Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Phật Thuyết Thập Vãng Sanh A Di Đà Phật Quốc Kinh

29 Tháng Ba 201505:40(Xem: 16395)
Kinh Phật Thuyết Thập Vãng Sanh A Di Đà Phật Quốc Kinh

Phật Thuyết

Thập Vãng Sanh A Di Đà Phật Quốc Kinh


(
Vạn Tự Tục Tạng Kinh, quyển 87, kinh số 738)

Hán dịch: Không rõ tên người dịch

Chuyển ngữ: Bửu Quang tự đệ tử Như Hòa

Nguồn: niệmphật.net

-o0o-


Kinh Phật Thuyết Thập Vãng Sanh A Di Đà Phật Quốc KinhTôi nghe như thế này: Một thời đức Phật ngự tại thành Vương Xá, trong núi Kỳ Xà Quật, cùng với chúng đại tỳ-kheo một vạn hai ngàn người, đều là đại A La Hán, [là những vị] được mọi người hay biết, tên các ngài là: Ma Ha Ca Diếp, Ma Ha A Na Luật Đà, những vị như vậy đều làm thượng thủ. Lại cùng vô lượng Bồ Tát Ma Ha Tát cùng hội, hết thảy đều trụ địa vị Bất Thoái Chuyển, trang nghiêm bằng vô lượng công đức, tên các ngài là: Diệu Cát Tường Bồ Tát, Vô Năng Thắng Bồ Tát, Thường Tinh Tấn Bồ Tát, Bất Hưu Tức Bồ Tát, các vị đại Bồ Tát như vậy làm thượng thủ. Lại có Thích Đề Hoàn Nhân, chủ thế giới Kham Nhẫn: Đại Phạm Thiên Vương, Tứ Đại Thiên Vương, trăm ngàn câu-chi na-dữu-đa các vị thiên tử thượng thủ như vậy và A Tố Lạc v.v… vì nghe pháp nên thảy đều đến dự. Ai nấy lễ dưới chân Phật, lui ra ngồi qua một bên.

Lúc bấy giờ, A Nan bạch Phật rằng:

- Thế Tôn từ khi thành đạo đến nay, trong các pháp để giải thoát hết thảy chúng sanh được phu diễn rộng rãi trong kinh điển Đại Thừa, Ngài tuyên nói pháp “Tây Phương Cực Lạc thế giới vi diệu tối thắng, thanh tịnh trang nghiêm, bổn thệ nguyện sâu nặng, công đức chẳng thể nghĩ bàn của đức Phật A Di Đà, hết thảy chúng sanh vãng sanh Cực Lạc thế giới”. Chúng con lắng nghe, tin nhận, tu hành, chưa nghe pháp quán thân, sự ấy như thế nào? Kính xin Phật giảng cho.

Phật bảo A Nan:

- Phàm pháp quán thân chẳng quán Đông Tây, chẳng quán Nam Bắc, chẳng quán bốn phương bàng, trên dưới, chẳng quán hư không, chẳng quán ngoại duyên, chẳng quán nội duyên, chẳng quán thân sắc, chẳng quán sắc thanh, chẳng quán sắc tượng, chỉ quán vô duyên. Đấy là pháp quán thân chân chánh, trừ cách quán thân này ra, tìm cầu kỹ khắp mười phương, nơi nơi chốn chốn, chẳng còn pháp nào khác để được giải thoát.

Phật lại bảo A Nan:

- Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.

A Nan lại bạch Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Chúng sanh trong thế gian nếu có chánh niệm giải thoát như thế, sẽ chẳng có hết thảy địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh ba đường ác.

Phật bảo A Nan:

- Chúng sanh trong thế gian chẳng được giải thoát là vì sao? Hết thảy chúng sanh đều do giả nhiều, thật ít, không có lấy một chánh niệm; do nhân duyên ấy địa ngục thì nhiều, giải thoát thì ít. Ví như có kẻ đối với cha mẹ mình và với sư, tăng, bề ngoài ra vẻ hiếu thuận, trong lòng bất hiếu, ngoài hiện vẻ tinh tấn, trong lòng chẳng thật. Kẻ ác như thế, báo tuy chưa đến, tam đồ chẳng xa, không có chánh niệm, chẳng được giải thoát.

A Nan lại bạch Phật rằng:

- Nếu là như vậy, nên tu thiện căn nào để được chánh giải thoát?

Phật bảo A Nan:

- Nay ông nghe kỹ, ta sẽ nói cho ông, có mười pháp vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới hòng được giải thoát. Thế nào là mười?

Một là quán thân chánh niệm, thường đem lòng hoan hỷ, dùng thức ăn, y phục thí Phật và Tăng, vãng sanh cõi Phật A Di Đà.

Hai là chánh niệm, dùng thuốc cam lộ tốt lành, thí cho một vị tỳ-kheo mắc bịnh và hết thảy, vãng sanh cõi Phật A Di Đà.

Ba là chánh niệm, chẳng hại một sanh mạng, từ bi đối với hết thảy, vãng sanh cõi Phật A Di Đà.

Bốn là chánh niệm, từ nơi thầy thọ giới, tịnh huệ tu phạm hạnh, thường ôm lòng hoan hỷ, vãng sanh cõi Phật A Di Đà.

Năm là chánh niệm, hiếu thuận cha mẹ, kính thờ sư trưởng, chẳng khởi tâm kiêu mạn, vãng sanh cõi Phật A Di Đà.

Sáu là chánh niệm, đi đến tăng phường, cung kính chùa tháp, nghe pháp hiểu một nghĩa, vãng sanh cõi Phật A Di Đà.

Bảy là chánh niệm, trong một ngày một đêm, thọ trì Bát Trai Giới, chẳng phá điều nào, vãng sanh cõi Phật A Di Đà.

Tám là chánh niệm, nếu có thể trong tháng chay hoặc trong ngày chay, xa lìa nhà cửa, thường đến chỗ thầy lành, vãng sanh cõi Phật A Di Đà.

Chín là chánh niệm, thường có thể giữ giới trong sạch, siêng tu Thiền Định, hộ pháp, chẳng ác khẩu. Nếu có thể làm được như thế sẽ vãng sanh cõi Phật A Di Đà.

Mười là chánh niệm, nếu đối với đạo vô thượng, chẳng khởi tâm phỉ báng, tinh tấn trì tịnh giới, lại dạy kẻ vô trí, lưu truyền kinh pháp này, giáo hóa vô lượng chúng sanh, những người như thế thảy đều được vãng sanh cõi Phật A Di Đà.

Lúc bấy giờ, mười phương thế giới chấn động sáu cách, trời mưa hoa quý đẹp, hết thảy các Bồ Tát trong mười phương cõi Phật đều nhóm đến trong hội này, một lòng nghe pháp. Trong đại hội có một vị Bồ Tát, tên là Sơn Hải Huệ, bạch Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Cõi Phật A Di Đà kia có những sự vui mầu nhiệm thù thắng gì mà hết thảy chúng sanh đều nguyện vãng sanh cõi ấy?

Phật bảo Sơn Hải Huệ Bồ Tát:

- Nay ông nên đứng dậy chắp tay, đứng ngay ngắn hướng về Tây, chánh niệm quán cõi Phật A Di Đà, nguyện được thấy Phật A Di Đà.

Lúc bấy giờ, hết thảy đại chúng, cũng đều đứng dậy chắp tay, cùng quán A Di Đà Phật. Lúc đó, A Di Đà Phật hiện đại thần thông, phóng quang minh lớn, chiếu thân Sơn Hải Huệ Bồ Tát. Lúc ấy, các vị như Sơn Hải Huệ Bồ Tát v.v… liền thấy tất cả những sự trang nghiêm diệu hảo trong cõi nước Phật A Di Đà thảy đều bằng bảy báu: núi bảy báu, tháp bảy báu, nhà cửa bảy báu, lầu gác bảy báu; nước, chim, rừng cây thường thốt ra pháp âm. Cây đạo tràng trong cõi nước ấy cao bốn mươi vạn do-tuần, dưới cây có tòa sư tử cao năm trăm do-tuần, A Di Đà Phật ngày ngày thường chuyển pháp luân. Nhân dân cõi ấy chẳng tu tập việc bên ngoài, chỉ chân chánh tu tập việc bên trong: miệng nói lời Phương Đẳng, tai nghe tiếng Phương Đẳng, tâm hiểu nghĩa Phương Đẳng.

Lúc bấy giờ, Sơn Hải Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Chúng con nay trông thấy lợi ích thắng diệu chẳng thể nghĩ bàn nơi cõi ấy, con nay nguyện hết thảy chúng sanh đều được vãng sanh, rồi sau đấy chúng con cũng nguyện sanh về cõi ấy.

Phật thọ ký rằng:

- Chánh quán, chánh niệm, đắc chánh giải thoát, thảy đều sanh về đó.

Phật bảo Sơn Hải Huệ Bồ Tát:

- Ông nay muốn độ hết thảy chúng sanh thì phải nên thọ trì kinh này.

Phật bảo đại chúng:

- Sau khi ta diệt độ, thọ trì kinh này trong tám vạn kiếp rộng tuyên nói, lưu truyền, đến thời ngàn đức Phật trong Hiền kiếp, khiến khắp các chúng sanh nghe biết, tin ưa tu hành; kẻ nói, kẻ nghe đều được vãng sanh cõi Phật A Di Đà. Nếu có những kẻ như thế, ta từ hôm nay trở đi, thường sai hai mươi lăm vị Bồ Tát hộ trì người ấy, thường khiến cho người ấy không bệnh, không khổ, dù là người hay phi nhân đều chẳng thừa dịp làm hại được, đi, đứng, nằm, ngồi, bất luận là ngày hay đêm, thường được an ổn.

Nếu có chúng sanh tin tưởng sâu xa kinh này, niệm A Di Đà Phật, nguyện vãng sanh thì đức Phật A Di Đà trong thế giới Cực Lạc kia bèn sai Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Dược Vương Bồ Tát, Dược Thượng Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Pháp Tự Tại Bồ Tát, Sư Tử Hống Bồ Tát, Đà La Ni Bồ Tát, Hư Không Tạng Bồ Tát, Đức Tạng Bồ Tát, Bảo Tạng Bồ Tát, Kim Tạng Bồ Tát, Kim Cang Bồ Tát, Sơn Hải Huệ Bồ Tát, Quang Minh Vương Bồ Tát, Hoa Nghiêm Vương Bồ Tát, Chúng Bảo Vương Bồ Tát, Nguyệt Quang Vương Bồ Tát, Nhật Chiếu Vương Bồ Tát, Tam Muội Vương Bồ Tát, Tự Tại Vương Bồ Tát, Đại Tự Tại Vương Bồ Tát, Bạch Tượng Vương Bồ Tát, Đại Oai Đức Vương Bồ Tát, Vô Biên Thân Bồ Tát, hai mươi lăm Bồ Tát ấy ủng hộ hành giả, dù đi hay đứng, dù nằm hay ngồi, dù ngày hay đêm, trong hết thảy thời, hết thảy nơi, chẳng cho ác quỷ, ác thần được thừa dịp làm hại.

Phật lại bảo Sơn Hải Huệ:

- Kinh này tên là Đổ A Di Đà Phật Sắc Thân Chánh Niệm Giải Thoát Tam Muội kinh (kinh thấy sắc thân A Di Đà Phật, chánh niệm giải thoát tam muội), còn tên là Độ Chư Hữu Lưu Sanh Tử Bát Nạn Hữu Duyên Chúng Sanh kinh (kinh cứu độ các chúng sanh hữu duyên trong các cõi sanh tử và tám chỗ nạn), thọ trì như thế. Chúng sanh chưa có duyên Niệm Phật Tam Muội thì kinh này có thể mở cửa đại tam muội, có thể đóng cửa địa ngục cho chúng sanh, kinh này có thể trừ sạch những kẻ hại, ác quỷ cho chúng sanh, bốn hướng thảy đều an ổn.

Phật bảo Sơn Hải Huệ:

- Như ta vừa nói, nghĩa ấy như thế.

Sơn Hải Huệ Bồ Tát bạch Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Con nay đảnh thọ (1) kinh cao quý, chẳng dám nghi ngờ. Nhưng trong đời này và đời mai sau, có các chúng sanh hay sanh phỉ báng, chẳng tin kinh này, những kẻ như thế sau này sẽ ra sao?

Phật bảo Sơn Hải Huệ Bồ Tát:

- Sau này trong Diêm Phù Đề, nếu có tỳ-kheo, tỳ-kheo ni, hoặc nam, hoặc nữ, thấy có kẻ đọc tụng kinh này mà nếu như nóng giận, ôm lòng phỉ báng. Do vì báng chánh pháp, nơi thân hiện tại của người ấy bị các bệnh nặng dữ, thân căn chẳng đủ, hoặc là bịnh điếc, bịnh lòa, bịnh câm, bịnh ngọng, bịnh thất âm, quỷ mị, tà cuồng, bịnh phong, bệnh rét, sốt, trĩ, thủy thũng, mất trí, các bệnh nặng dữ như thế, đời đời mắc phải. Chịu khổ như thế, ngồi nằm chẳng yên, đại tiện tiểu tiện cũng đều chẳng thông, cầu sống chẳng được, cầu chết không xong.

Hoặc đến khi chết đi, đọa vào địa ngục, trong tám vạn kiếp, chịu khổ não lớn, trăm ngàn vạn đời, chưa từng nghe đến tên thức ăn, nước uống, mãi lâu sau mới được ra, sanh vào nhân gian, làm trâu, ngựa, heo, dê, bị người giết hại, chịu đại khổ não. Sau mới được làm người, thường sanh nhà hạ tiện, trăm ngàn vạn đời chẳng được tự tại, mãi chẳng được nghe danh hiệu Tam Bảo. Vì báng kinh này nên chịu khổ như thế.

Bởi thế, với kẻ vô trí, đừng nói kinh này; với người chánh quán, chánh niệm, với người như thế mới nên nói cho. Những ai chẳng kính kinh này đọa trong địa ngục. Những ai kính trọng được chánh giải thoát, vãng sanh nước Phật A Di Đà. Nếu có tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, thiện nam tử, thiện nữ nhân, chánh tín kinh này, ưa thích kinh này, khuyên lơn, chỉ dạy chúng sanh, người nói kẻ nghe thảy đều vãng sanh cõi nước Phật A Di Đà. Vì thế, kẻ có lòng tin, sau khi ta diệt độ, trì kinh pháp này, chánh pháp, tượng pháp, mạt pháp trong đời trược ác, rộng tuyên truyền lưu thông, người ấy chính thậtđệ tử ta, ngay trong thân này đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Phật nói kinh này xong, tôn giả A Nan, các đại Thanh Văn, và các tỳ-kheo, Bồ Tát Ma Ha Tát, hết thảy thế gian: trời, người, A Tu La v.v… nghe lời Phật dạy, đều hoan hỷ lớn, tin nhận, phụng hành.


Phật Thuyết Thập Vãng Sanh A Di Đà Phật Quốc kinh hết

(Bửu Quang tự đệ tử Như Hòa dịch xong ngày 24 tháng 07 năm 2004)

(1) Đảnh thọ: hiểu theo nghĩa đen nhận lấy vật gì đội lên đầu, hiểu theo nghĩa rộng là cung kính lãnh thọ, vô cùng tôn trọng, gìn giữ, không dám khinh dễ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11653)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 19174)
"Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật".
(Xem: 23974)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 13263)
Một thời Đức Thế Tôn ở tại cung điện của chú tể Đại dương, cùng với chúng đại tỳ kheo tám ngàn vị và chúng đại bồ tát ba mươi hai ngàn vị.
(Xem: 13003)
Người giảng: Lão Hòa thượng Tịnh Không; Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ – Viên Đạt cư sĩ; Biên tập: Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 12897)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 215, Hán dịch Pháp Cự; Việt dịch: Thích Bảo An
(Xem: 13025)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 706, Bộ Kinh Tập, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Thiên Ân
(Xem: 14348)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Hoa Nghiêm, Kinh số 0301, Hán dịch: Thật Xoa Nan Ðà; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 105800)
Sám văn gồm có ba cuốn ngày nay là sám văn ấy. Đem nước từ bi tam muội rửa sạch oan nghiệp nhiều kiếp, lấy ý nghĩa đó để mệnh danh Thủy sám... HT Thích Trí Quang
(Xem: 14616)
Trong đời mạt pháp, các đệ tử của ta chỉ đeo đuổi theo bên ngoài, ít có ai quan niệm đến vấn đề Sanh Tử... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 19805)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0665, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 38446)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0642; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Định Huệ
(Xem: 14046)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0639, Hán dịch: Na Liên Ðề Da Xá, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12841)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0628, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích nữ Tịnh Nguyên
(Xem: 13724)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0626, Hán dịch: Chi Lâu Ca Sấm, Việt dịch: Phật tử Phước Thắng
(Xem: 12521)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0619, Hán dịch: Đàm Ma Mật Đa, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 19393)
Từ Bi Thủy Sám Pháp - Trước thuật: Ngộ Đạt Thiền Sư; Dịch Giả: Thích Huyền Dung
(Xem: 27043)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, số 2076, Nguyên tác Đạo Nguyên, Việt dịch: Lý Việt Dũng
(Xem: 13490)
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí-Tịnh, Anh dịch: Quảng Định / Quảng Hiếu hiệu đính, Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 21625)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0615, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 17993)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0614, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 14220)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0600, Hán dịch: Thực Soa Nan Đà, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 16086)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0599, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 15069)
Đại Chánh Tân Tu - Kinh số 685; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Hạnh Cơ
(Xem: 14180)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0232 - Hán dịch: Mạn Ðà La Tiên; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 13155)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0226 - Hán dịch: Đàm Ma Ty, Trúc Phật Niệm; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 14408)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0592 - Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 19705)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0590; Hán dịch: Trí NghiêmBảo Vân ; Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 16727)
Trong Tam tạng Kinh điển tất cả giáo PhápTiểu Thừa hay Đại Thừa, dù tại gia hay xuất gia, Giới Luật luôn là phần trọng yếu nhất... Ngài Hoằng Tán lược sớ - Thích Nữ Trí Hải (tự Như Hải) dịch
(Xem: 21135)
Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm - Hán dịch: Bát Lạt Mật Đế; Việt dịch và chú thích: Hạnh Cơ
(Xem: 14775)
Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận - Dịch giả: TT Thích Viên Giác; Xuất bản năm 1963
(Xem: 39135)
Đêm nay ngày lành Nguyên đán, Giờ này phút thiêng giao thừa, Chúng con : Tuân lệ cổ tục ngày xưa, Mở cửa nghinh xuân tiếp phước.
(Xem: 19336)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0579; Hán dịch: Thất Dịch; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Châu
(Xem: 14689)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0549; Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Thiện
(Xem: 16121)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0475 - Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Do Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 14679)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0502 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 15221)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0508 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14879)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0466; Hán dịch: Tỳ Ni Đa Lưu Chi; Việt dịch: Thích Nữ Tuệ Thành
(Xem: 15523)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0464; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 39081)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0456; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 14099)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0455; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 24488)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0454; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 14353)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0453; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 19425)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 17983)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 21433)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 19673)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích Nguyên Chơn
(Xem: 17476)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0450; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14800)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0449; Hán dịch: Ðạt Ma Cấp Ða; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 13869)
Kinh Ưu Bà Tắc, kinh số 128, thuộc bộ Trung A Hàm, tạng Đại Chánh - Hán dịch: Cù Đàm Tăng Già Đề Bà; Việt dịch: cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 13741)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0516; Hán dịch: Thí Hộ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14105)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0762 - Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 21882)
KINH A DI ĐÀ (Văn Vần)... Như Lai Phật Tổ lúc này, Tại vườn Cô Độc rừng cây Kỳ Đà; Cách thành Xá Vệ không xa, Là nơi Phật ở nói ra kinh này... HT Thích Khánh Anh
(Xem: 16721)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0680; Hán dịch: Pháp sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tịnh Quang
(Xem: 15225)
Kinh Tám Đề Tài Giác Ngộ Của Các Bậc Đại Nhân (Kinh Bát Đại Nhân Giác) - Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 14516)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0506, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14028)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0777, Hán dịch: Bạch Pháp Tổ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14332)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0367, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 15631)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0840, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant