh thọ, vô cùng tôn trọng, gìn giữ, không dám khinh dễ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1278)
Kinh này nói về cái chết, vô thường, mất mát… Kinh này không nói về vô ngã, nhưng nói rằng phải xa lìa “cái của tôi,”
(Xem: 1036)
Bài kinh Kevaṭṭa-Sutta là một bài kinh dài giảng cho một người thế tục trẻ tuổi tên là Kevaṭṭa khi người này đến xin Đức Phật chỉ định ...
(Xem: 1319)
Phật từ tướng bạch hào Phóng quang khắp thế giới Hội thượng Phật Bồ Tát Tán thán Phật Tỳ Lô
(Xem: 1714)
Một thời, Thế Tôn trú ở Sāvatthī, tại Jetavana, khu vườn của ông Anāthapiṇḍika. Lúc bấy giờ, Tôn giả Girimānanda bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh.
(Xem: 1793)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc già phạm ở thành Vương xá, trong đỉnh Thứu phong, cùng chúng đại tỳ kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị đều đến tụ tập.
(Xem: 2094)
Tôi nghe như vầy: Một thời Đức Phật ở tại tịnh xá Cấp cô độc, vườn Kỳ-đà, gần thành Xá-vệ.
(Xem: 2086)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến. Chỉ có pháp hiện tại, Tuệ quán chính ở đây,
(Xem: 3778)
Thiền quán về Duyên khởi Tính không và giai đoạn hậu thiền với mục đích làm tăng trưởng những phẩm hạnh cao quý.
(Xem: 9199)
Nghi Lễ Hàng Ngày NS Thích Nữ Giới Hương biên soạn
(Xem: 30429)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 4497)
Tôi nghe như vầy. Một thời Đức Phật ở chùa Kỳ Viên thuộc thành Xá Vệ do Cấp Cô Độc phát tâm hiến cúng.
(Xem: 12238)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11585)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12792)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 9831)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 10729)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10498)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10700)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 16251)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 7111)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 5081)
Nói kinh Pháp cú Bắc truyền, được kết tập bằng tiếng Phạn, là để phân biệt với kinh Pháp cú Nam truyền, được kết tập bằng tiếng Pāli.
(Xem: 16518)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13843)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16565)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12100)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 16288)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14329)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16189)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12687)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12073)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11792)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15653)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 14014)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12001)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 14987)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 13122)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14523)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20671)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13209)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10934)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 14343)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20363)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 14009)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 14741)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 12055)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15269)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11055)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10499)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12451)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 14287)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 16798)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11557)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 11329)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12036)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52065)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15446)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13956)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11421)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13147)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12763)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant