Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

16-06 Phẩm Long Nữ Thọ Ký

30 Tháng Tư 201000:00(Xem: 8370)
16-06 Phẩm Long Nữ Thọ Ký
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999


XVI
PHÁP HỘI
BỒ TÁT KIẾN THIỆT
THỨ MƯỜI SÁU

Hán Dịch: Cao Tế, Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá
Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

Phẩm Long Nữ Thọ Ký
Thứ Sáu


 Bấy giờ chín ức sáu ngàn vạn Long Nữ thấy chư A Tu La và chư Ca Lâu La cúng dường Thế Tôn và được thọ ký rồi sanh lòng mừng vui hớn hở vừa ý phát khởi tâm cúng dường Thế Tôn. Họ liền hóa hiện chín ức sáu ngàn vạn lọng thất bửu, thân lọng bằng tỳ lưu ly, cán lọng bằng chơn kim, lưới tỳ lưu ly trùm trên lọng, viền bằng lưới xích chơn châu, trăm ngàn lọng con bằng tỳ lưu ly và lưu tô bảy báu thòng rủ bốn phía. Chư Long Nữ lại hóa hiện chín ức sáu ngàn vạn ngựa quí, ngựa xanh màu xanh thân xanh ánh sáng xanh, tất cả đồ trang sức đều xanh, báu tỳ lưu ly làm cương khớp,lại hóa hiện trên không xe báu ma ni đại oai đức trên xe ấy có điện báu ngang rộng đều sáu mươi do tuần, điện báu ấy che trùm
 khắp cả chúng tại đại hội, bốn mặt điện có chín ức sáu ngàn vạn lưu tô bằng những châu báu thòng xuống các nơi vi diệu rất lạ, màu sáng chóa mắt. Có lưới báu trùm trên điện báu ấy. Lại có linh báu treo bốn mái điện hóa làm các thứ chim thất bửu thứ tự bay liệng, nhiều vòng bốn mặt điện báu ấy. Lại hóa hiện chín ức sáu ngàn vạn thứ âm nhạc rồng. Chư Long Nữ ấy ngồi trên ngựa xanh ném lọng báu lên hư không tự nhiên bay đi . Chư Long Nữ đều cầm nhạc khí hòa tấu nhiễu quanh Phật ba vòng, dùng bột thơm chiên đàntrầm thủy cõi trời và bột la đa ma la, bột vàng chơn kim cõi trời cùng các thứ hoa rải lên trên đức Phật, lại đem các thứ vòng hoa, các thứ y phục quý lạ, các thứ hương, các thứ anh lạc rải lên trên đức Phật để cúng dường.

 Lúc chín ức sáu ngàn vạn Long Nữ tấu nhạc, do thần lực của Phật, âm thanh ấy vang khắp tam thiên Đại thiên thế giới. Chúng sanh được nghe âm thanh ấy thì được chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề.

 Trong điện báu đại oai đứctrong khoảng kê của lưu tô thất bửu, các chim thất bửu, những linh báu do gió nhẹ thổi đọ-ng phát ra âm thanh vi diệu hòa nhã rất đáng ưa thích
 như trăm thứ nhạc do các nhạc công giỏi cùng hòa tấu. Âm thanh ấy do thần lực của Phật, cũng vang khắp Đại Thiên thế giới, chúng sanh được nghe đều được chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề.

 Chư Long Nữ lại mua các thứ hoa trời, các thứ hương trời cùng nước thơm. Hơi thơm ấy bất luận gió nghịch gió thuận đèu bay đi vô ngại. Do nước thơm mưa xuống ấy mà cả thành Ca Tỳ La ngang rộng sáu mươi do tuần đều thành bùn thơm. Hơi thơm ấy xông khắp Đại Thiên thế giới. Chúng sanh được ngửi hơi thơm ấy đều được bất thối chuyển Vô thượng Bồ đề.

 Chín ức sáu ngàn vạn Long Nữ ấy cúng dường đức Phật rồi và cùng chín ức sáu ngàn vạn lọng báu, ngựa báu, âm nhạc báu, tất cả các báu trang nghiêm ở trên hư không đảnh lễ Phật nhiễu quanh Phật ba vòng rồi dừng ở một phía cung kính nói kệ tán thán rằng :

 “ Hàng Long Nữ có trí huệ tốt
 Tâm ý hớn hở sanh mừng vui
 Cúng dường Thích Ca Mâu Ni Phật
 Nguyện cầu an đại Bồ đề
 Hóa làm chín ức sáu ngàn vạn
 Lọng báu và các trang nghiêm đẹp
 Cúng dường đức Phật khéo điều tâm
 Xuất ly tất cả các chướng ngại
 Lại hóa chín ức sáu ngàn vạn
 Ngựa quí và đồ trang nghiêm báu
 Ngựa và trang nghiêm đều màu xanh
 Cũng lại hóa hiện tràng màu xanh
 Ngựa ấy đều đi trên hư không
 Đến chỗ Phật ngự dâng lễ cúng
 Long Nữ đều có lòng kính tin
 Đầu mặt đảnh lễ chư Như Lai
 Những hóa nhạc khí ở Long cung
 Vì cúng dường Phật mà đem đến
 Đến rồi dâng lên Thích Ca Phật
 Đáng thọ cúng dường đại Đạo Sư
 Thế Tôn khiến tiếng âm nhạc ấy
 Vang khắp cõi tam thiên Đại Thiên
 Vô lượng chúng sanh được nghe rồi
 Đều được tâm Bồ đề bất thối
 Chúng Long Nữ ấy ở không trung
 Hóa làm một đại chúng bửu điện
 Rộng rãi có sáu mươi do tuần
 Trùm khắp toàn hội các đại chúng
 Báu ấy tên ma ni oai đức
 Chiều khắp mười phương cõi Đại Thiên
 Hàng Long Nữ ấy đều tiến lên
 Tâm tịnh mừng vui cúng dường Phật
 Phát sanh lòng hớn hở vô lượng
 Vì cầu quả Bồ đề an ổn
 Nguyện cho chúng tôi sẽ làm Phật
 Vì lợi ích tất cả chúng sanh
 Chúng tôi nguyện vì vô lượng chúng
 Thuyết pháp cứu khỏi vòng phiền não
 Cũng như thập lực đại Đạo Sư
 Hiện nay cứu khổ chúng sanh vậy
 Tất cả các pháp như ảo mộng
 Cũng như bọt nước chẳng chắc bền
 Lại như mưa xối nổi bóng nước
 Nên biết các pháp không có chủ
 Chúng sanh như ảnh cũng như tượng
 Quan sát thế gian như vậy rồi
 Mong nguyện chúng tôi vì chúng nói
 Pháp tánh chơn như và thiệt tế
 Như Phật trí sáng khéo thấy pháp
 Vọng tưởng hư ngụy dối thế gian
 Như ảo trang nghiêm không có thiệt
 Chỉ hay noặc loạn các phàm phu
 Với pháp chúng sanh mê vô trí
 Chẳng biết các pháp chơn thiệt tánh
 Đạo Sư đã thấy pháp bỉ ngạn
 Lại hay khiến các chúng khác hiểu
 Hư không nổi mây che khắp đất
 Thấy mây hư không kia như ảnh
 Nó không thể thiệt không sở y
 Cũng lại như ảnh không có thiệt
 Chúng sanh như vậy không thể tánh
 Chỉ hay dối lầm các căn môn
 Phật trí thấy các loài như vậy
 Chỉ hay dối lầm kẻ vô tri
 Thế gian tôn trọng lấy nghiệp ấy
 Nơi người trí huệ làm lợi ích
 Như Lai thị hiện không thể tánh
 Vì chúng sanh thấy chơn thiệt vậy
 Chỉ dùng thiệt pháp vui lòng chúng
 Trong bùn sanh tử làm cầu đò
 Thiệt pháp chẳng phải cảnh người ngu
 Vì họ chấp danh chẳng cầu nghĩa
 Vì Phật trí sáng tôi quy y
 Đấng đầy đủ thị hiện chơn thiệt
 Hay làm thân cứu cho kẻ ngu
 Làm thiện tri thức làm nhà về
 Như vậy vì cầu đại Bồ đề
 Chúng tôi cúng dường đại Đạo Sư
 Nguyện được làm Phật giác ngộ người
 Lợi ích thế gian như Phật vậy ”.

 Đức Thế Tôn biết các Long Nữ đã thâm tín nên hiện tướng mỉm cười; huệ Mạng Mã Thắng nói kệ bạch hỏi rằng :

 Đấng thắng trí ở trong thế trí
 Đạo Sư tối thắng hiện mỉm cười
 Đức trọng kiên cố dường như núi
 Phật hiện mỉm cười chẳng không nhơn
 Đấng chứa tối thượng hơn trong người
 Mong nói nhơn duyên tướng mỉm cười
 Trời Người Rồng Quỉ nếu được nghe
 Nơi Phật đều sanh lòng mừng rỡ
 Thế gian Đạo Sư với thế gian
 Thương biết tất cả pháp nhơn duyên
 Không có một pháp Phật chẳng hiểu
 Nhơn duyên chủng loại Phật đều biết
 Ngưỡng mong đức Phật thương nói cho
 Duyên cớ do đó Phật mỉm cười
 Tất cả đại chúng nếu được nghe
 Sanh lòng mừng rỡ hết nghi hoặc
 Như Lai diệu pháp có lợi lớn
 Những đại chúng đây quyết sẽ được
 Đại chúng nếu được tâm tịch định
 Do ưa diệu pháp được lợi ích
 Phật lực khiến dứt phân biệt rồi
 Chỉ thích Bồ đề nghe Phật nói
 Nếu được nghe nhơn duyên mỉm cười
 Quyết sẽ thành tựu nơi Phật đạo
 Nếu người nơi pháp lòng có nghi
 Tâm họ xao động sanh khổ não
 Hiện nay đại chúng trong hội này
 Chẳng biết duyên do Phật mỉm cười
 Đại chúng có thể dứt lòng nghi
 Ngưỡng mong Đạo Sư trừ dứt cho
 Mau thương tuyên nói độ chúng tôi
 Do nhơn duyên gì Phật mỉm cười
 Ngày nay ai tâm được thanh tịnh
 Ngày nay ai trừ được ma oán
 Ngày nay ai kính tin nơi Phật
 Ngày nay ai được cúng duờngPhật
 Ngưỡng mong Đại Sư ở trước chúng
 Tuyên nói ai có công đức ấy
 Chúng tôi nghe nói sanh lòng mừng
 Lòngmừng vui rồi được an ổn
 Các đại chúng đây đều kính lễ
 Tất cả đều có lòng muốn biết
 Nguyện nghe cớ cười dể được mừng
 Ngưỡng mong Thế Tôn tuyên nói rõ
 Các Trời Người nầy được nghe rồi
 Tất cả đại chúng không còn nghi
 Nếu được nghe lời Như Lai nói
 Tất cả sẽ được lòng mừng rỡ ”.

 Đức Thế Tôn nói kệ đáp Mã Thắng Tỳ Kheo rằng :

 “ Lành thay Huệ Mã Thắng Tỳ Kheo
 Hỏi nơi Như Lai nhơn duyên cười
 Thấy các Long Nữ cúng dường rồi
 Phật thương thế gian nên mỉm cười
 Nay Phật vì ông nói quả ấy
 Rời lìa tội lỗi chí tâm nghe
 Duyên cớ nay Phật hiện mỉm cười
 Mã Thắng các người nghe Phật nói
 Các Long Nữ nầy tâm không chấp
 Cầu đại Bồ đề tu tinh tấn
 Dùng trí huệ tu thế gian không
 Quyết định an trú đạo Bồ đề
 Nơi đây không tác không người thọ
 Cũng không kẻ sanh kẻ dưỡng dục
 Chỉ có các pháp không việc khác
 Pháp ấy cũng vọng như ảo mộng
 Do vì biết ơn cúng dường Phật
 Hay dùng trí huệ biết chơn thiệt
 Lành thay Phật hiểu các thế gian
 Nghĩa là thấy được không vô ngã
 Họ thích không ấy khéo tu tập
 Dầu bày cúng dường xem như ảo
 Nơi thắng Bồ đề đã phát nguyện
 Quán Bồ đề ấy cũng chẳng chấp
 Họ đem tối thắng ấy cúng dường Phật
 Cũng quán chúng sanh không tịch rồi
 Lìa hẳn loài rồng thân ác thú
 Cùng trời Đế Thích kia đồng ở
 Tại trời Đao Lợi thọ vui lớn
 Hưởng hết thọ mạng Đao Lợi rồi
 Không ai chê được tiếng tâm họ
 Lại được sanh lên trời Dạ Ma
 Lúc họ ở cung trời Dạ Ma
 Hưởng đủ vui sướng cung trời ấy
 Các Phật tử ở trời Dạ Ma
 Cho đến mãn hết thọ lượng ấy
 Các Phật tử nầy hưởng đủ vui
 Hết thọ mạng nơi Dạ Ma rồi
 Lại được sanh lên trời Đâu Suất
 Cùng trời cõi ấy đồng một loại
 Được các Thiên nữ thường vây quanh
 Hưởng đủ diệu lạc rất thù thắng
 Lòng không luyến trước gìn đạo lành
 Như hoa sen kia nước chẳng ngấm
 Trời ấy dùng được trí huệ lớn
 Quan sát tất cả thế gian không
 Dường như khác đá chớ chẳng mất
 Đạo niệm chẳng mất cũng như vậy
 Các Thiên Tử ấy ở Đâu Suất
 Hưởng đủ diệu lạc rất thù thắng
 Ở nơi Đâu Suất mãn thọ rồi
 Lại được sanh lên trời Hóa Lạc
 Họ được danh tốt không hư hoại
 Được các Thiên Nữ thường cúng dường
 Dầu ở cung trời tâm không trước
 Cho đến hết hạn thọ lượng ấy
 Ở trong cung trời Hóa Lạc kia
 Hưởng đủ diệu lạc rất thù thắng
 Chủng trí huệ ấy mãn thọ rồi
 Nơi tất cả pháp được cứu cánh
 Sanh lên Tha Hóa Tự tại Thiên
 Làm thương chủ lớn tín thanh tịnh
 Ở trời Tha Hóa lòng không nhiễm
 Lúc ở trời ấy ưa chánh pháp
 Phật tử ở cung trời Tha Hóa
 Hưởng ngũ dục lạc rất vi diệu
 Không có ngu si gìn đạo lành
 Cho đến hết hạn thọ mạng ấy
 Dầu hưởng lạc dục mà thấy lỗi
 Ưa cầu chánh địnhNiết bàn
 Tu tập chứng được thiền định rồi
 Mạng chung liền sanh trời Phạm Thiên
 Ở cung Phạm Thiên giỏi biết thiền
 Hưởng vui tịch diệt quả thiền ấy
 Trí huệ rất lớn trụ một kiếp
 Nguyện cầu Vô thượng đại Bồ đề
 Lúc ở Phạm cung trong một kiếp 
 Khéo dùng oai nghi cầu trí huệ
 Phương tiện để lợi ích thế gian
 Rộng làm vô biênvô lượng
 Trí ở Phạm cung vui tại thiền
 Chẳng trước nơi thiền mà tịch diệt
 Biết trước thiền lạc cũng là lỗi
 Các căn tịch định cầu Bồ đề
 Nơi tất cả pháp lòng tin hiểu
 Đều được an trụ Bồ Tát hạnh
 Biết các thiền định tướng hư dối
 Chỉ cầu tịch diệt đại Niết bàn
 Các Phật tử ấy ở trong đó
 Cầu được Bồ đề quả an ổn
 Ở tại Phạm cung tâm thanh tịnh
 Nghĩ lại chúng sanh khéo điều tâm
 Giáo pháp tự nhiên của Phạm Thiên
 Thuyết giáo Phạm Thiên chẳng xuất thế
 Chỉ có Bồ đề đạo chư Phật
 Cứu cánh hay được xuất thế gian
 Đương thời Phạm Thiên sanh tin rồi
 Phát tâm an trụ nơi Phật đạo
 Biết giáo tự nhiên của Phạm Thiên
 Chẳng phải cứu cánh đạo xuất thế
 Nơi pháp Như Lai họ tương ưng
 Vì các thế gian nói pháp ấy
 Như pháp nhãn họ nói quả ấy
 Khiến người nghe kia mau được biết
 Phật tự ở tại Phạm cung kia
 Làm những lợi ích thế gian rồi
 Hay khiến vô lượng na do tha
 Ức chúng an trụ đạo Bồ đề
 Họ ở vô lượng na do tha
 Sẽ được cúng dường tất cả Phật
 Vị lai kiếp tinh tú sau đây
 Các căn tịch tịnh sẽ làm Phật
 Các Trời Người Rồng A Tu La
 Kim Sí Dạ Xoa Càn Thát Bà
 Cưu Bàn Trà Quí Khẩn Na La
 Tất cả đại chúng đều mừng rỡ
 Chúng ấy được chư Phật giáo hóa
 Ở trong Phật pháp đắc lực rồi
 Thảy đều mừng vui chấp tay kính
 Cúi đầu đảnh lễ nơi chưn Phật » .
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12737)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12662)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11708)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11699)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12308)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12371)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19807)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11939)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11974)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16867)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12656)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15050)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16089)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12858)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12206)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11904)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11914)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13135)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16491)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13218)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12466)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11794)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19821)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11135)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11238)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10392)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11071)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10950)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10018)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11725)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
(Xem: 11616)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11924)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11095)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11330)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12055)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12546)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10748)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17965)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11716)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9935)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 11225)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 13147)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 16528)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 11821)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10882)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 11831)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 28776)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12344)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 52984)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35467)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 16063)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 12167)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12286)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 11377)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17140)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14946)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 14596)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13813)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11684)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15030)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant