Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

16-09 Phẩm Càn Thát Bà Thọ Ký

30 Tháng Tư 201000:00(Xem: 8120)
16-09 Phẩm Càn Thát Bà Thọ Ký
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999

XVI
PHÁP HỘI
BỒ TÁT KIẾN THIỆT
THỨ MƯỜI SÁU

Hán Dịch: Cao Tế, Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá
Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

Phẩm Càn Thát Bà Thọ Ký
Thứ Chín


 Bấy giờ lại có ba ức sáu ngàn vạn chúng Càn Thát Bà thấy chư A Tu La, Ca Lâu La, Long Nữ, Long VươngCưu Bàn Trà cúng dường Phật được thọ ký, họ vừa lòng xứng ý hớn hở vui mừng sanh tâm hi hữu chưa từng có mà nghĩ rằng : Đức Như Lai thiệt là hi hữu chưa từng có tuyên nói pháp giới không có biến đổithị hiện có làm tăng trưởng căn lành. Dầu không tác giảthị hiện tác nghiệp. Chư Càn Thát Bà ở trong pháp ấy rõ biết như vậy rồi, đối với Như Lai sanh lòng tôn trọng phát tâm Vô thượng Bồ đề. Họ mừng vui vì muốn cúng dường Phật, nên hóa hiện ba ức sáu ngàn vạn đầu đại tượng vương đều có sáu ngà. Trên mỗi ngà có bảy ao nước. Trong mỗi ao có bảy hoa sen. Mỗi hoa sen có ngàn cánh,

 Trên mỗi cánh có bảy ngọc nữ. Khoảng cách của một cánh sen có bảy thị nữ, trang sức với như’ng đồ trang nghiêm bằng thiên bửu , tay cầm thiên hương để cúng dường. Nơi mỗi đầu đại tượng vương lại hóa làm ba ức sáu ngàn vạn lọng thất bửu, ba ức sáu ngàn vạn trướng bằng thiên lương.

 Chư Càn Thát Bà đều ngồi trên tượng vương tấu thiên âm nhạc, ở trên hư không đi nhiễu Phật ba mươi sáu vòng, đem hương trời hoa trời và hoa thất bửu rải cúng dường Phật, mùi hương hoa ấy lan khắp mười phương. Lại mưa nước thơm cõi trời sáu mươi do tuần thành Ca Tỳ La làm cho toàn thành ướt thành bùn thơm, hơi bùn thơm khắp tam thiên Đại Thiên thế giới, chúng sanh nghe hơi ấy đều chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề . Lúc họ tấu âm nhạc , tiếng nhạc ấy vang khắp tam thiên Đại thiên thế giới, chúng sanh nghe tiếng nhạc ấy đều được chẳng thối chuyển Vô thượng Bồ đề. Chư Càn Thát Bà ở trên tượng vương trần thiết cúng dường Phật, khiến các ngọc nữ tấu nhạc ca vũ. Lại có ngọc nữ động thân tay rải rác thứ bột hương để cúng dường Phật.

 Chư Càn Thát Bà ở trên không ngồi tượng vương nhiễu Phật đã ba mươi sáu vòng rồi, họ xuống tượng nhiễu Phật ba vòng đảnh lể Chưn Phật chắp tay đứng một phía nói kệ tán thán rằng :

 “ Thế Tôn trí tuệ ngoài ba cõi
 Tự mình ra rồi lại độ người
 Tất cả thế gian không bằng Phật
 Tướng hảo thân sáng rất đoan chánh
 Trời Người tối diệu vô biên xưng
 Thị hiện thế gian chẳng nghĩ bàn
 Chẳng thấy một pháp tướng khác
 Mà dạy chúng sanh tu thiện nghiệp
 Pháp chơn như không biến đổi khác
 Chỉ có ngôn thuyết không có nghĩa
 Không có dụng sự và người dùng
 Dầu vậy Phật độ các quần sanh
 Chẳng đến chẳng đi cũng chẳng sanh
 Phật hay diễn thuyết pháp như vậy
 Dầu nói các pháp thể tánh kgông
 Thế Tôn lại bảo siêng hành đạo
 Không có một pháp hay tự tác
 Người sáng thế gian nói có tác
 Các pháp đều chẳng tự hay biết
 Thế Tôn thị hiện làm tất cả
 Như xe họp nhiều những chi phần
 Chi phần chẳng biết tự hay làm
 Công dụng xe ấy hiện thấy được
 Phật nói các pháp cũng như vậy
 Các pháp mỗi mỗi chẳng dạy nhau
 Cũng chẳng thay đổi dạy bảo nhau
 Tất cả các pháp chẳng nương nhau
 Pháp bổn bất sanh cũng bất diệt
 Phật vì thế để nói như vậy
 Thế đế các pháp chẳng toàn không
 Như pháp thế đế thể tánh trụ
 Biết như vậy rồi vì chúng nói
 Thế Tôn nói các pháp như vậy
 Đại bi chỗ làm rất kỳ đặc
 Các pháp thể tánh chẳng thể thấy
 Như Lai phương tiện nói pháp trụ
 Chúng tôi nguyện làm vô biên xưng
 Đại Đại Sư đủ tướng trăm phước
 Đại hỉ lợi ích các thế gian
 Nguyện làm Thế Tôn như Phật vậy
 Chúng tôi nguyện nơi kẻ ám chướng
 Những người tùy thuận dòng tham dục
 Người khát ái buộc ràng trăm khổ
 Cúng tế độ họ như Thế Tôn
 Chúng tôi nguyện nơi người nhiều khổ
 Người chẳng thấy bờ kia mà trói
 Người chạy như vượn khỉ nhảy nhót
 Cứu tế độ họ như Thế Tôn
 Chúng tôi nguyện như người mù lòa
 Người sáu loài nhọc nhằn qua lại
 Người nơi mình tự hoại nghiệp quả
 Cứu tế độ họ như Thế Tôn ” .

 Đức Phật biế chư Càn Thát Bà sanh lòng tin sâu nên hiện tướng mỉm cười.

 Huệ Mạng Mã Thắng Tỳ Kheo nói kệ bạch hỏi rằng :

 “ Vô biên oai đức hiện mỉm cười
 Đạo Sư mỉm cười chẳng không nhơn
 Nguyện Phật mau nói nhơn duyên ấy
 Dứt trừ chúng sanh các mối nghi
 Nay thấy Thế Tôn mỉm cười rối
 Đại chúng thảy đều sanh nghi hoặc
 Tất cả nguyện nghe nghĩa mỉm cười
 Ngưỡng mong đại bi dứt mối nghi
 Ai nơi Phật pháp sanh kính tin
 Ai rời được nơi các lưới nghi
 Phật biết chúng sanh tin sâu rối
 Trời Người bực thánh nên hiện cười
 Ai có trí tuệ hay tùy thuận
 Phát chơn như được Như Lai nói
 Biết nhiệm huệ giải hạnh họ rồi
 Ở trong đại chúng hiện mỉm cười
 Tất cả đại chúng không dị tâm
 Chỉ muốn thích nghe Thế Tôn nói
 Chắp mười ngón tay để trên đầu
 Nhứt tâm chiêm ngưỡng mặt Như Lai
 Lìa các uế trược không lo rầu
 Mắt đời hiện còn nên mừng rỡ
 Vì trừ tất cả lòng nghi hoặc
 Nguyện đại bi nói nhơn duyên cười ».

 Thế Tôn nói kệ đáp Huệ Mạng Mã Thắng rằng :

 « Phập hiện mỉm cười vì đời vậy
 Lành thay Mã Thắng hỏi đúng giờ
 Đại chúng thiện căn sẽ tăng trưởng
 Vì Phật mỉm cười sự thọ ký
 Mã Thắng lắng nghe lời Phật nói
 Đạo Sư nay hiện cớ mỉm cười
 Phật sẽ nói rõ nghĩa mỉm cười
 Ông phải vui mừng nghe Phật nói
 Càn Thát Bà Vương kính tin Phật
 Tâm họ thanh tịnh sanh mừng rỡ
 Y nơi thiệt pháp nhập pháp rồi
 Nơi Phật chánh pháp sanh hỉ kỳ
 Các pháp tịch diệt an bất động
 Hàng đại chúng nầy xu thiệt tế
 Như thành Càn Thát nhập như vậy
 Cúng dường nơi Phật không ai bằng
 Các pháp như vậy không có sanh
 Tất cả cũng lại chẳng tận diệt
 Đại chúng tư duy pháp như huyễn
 Chưa hiểu rõ được sanh nghi hoặc
 Pháp chẳng nói được phương tiện nói
 Phật vì chơn thiệt nên như vậy
 Chúng ấy vào chánh pháp Phật rồi
 Ngồi tượng Đại Long cúng dường Phật
 Quan sát Bồ đề không sanh diệt
 Càn Thát Bà Vương cúng dường Phật
 Thương xót chúng sanh hạng ngu mê
 Vì thế mà cầu Nhứt thiết trí
 Chúng ấy phát nguyện sẽ thành Phật
 Khiến người ngu mê mất trí huệ
 Nhập pháp chơn thiệt an trụ rồi
 Khiến được cầu bất tử tịch diệt
 Chúng ấy cúng dường như vậy rồi
 Bỏ rời thân quỉ lòng mừng rrỡ
 Quyết được vãng sanh trên cung trời
 Hằng cùng đế thích gần gũi nhau
 Được gặp nhiều ức na do tha
 Cúng dường Như Lai Vô Thương Giác
 Từ một Phật độ đến Phật độ
 Nơi chỗ chư Phật được nghe pháp
 Chúng ấy tu tịnh Phật hạnh rồi
 Chỗ được Phật độ cũng thanh tịnh
 Hóa vô lượng chúng phát đạo tâm
 Khiến họ tăng trưởng Phật chủng tử
 Biết các thế gian tánh không rời
 Cũng đem pháp ấy dạy bảo người
 Khiến chúng an trụ Nhứt thiết trí
 Trụ thế vô lượng na do tha
 Phật ấy đồng hiệu vô biên huệ
 Mỗi mỗi chư Phật trụ ở đời
 Thảy đều vô lượng do tha kiếp
 Diễn nói Phật đạo cho người nghe
 Như vậy Thích Ca Mâu Ni Phật
 Nói báo Càn Thát Bà cúng dường
 Cùng họ thọ ký khiến được nghe
 Nhơn duyên cười mà Mã Thắng hỏi
 Đại chúng nghe rồi đều vui mừng
 Biết Phật thọ ký rất đáng thích
 Nghe Phật thọvô thượng rồi
 Thảy đều vui y Thích Ca Phật”.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12738)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12663)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11716)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11709)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12316)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12372)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19808)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11949)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11981)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16868)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12657)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15051)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16095)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12860)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12209)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11904)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11914)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13137)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16492)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13221)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12474)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11800)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19825)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11136)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11243)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10393)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11076)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10953)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10024)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11734)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
(Xem: 11620)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11928)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11098)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11331)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12057)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12548)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10756)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17966)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11716)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9937)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 11226)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 13153)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 16535)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 11829)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10886)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 11833)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 28780)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12346)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 52989)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35469)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 16065)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 12171)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12286)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 11380)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17156)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14955)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 14601)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13822)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11691)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15038)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant