Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

16.02. Phẩm Tịnh Phạn Vương Đến Phật

30 Tháng Tư 201000:00(Xem: 8100)
16.02. Phẩm Tịnh Phạn Vương Đến Phật
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999

XVI
PHÁP HỘI
BỒ TÁT KIẾN THIỆT
THỨ MƯỜI SÁU

Hán Dịch: Cao Tế, Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá
Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

 Phẩm Tịnh Phạn Vương đến Phật
Thứ Hai


 Bấy giờ đức Thế Tôn ăn cơm rửa tay rửa bát xong, hiện thoại tướng. Tức thì Tỳ Sa Môn Thiên Vương cùng vô lượng na do tha trăm ngàn ức chúng Dạ Xoa vây quanh, như thời gian tráng sĩ co duỗi cánh tay từ thiên cung, hiện ra trước Phật lễ chưn Phật rồi đứng qua hướng Bắc trên hư không. Chúng Dạ Xoa trước sau vây quanh chắp tay cung kính Phật và chúng Tăng.

 Đề Đầu Lại Tra Thiên Vương cùng vô lượng trăm ngàn ức na do tha chúng Càn Thát Bà vây quanh từ thiên cung hiện ra trước Phật lễ chưn Phật rồi đứng qua hướng Đông trên hư không, chúng Càn Thát Bà trước sau vây quanh chắp tay cung kính Phật và chúng Tăng.

 Tỳ Lâu Lặc Xoa Thiên Vương cùng vô lượng trăm ngàn ức na do tha chúng Cưu Bàn Trà vây quanh từ thiên cung hiện ra trước Phật lễ chưn Phật rồi đứng qua phương Nam trên hư không, chúng Cưu Bàn Trà trước sau vây quanh chắp tay cung kính Phật và Tăng.

 Tỳ Lâu Bát Xoa Thiên Vương cùng vô lượng trăm ngàn ức na do tha chư Long vây quanh từ thiên cung hiện ra trước Phật lễ chưn Phật rồi đứng qua phương Tây, trên hư không, chư Long trước sau vây quanh, chắp tay cung kính Phật và chúng Tỳ Kheo Tăng.

 Thích Đề Hoàn Nhơn Thiên Đế cùng vô lượng trăm ngàn ức na do tha chư Thiên vây quanh từ cung trời Đao Lợi hiện ra trước Phật lễ chưn Phật rồi đứng trên hư không chắp tay cung kính Như LaiTỳ Kheo Tăng.

 Dạ Ma Thiên Vương, Đâu Xuất Đà Thiên Vương, Hóa Lạc Thiên Vương, Tha Hóa Tự Tại Thiên Vương, Đại Phạm Thiên Vương, Quang Âm Thiên Vương, Biến Tịnh Thiên Vương, Quảng Quả Thiên Vương, Tịnh Cư Thiên Vương đều cùng vô lượng trăm ngàn ức na do tha chư Thiên vây quanh, từ thiên cung hiện ra trước Phật lễ chưn Phật rồi đứng trên hư không chắp tay cung kính Như LaiTỳ Kheo Tăng.

 Tỳ Ma Chất Đa A Tu La Vương cùng sáu mươi na do tha quyến thuộc vây quanh, như thời gian tráng sĩ co duỗi cánh tay, từ cung điện mình hiện ra trước Phật, đảnh lễ chưn Phật, hiện tướng cung kính đứng qua một phía.

 Kim Sí Điểu Vương cùng tám vạn sáu ngàn chúng Ca Lâu La quyến thuộc vây quanh, từ cung điện mình hiện ra trước Phật đảnh lễ chưn Phật hiện tướng cung kính đứng qua một phía.

 Lại có tám ức các nhà ngoại đạo từ bốn phương đến mà nói kệ rằng :

 "Trong hư không thanh tịnh

 Vầng trăng tròn đêm rằm

 Vượt hơn các tinh tú

 Ánh sáng riêng chói rỡ

 Phật như trăng tròn sáng

 Diệt tối trừ ba cấu

 Hay siêu các ngoại đạo

 Dường trăng giữa hư không

 Mặt nhựt ngàn quang minh

 Hay trừ các tối tăm

 Vượt hơn ánh sáng trăng

 Làm nở ao hoa sen

 Phật quang hơn mặt nhựt

 Chiếu khắp cõi Đại Thiên

 Như Lai hay nở bày

 Rừng hoa sen Thanh Văn

 Thiên Chúa Kiều Thi Ca

 Ngồin tại nhà Thiện Pháp

 Vượt hơn chúng chư Thiên

 Chày kim cương chói rực

 Thập lực núi công đức

 Pháp Vương Lưỡng Túc Tôn

 Vượt hơn các ngoại đạo

 Dường như Thiên Đế Thích

 Tu Dạ Ma Thiên Vương

 Được chư Thiên cúng dường

 Ở trong hàng Thiên chúng

 Chói sáng ngồi bửu tọa

 Thập lực oai vô biên

 Vượt hơn các ác đạo

 Đức vô úy quang minh

 Nói rõ Bát chánh đạo

 Như Đâu Xuất Thiên Vương

 Chúng chư Thiên vây quanh

 Vượt hơn các Thiên chúng

 Đức lành mà chói sáng

 Điều Ngự Thầy Trời Người

 Được Bát Bộ chúng dường

 Vượt hơn các thế gian

 Vô úy nói pháp rõ

 Như Hóa Lạc Thiên Vương

 Ở tại trong thiên cung

 Vượt hơn chúng chư Thiên

 Công đức riêng sáng rõ

 Phật hơn các thế gian

 Rời được khỏi ba cõi

 Hay điều vua chưa điều

 Đủ thập lực sáng chói

 Như Tự Tại Thiên Vương

 Ở tại trong thiên cung

 Vượt hơn các Thiên chúng

 Đức lành mà rạng rỡ

 Phật quang minh như vậy

 Đầy đủ thập lực hành

 Vượt hơn chúng Trời Người

 Do công đức lành trước

 Như Đại Phạm Thiên Vương

 Vượt hơn các Phạm chúng

 Sáng rực lời ngọt hay

 Hiển bày đường Bát chánh

 Như Lai hơn Phạm Vương

 Vua trong chúng Sa Môn

 Quang minh soi ba cõi

 Chuyển pháp luân tứ đế

 Chúng tri kiến họp xong

 Trời Rồng Người nghe pháp

 Vua tối thắng Trời Người

 Tuyên nói đường Bát chánh

 Hư không đo lường được

 Biển lấy bình đong hết

 Núi Tu Di cân được

 Phật đức khó biết được".

 Bấy giờ Tịnh Phạn Vương nói với hàng Thích chủng rằng : "Nầy các Ngài ! Như mặt nhựt sắp mọc trước tiên hiện tướng sáng đẹp, như lúc sao mai mọc thì biết mặt nhựt sè mọc chẳng lâu. Cũng vậy, Ca Lưu Đà Di ở nơi đức Phật Như Lai Nhứt thiết chủng trí mà trước hiện tướng lành, Tỳ Kheo ấy nói công đức của Như Lai tức là tướng Nhứt thiết trí vậy. Các ông mau xếp đặt xe tốt, ta sẽ đến chỗ Phật ngự".

 Các Thích chủng tâu rằng : "Lành thay Đại vương ! Nay đã phải lúc, những thứ cần dùng nay đã lo xong".

 Vua lại truyền cho các quan từ thành Ca Tỳ La đến rừng Ni Câu Đà phải sửa sang đường xá, dùng cát mịn tốt trải đất, rải các thứ hoa treo những lục màu, trổi âm nhạc và các thứ ca vũ.

 Vua ngồi xe tốt xuất thành Ca Tỳ La thẳng đến vườn Ni Câu Đà. Sau xe vua có tám vạn bạch tượng cùng những châu báu xen lẫn trang nghiêm. Trên mỗi thớt tượng đều trần thiết tòa thất bửu rất lạ hi hữu. Sau đoàn voi, có tám vạn ngựa quí, trên mỗi ngựa quí đều có tràng vàng, ngựa và tràng đều trang nghiêm với bảy báu xinh đẹp đệ nhứt.

 Trong thành có vô lượng người nghiêm sức xe cộ : ngựa xanh xe xanh lọng xanh đao xanh y phục tất yên cương cả đều xanh cầm tràng xanh. Sau mỗi xe có trăm người y phục xanh đi theo. Vàng đỏ và trắng ba đội người ngựa ba màu kia cũng như vậy.

 Lại có hàng Thích chủng đều riêng nghiêm sức các thứ xe đẹp xanh vàng đỏ trắng : trang nghiêm nhiều màu, xe ngựa nhiều màu, nghiêm sức nhiều màu, mỗi xe ngựa đều có trăm người trang nghiêm nhiều màu.

 Đức Thế Tôn xa trông Tịnh Phạn Vương đến liền bảo chư Tỳ Kheo rằng : "Các ông muốn thấy chúng trời Đao Lợi đi dạo chơi thì nên xem Thích chủng xuất thành Ca Tỳ La. Tại sao ? Vì Thích chủng du hành cùng chư Thiên không khác".

 Đức Thế Tôn nói kệ rằng :

 "Trong thành Ca Tỳ La Vệ kia

 Tịnh Phạn Đại Vươngquyến thuộc

 Tối Thắng Nhơn Vương hôm nay đến

 Lắng nghe lắng nghe Phật sẽ nói

 Tượng mã xe cộ hơn trăm ngàn

 Nhiều thứ trang nghiêm rất đẹp lạ

 Từ Ca Tỳ La mà dẫn ra

 Nhơn Vương bửu tạng và các xe

 Ngựa xanh xe xanh trang nghiêm xanh

 Y ohục người theo đều màu xanh

 Giày mang dao đeo thảy đều xanh

 Roi xanh cương xanh lạc lưới xanh

 Người áo xanh cầm phan lọng xanh

 Người ngựa đều xanh rất đẹp lạ

 Ngựa vàng xe vàng nghiêm sức vàng

 Người theo y phục đều màu vàng

 Giày mang dao đeo cũng đều vàng

 Roi vàng cương vàng lạc lưới vàng

 Người áo vàng cầm phan lọng vàng

 Người ngựa đều vàng rất đẹp lạ

 Ngựa đỏ xe đỏ nghiêm sức đỏ

 Người theo y phục đều màu đỏ

 Giày mang dao đeo cũng đều đỏ

 Roi đỏ cương đỏ lạc lưới đỏ

 Người áo đỏ cầm phan lọng đỏ

 Người ngựa đều đỏ rất đẹp lạ

 Ngựa trắng xe trắng trang nghiêm trắng

 Người theo y phục đều màu trắng

 Giày mang dao đeo cũng đều trắng

 Roi trắng cương trắng lạc lưới trắng

 Người áo trắng cầm phan lọng trắng

 Người ngựa đều trắng rất đẹp lạ

 Xe ngựa bốn màu trang nghiêm bốn

 Người theo y phục đều bốn màu

 Giày mang dao đeo cũng bốn màu

 Roi cương lạc lưới bốn màu đủ

 Người và phan lọng đều bốn màu

 Người ngựa bốn màu rất đẹp lạ

 Sau các xe kia trang nghiêm voi

 Số voi ấy đủ tám mươi ngàn

 Yên vàng nệm vàng trang nghiêm vàng

 Lưng voi đều có điện bảy báu

 Các thứ trang nghiêm ngựa rồng quí

 Số ngựa cũng đủ tám mươi ngàn

 Bảy báu trang nghiêm rất lạ đẹp

 Người phục sức đẹp theo sau xe

 Dùng những hoa đẹp rải đường ngự

 Dùng năm thứ hương làm thơm đất

 Treo những bình hương và lụa màu

 Tráng sĩ diễn trò đoàn ca vũ

 Nhiều thứ trang nghiêm khắp cả đường

 Hòa tấu âm nhạc theo sau vua".

 Tịnh Phạn Vương và đoàn tùy tùng đến vườn Ni Câu Đà xuống xe đi bộ vào.

 Đức Thế Tôn biết Phụ Vương từ lâu có lòng oán hận, vì độ Phụ Vương nên đức Phật bước lên hư không cao quá đầu người tự tại đi ra. Lúc đức Phật đi, bên hữu có Đại Phạm Thiên Vương, bên tả có Thiên Đế Thích, Dạ Ma Thiên Vương, Đâu Xuất Thiên Vương, Hóa Lạc Thiên Vương, Tha Hóa Tự Tại Thiên Vương đều cầm các thứ lọng trời cúng dường Như Lai.

 Bấy giờ Tỳ Sa Môn Thiên Vương và Đề Đầu Lại Tra Thiên Vương ở phía Đông Như Lai quỳ gối chắp tay hiện tướng cung kính.

 Chúng chư Thiên các cõi trời Tứ Vương Thiên, Đao Lợi Thiên, Dạ Ma Thiên, Đâu Suất Thiên, Hóa Lạc ThiênTha Hóa Tự Tại Thiên ở giữa hư không mưa hoa trời ưu bát la, mạn đà la và hương bột chiên đàn, tấu các âm nhạcca vũ, lại mưa nước thơm, từ trước tới nay chưa từng thấy sự cúng dường Như Lai như vậy.

 Đức Như Lai lại hiện thần thông, do sức thần của Phật làm cho mọi người đều thấy rõ tướng dạng chư Thiên.

 Tịnh Phạn Vương thấy chư Thiên Tử cúng dường Như Lai, vua sanh lòng hi hữu, lại thấy lâu đài thất bửu nghiêm sức đầy cả hư không, Vua nói rằng : "Đức Như Lai ngày xưa lúc còn là đồng tử chẳng sanh lòng cố luyến nơi ngôi Chuyển Luân Thánh Vương cai trị tứ thiên hạ. Nay đức Như Lai ở trong tam thiên Đại Thiên thế giới làm đại Pháp Vươngvô số Trời và Người thị vệ. Nay tôi tại đây làm người đứng quanh".

 Tịnh Phạn Vương trịch y vai hữu gối hữu chấm đất đầu mặt lễ chưn Phật chắp tay bạch Phật rằng : "Đức Thế Tôn lúc sơ sanh không người phò trì mà tự đi bảy bước nhìn ngó mười phương rồi
 mới nói lời này : Ta ở thế gian tối tôn tối thắng, sẽ được độ thoát bờ lão bịnh tử. Lúc đó tôi rập đầu lạy chưn Thế TônThời gian sau Thế Tôn đến thôn ruộng ngồi trong bóng mát dưới cây Diêm Phù, mặt trời dầu đã xế về Tây mà bóng cây vẫn ở nguyên chỗ, còn có chư Thiên đồng sáu cõi trời ở trước Thế Tôn chắp tay làm lễ, lúc đó tôi cúi đầu lễ chưn đức Thế Tôn. Hôm nay, lần thứ ba, tôi lại cũng đầu mặt lễ chưn đức Thế Tôn".

 Tịnh Phạn Vương nói kệ rằng :

 "Lưỡng Túc Thế Tôn lúc sơ sanh

 Không người phò trì đi bảy bước

 Tự nói ta tối thắng trong đời

 Lúc ấy tôi lạy bực trí sáng

 Thế Tôn xuất thành đến thôn ruộng

 Bóng cây Diêm Phù che chẳng rời

 Lục thiên đồng tử dâng cúng dường

 Lúc ấy tôi lạy đấng Ứng Cúng

 Nay lần thứ ba tôi cúi lạy

 Cung kính đấng thương xót thế gian

 Đáng được Trời Người dâng cúng dường

 Đời không ai hơn được đức Phật

 Thế Tôn trước hiệu Tất Đạt Đa

 Tên ấy cha mẹ lấy làm mừng

 Mới biết Như Lai danh hiệu thiệt

 Được nguyện đầy đủ được cam lộ".

 Bấy giờ chư Thiên cõi dục vì đức Như Lai mà trải tòa sư tử, dùng thiên y vi diệu lót trên tòa và trải khắp vườn Ni Câu Đà, lại dùng thiên y kiếp ba thọ che giăng trên không. Đức Thế Tôn từ hư không xuống ngồi trên tòa sư tử. Tịnh Phạn Vươngquyến thuộc đầu mặt lạy chưn Phật rồi lui ngồi một phía. Chư Thiên cõi dục, cõi sắc cũng đảnh lễ đức Phật rồi lui ngồi một phía trên hư không.

 Đức Thế Tôn nói kệ rằng :

 "Tịnh Phạn Đại Vươngquyến thuộc

 Đến chỗ Thế Tôn dâng cúng dường

 Từ thành Ca Tỳ La Vệ ra

 Đến vườn khả ái Ni Câu Đà

 Phật cùng vô lượng chúng vây quanh

 A Tu La VươngLong Vương

 Cưu Bàn Trà Vương Kim Sí Vương

 Càn Thát Bà Vươngquyến thuộc

 Dạ Xoa Đại Vương chúng quỉ thần

 Khẩn Na La Vương và Thiên Tử

 Tất cả đều sanh lòng mừng rỡ

 Dục giới lục thiên đã như vậy

 Sắc giới Phạm chúng Phụ Phạm Vương

 Quang Âm Biến Tịnhquyến thuộc

 Nhẫn đến Quảng Quả Tịnh Cư Thiên

 Sa Môn đại chúng Bà La Môn

 Tăng Khư Vệ Thế Ni Kiền Tử

 Cùng các ngoại đạo tất cả phái

 Thuật sĩ tu hành các thứ lạ

 Đại chúng bốn phương đều đến họp

 Như Lai tự hiện đại thần thông

 Khiến Tịnh Phạn VươngThích chủng

 Đều được tín tâm lòng mừng rỡ

 Như Lai khắp vì tất cả chúng

 Dùng lời vi diệu câu nghĩa hay

 Như Lai ý tại Tịnh Phạn Vương

 Hiện hóa các thứ thần thông lực

 Vua vốn chẳng cho Phật xuất gia

 Tướng sư ngày trước đoán đồng tử

 Tại gia tất làm Chuyển Luân Vương

 Vô lượng Nhơn chúng đồng phục thị

 Đầy đủ Thánh Vương bảy thứ báu

 Cũng lại có đủ bốn thần thông

 Như pháp trị chánh gìn quốc độ

 Kim Luân gồm trị tứ thiên hạ

 Bấy giờ Bồ Tát nói lời nầy

 Ta xưa vô lượng do tha kiếp

 Tất cả thời gian thường nói thiệt

 Phụ Vương lắng nghe lời ta nói

 Phụ Vương từ xưa đối với ta

 Từ đầu thiệt không lòng tin kính

 Muốn đem Luân Vương bảo ta làm

 Đem tứ thiên hạ sánh luyến tiếc

 Ví như thuở xưa có thần qui

 Theo biển thủy triều lên lục địa

 Hải thủy triều ấy rút về biển

 Thần qui sa vào trong giếng sâu

 Trong giếng ba ba hỏi hải qui

 Người từ nơi nào nay đến đây

 Hải qui trí rộng nói ba ba

 Tôi theo thủy triều sa xuống giếng

 Lúc thủy triều kia rút về biển

 Tôi đi chậm chạp theo chẳng kịp

 Vì vậy nay tôi mất thời tiết

 Sa vào giếng nhỏ cùng anh ở

 Ba ba lại hỏi hải qui rằng

 Nước biển có nhiều hơn nước giếng

 Há lại rộng lớn hơn đây chăng

 Là lớn hay nhỏ xin nói lẹ

 Hải qui trí rộng bảo ba ba

 Anh ngu ở chỗ người đào bới

 Tôi ở trong nước biển cả kia

 Đã trải quá lâu nhiều năm tháng

 Còn chẳng biết được trong lòng biển

 Huống là thấu rõ bờ biển ấy

 Ngày xưa Phụ Vương điều chẳng biết

 Sức đại thần thông oai đức tôi

 Muốn đem Luân Vương tứ thiên hạ

 Hào quí trong đời quyến rũ ta

 Nay ta hiện làm Pháp Luân Vương

 Thống lãnh tam thiên Đại Thiên giới

 Như pháp chánh trị lìa vũ khí

 Được Bát Bộ chúng đồng cúng dường

 Nay ta xưng tụng lời ngày xưa

 Nên đến ứng hiện đại chúng nầy

 Dùng sức thần thông tu tâm mình

 Dùng niệm từ bi triệu tập chúng

 Tất cả các cõi đều vân hội

 Đồng muốn Phụ Vương được tịnh tín".
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12737)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12662)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11707)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11699)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12307)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12371)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19806)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11936)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11972)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16867)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12656)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15049)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16088)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12857)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12205)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11900)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11914)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13135)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16489)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13217)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12464)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11792)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19821)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11135)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11237)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10392)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11071)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10950)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10017)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11724)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
(Xem: 11614)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11923)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11092)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11330)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12054)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12546)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10747)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17965)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11716)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9934)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 11225)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 13147)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 16528)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 11819)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10881)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 11830)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 28775)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12344)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 52983)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35467)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 16063)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 12166)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12286)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 11376)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17138)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14941)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 14594)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13810)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11682)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15028)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant