Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

16-21 Phẩm Biến Tịnh Thiên Thọ Ký

30 Tháng Tư 201000:00(Xem: 7809)
16-21 Phẩm Biến Tịnh Thiên Thọ Ký
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999

XVI
PHÁP HỘI
BỒ TÁT KIẾN THIỆT
THỨ MƯỜI SÁU

Hán Dịch: Cao Tế, Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá
Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

Phẩm Biến Tịnh Thiên Thọ Ký
Thứ Hai Mươi Mốt


 Bấy giờ có mười hai na do tha chúng trời Biến Tịnh thấy A Tu La nhẫn đến trời Quang Âm cúng dường Phật được thọ ký, họ đều vừa mừng hớn hở tự hiện oai lực bạch đức Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Có tam muội tên Siêu quá tất cả pháp. Đại Bồ Tát được tam muội ấy rồi, ở nơi các phan duyên và tất cả sự đều sanh lạc thọ mà chẳng sanh khổ thọ. Giả sử ở trong sự địa ngục khổ não, cũng đều sanh ý tưởng vui vẻ, hoặc nơi súc sanh đạo thọ báo súc sanh đạo thọ báo súc sanh cũng ý tưởng vui, hoặc tại ngạ quỉ đạo thọ đói khát cũng sanh tưởng vui, hoặc ở trong A Tu La đạo cũng sanh tưởng vui, hoặc trong loài người bị khổ cũng sanh ý tưởng vui mà chẳng hề sanh ý tưởng khổ. Giả sử bị chặt tay chặt chưn, lắt tai xẻo mũi hay dao gậy chém đập thân người, hoặc tù ngục giam cầm, treo ngược, xẻo da thịt như lột áo, cột trói thái thịt, chày giã ép nghiền như bã mía, chà đạp dập nát như lau cói, hoặc bị thiêu đốt như tim đèn như đuốc sáng, hoặc bị cho sư tử cọp sói xé ăn, hoặc bị rót nước dấm nước cay vào miệng mũi, hoặc bị nung nấu hay thui đốt , hoặc cho voi ngựa chà đạp, hoặc bị móc mắt, hoặc bị mâu sóc đâm giơ lên cao, hoặc bị chặt đầu,tất cả sự ấy đều sanh ý tưởng vui.

 Tại sao vậy?

 Vì đại Bồ tát ấy trong đêm dài tu hạnh Bồ Tát phát nguyện như vầy : Nếu có chúng sanh bố thí vật thực cho tôi,nguyện họ được vui Niết bàn, nếu có chúng sanh ở nơi tôi bố thí cúng dường lễ bái tôn trọng cung kính khen tặng hoặc chê bai xua đuổi quở mắng đánhgiết, đều nguyện cho tất cả đều được vui Niết bàngiác ngộ Vô thượng Bồ đề.

 Đại Bồ Tát ấy thành tựu tâm như vậy, đầy đủ nghiệp như vậy, cũng lại trọn vẹn nguyện như vậy, đối với tất cả chúng sanh đều sanh ý tưởng vui, thường hay tu tập luôn chẳng hở dứt. Do nghiệp báo ấy mà được tam muội Nhứt thiết pháp lạc rất thiện thắng ấy. Lúc đại Bồ Tát được tam muội ấy chẳng bị các ma nhiễu hoại, cũng chẳng bị các ma sự ràng buộc. Phải biết đại Bồ Tát nầy được năm thứ tự tại : một là thọ mạng tự tại, hai là sanh tự tại, ba là nghiệp tự tại, bốn là giác quán tự tại, năm là những món quả báo tự tại. Đại Bồ Tát nầy nếu muốn quá một đời chứng Vô thượng Bồ đề, do nơi sức tam muội ấy nên liền có thể được chứng. Nếu chẳng thích mau chứng Vô thượng Bồ đề thì có thể ở đời vô lượng a tăng kỳ kiếp cứu độ chúng sanh. Tại sao vậy? Phải biết Bồ Tát ấy an trụ đại thừa thường làm Đạo Sư cho chư Bồ Tát nhiếp thọ tất cả chư Bồ Tát khác. Đại Bồ Tát nầy nhàm lìa các loài mà vì độ chúng sanh nên lại sanh vào trong các loài, cứu cánh sở học của tất cả Bồ Tát được Bát Nhã Ba la mật nhiếp thọ, đầy đủ tất cả xảo phương tiện biết các ma nghiệp được pháp cứu cánh. Thừa Phật oai thần, chư đại Bồ Tát ấy nơi tất cả pháp đều biết được hết”.

 Chúng trời Biến Tịnh nói kệ tán thán đức Phật :

 “Chúng tôi tất cả trời Biến Tịnh
 Ở nơi Phật pháp đều biết hết
 Đầu mặt quy kính Thiên Nhơn Sư
 Các căn tịch tĩnh như tịch diệt
 
 Hiểu rõ các nghĩa được cúng dường
 Đấng Mâu Ni đã qua sanh tử
 Tôi nay tán thán đại Đạo Sư
 Hay dắt dẫn người chẳng bị dắt
 Các pháp tánh tướng chẳng cứu cánh
 Cũng lại chẳng có chỗ y trụ
 Như Lai khéo biết sự vọng tưởng
 Như nhà ảo thuật biết sự ảo
 Người trí hiểu rõ tiếng ngữ ngôn
 Dụ như hang sâu dột tiếng vang
 Thế Tôn tri kiến khéo như vậy
 Tất cả thế gian Trời Người thảy
 Không có chúng sanh không thọ mạng
 Cũng lại không nhơn không có ngã
 Đại trí quan sát tất cả tưởng
 Rõ thấu ý tưởng đều về không
 Lưỡng Túc Thế tôn đại từ bi
 Hằng thường hành từ chẳng tạm bỏ
 Tất cả thế gian các Trời Người
 Chẳng lường biết được trí Như Lai
 Đạo Sư diễn nói duyên chúng sanh
 Đó là từ tâm căn lành lớn
 Biết rõ tất cả các chúng sanh
 
 Không có chúng sanhthọ mạng giả
 Nơi đây chúng tôi không cấu trược
 Tâm trí thanh tịnh lìa nghi hoặc
 Thế nên nơi Phật thắng trí huệ
 Đấng đáng thọ cúng dâng cúng dường
 Ở trong mười phương thế giới kia
 Tìm khổ rốt ráo chẳng có được
 Như Lai vô thượng trời trong trời
 Nói duyên chúng sanh phát từ tâm
 Đây là lời dạy của Thế Tôn
 Nay tôi được hiểu cũng như Phật
 Vì thế tôi đối Thế Gian giải
 Nay được cúng dường bực đáng cúng
 Đã không chúng sanh cũng không khổ
 Thế nên không có được cứu độ
 Đã khiển trừ được lòng ưu muộn
 Bèn được mừng vui rất hớn hở
 Phật giáo như vậy bất tư nghị
 Chúng tôi đã được biết như thiệt
 Thế nên nay tôi cúng dường Phật
 Nguyện được trí vô thượng Như Lai
 Phật ở các loài chẳng thấy khổ
 Niết bàn cũng lại bất khả đắc
 
 Tăng thượng vứt bỏ nơi sanh tử
 Dùng đây lợi ích các thế gian
 Không khổ không loài không chúng sanh
 Cũng không Niết bàn để y trụ
 Biết được Phật pháp như vậy rồi
 Thế nên chúng tôi nay cúng dường
 Phật đủ từ bihỉ xả
 Chuyễn vì chúng sanh thường diễn thuyết
 Mà lại chẳng thấy có chúng sanh
 Được trụ nơi bốn tâm vô lượng
 Chẳng thấy có ai là phóng dật
 Cũng lại chẳng thấy bất phóng dật
 Biết được giáo pháp của Phật rồi
 Nay tôi cúng dường đại Đạo Sư
 Vô Thượng Sĩ nơi thân lìa thân
 Quán thân cứu cánh bất khả đắc
 Dầu vậy chẳng phải chẳng nói niệm
 Mà nói có niệm và thất niệm
 Thiện Thệ thường nói tu học niệm
 Đó là quán thân chánh niệm xứ
 
 Nay được cúng dường đấng cứu độ
 Thế Tôn quán thọ bất khả đắc
 Vì thọ không có thể tánh vậy
 Cũng lại quán sát nơi thọ giả
 Cứu cánh không có tánh chơn thiệt
 Và quán người tu niệm xứ ấy
 Cứu cánh cũng lại bất khả đắc
 Chúng tôi biết Phật pháp như vậy
 Nay được cúng dường Thiên Nhơn Sư
 Quán tâmquán tâm số pháp
 Cứu cánh thể tánh bất khả đắc
 Cũng lại chẳng thấy có tu niệm
 Và không ai chánh trụ niệm xứ
 Phật nói niệm cùng tâm hòa hiệp
 Người cầu giải thoát phải tu học
 Chúng tôi biết Phật giáo như vậy
 Nay được cúng dường Chánh Biến Tri
 Như Lai chẳng thấy có các pháp
 Cũng chẳng thấy có người tu pháp
 Đại Thánh chỉ dạy tụ tập niệm
 Niệm ấy cũng lại tánh tự không
 Lại nói niệm cùng pháp hòa hiệp
 Muốn cầu giải thoát phải nên tu
 
 Chúng tôi biết Phật pháp như vậy
 Nay được cúng dường Nhứt thiết trí
 Một niệm xứ còn bất khả đắc
 Huống lại còn có ba và bốn
 Nghĩa là nơi niệm trụ xứ ấy
 Các niệm xứ ấy thảy đều không
 Thế nên thiệt cầu bất khả đắc
 Cứu cánh không người thọ khổ lạc
 Chúng tôi biết thánh giáo như vậy
 Nay được cúng dường Phật Thế Tôn
 Mâu Ni tuyên dạy tứ chánh cần
 Nếu có Tỳ Kheo chuyên tu tập
 Đây thì hay làm đường giải thoát
 Sẽ được ra khỏi biển sanh tử
 Mà không ai thoát không ai trói
 Không Phật không giáo không Bồ đề
 Nhưng lại chẳng hoại giả danh dụng
 Thế nên nay tôi cúng Đại Thánh
 Phật dạy bốn thứ như ý túc
 Đường an ổn giải thoát thắng diệu
 Hàng chúng sanh các căn tịch tĩnh
 Tu hành đạo nầy được Niết bàn
 Như ý và túc cùng người tu
 
 Chơn thiệt quán sát bất khả đắc
 Nhưng chẳng đoạn tuyệt nêu có làm
 Cảnh giới trí huệ chẳng thấy có
 Trong giáo pháp Thế Tôn như vậy
 Nơi đây chúng tôi đều biết cả
 Tâm trí thanh tịnh không cấu uế
 Đều được xa rời các nghi hoặc
 Dùng đây tức là thượng cúng dường
 Cúng đấng kham thọ đấng thù thắng
 Thế nên diệu trí không ngang sánh
 Nay tôi đều được dâng cúng dường
 Đấng Thế Gian Giải nói ngủ căn
 Xuất thế được đến giải thoát
 Cẩn thận chớ lười thường siêng tu
 Đó là xu hướng Niết bàn lộ
 Căn và người tu thảy đều không
 Cũng không giải thoát và người thoát
 Nơi đây chúng tôi đều không nghi
 Thế nên nay được cúng dường Phật
 Đạo Sư chỉ dạy năm thứ lực
 Đường chánh đến được thành Niết bàn
 Đây dứt được hết phiền não phược
 Khiến người bị trói được giải thoát
 
 Thể các lực ấy tánh tự không
 Phiền não và Phật đều cũng không
 Chúng tôi nơi đây không nghi lự
 Thế nên nay được cúng Như Lai
 Đại Tiên diễn nói bảy giác chi
 Bồ đề phần pháp đạo tối thắng
 Hay mở sự trói các chúng sanh
 Hướng đến Niết bàn đường lớn thẳng
 Không có trói buộcgiải thoát
 Cũng không ai bị trói được mở
 Nơi đây chúng tôi không nghi hoặc
 Thế nên nay được cúng dường Phật
 Thế Tôn tuyên dạy bát chánh đạo
 Hiển thị tất cả các quần sanh
 Đây là gốc khổ các phiền não
 Tu học thánh đạo dứt trừ được
 Cả hai pháp ấy lìa đối trị
 Đó là thánh đạophiền não
 Chúng tôi nơi đây đều không nghi
 Thế nên được cúng đấng đáng cúng
 Tu xa ma tha và xá na
 Đạo ấy hay hết các mé khổ
 Chỉ bày thọ khổ tập khí dơ
 
 Thể các lực ấy tánh tự không
 Phiền não và Phật đều cũng không
 Chúng tôi nơi đây không nghi lự
 Thế nên nay được cúng Như Lai
 Đại Tiên diễn nói bảy giác chi
 Bồ đề phần pháp đạo tối thắng
 Hay mở sự trói các chúng sanh
 Hướng đến Niết bàn đường lớn thẳng
 Không có trói buộcgiải thoát
 Cũng không ai bị trói được mở
 Nơi đây chúng tôi không nghi hoặc
 Thế nên nay được cúng dường Phật
 Thế Tôn tuyên dạy bát chánh đạo
 Hiển thị tất cả các quần sanh
 Đây là gốc khổ các phiền não
 Tu học thánh đạo dứt trừ được
 Cả hai pháp ấy lìa đối trị
 Đó là thánh đạophiền não
 Chúng tôi nơi đây đều không nghi
 Thế nên được cúng đấng đáng cúng
 Tu xa ma tha và xá na
 Đạo ấy hay hết các mé khổ
 Chỉ bày thọ khổ tập khí dơ
 
 Kiếp xa Thế Tôn đã trừ sạch
 Quả xa ma tha và xá na
 Tất cả thứ ấy thảy đều không
 Chúng trời nơi đây lìa nghi hoặc
 Vì thế chúng tôi nay cúng dường
 Phật nói bất tịnh trị tham dục
 Từ tâm đối trị các sân khuể
 Tỳ bà xá na đối trị si
 Như Lai hiển thị các chúng sanh
 Đây đều vô tác không tạm dừng
 Thế nên không cấu cũng không tịnh
 Chúng tôi nơi ấy đều không nghi
 Thường thích cúng dường đại Đạo Sư
 Mười nghiệp bất thiện của Phật nói
 Thứ ấy gọi là nghiệp đạo ác
 Sát sanh thâu đạotà dâm
 Vọng ngữ lưỡng thiệt cùng ác khẩu
 Ỷ ngữ tham dụcsân khuể
 Tối hậu thứ mười tên tà kiến
 Phật nói thứ ấy là bất thiện
 Là nghiệp đạo ác của chúng sanh
 Đã không chúng sanh cũng không hại
 Cả chín nghiệp kia cũng đều không
 
 Không có đối trị các thiện ác
 Vì tự tánh nó vốn không tịch
 Nhưng chẳng phải không lời Phật dạy
 Bởi vì chẳng hoại pháp thể tánh
 Tôi nơi Phật huệ cũng chẳng nghi
 Thế nên nay cúng trí vô thượng
 Nếu người tu pháp của Như Lai
 Người ấy tức là chơn Phật tử
 Người ấy xứ xứ đều thọ vui
 Hằng thường xa lìa các khổ não
 Thiện Thệ trí huệ thắng như vậy
 An ổn dẫn đạo các quần sanh
 Chúng tôi nơi đây lìa lòng nghi
 Nay đều cúng dường đấng đáng cúng ».

 Chúng trời Biến Tịnh nói kệ tán thán đức Phật rồi đều yên lặng đứng một phía.

 Đức Thế Tôn thấy chúng trời ấy đứng yên lặng, và biết lòng thâm tín của họ nên hiện tướng mỉm cười.

 Huệ Mạng Mã Thắng nói kệ bạch hỏi đức Phật :

 « Nay Phật Thế Tôn trí thù thắng
 Vì lợi ích đời hiện mỉm cười
 Thập Lực Thế Hùng siêu tất cả
 Mà hay hóa phục các đại chúng
 Giỏi hiểu các pháp đại Đạo Sư
 Phật hiện tướng cười chẳng không nhơn
 Đấng Thế Gian Giải lòng không thiếu
 Ngưỡng mong giải nói nghĩa mĩm cười
 Các đại chúng đây đều một lòng
 Không có loạn tưởngchánh niệm
 Lòng vui chiêm ngưỡng núi công đức
 Chỉ muốn được nghe cung kính đứng
 Nơi Đại Luận Sư tự tại Phật
 Nếu được nghe nói đều vui mừng
 Giỏi hiểu các pháp trí quyết định
 Sẽ được làm Phật độ quần sanh
 Nếu ai nơi Phật sanh tịnh tín
 Chắc thành đại trí nhứt thế gian
 Lường biết câu cam lộ vi diệu
 Người nầy thấy được khắp mười phương
 Ai ở trong kiếp đời vị lai
 Sẽ được làm Phật thường thế gian
 Đấng đại Đạo Sư diệu ngôn từ
 Ngưỡng mong nói rõ cho chúng vui
 Nếu ở nơi đấng Đại Thánh Hùng
 
 Mà sanh kính tin lòng tôn trọng
 Cũng ở chánh pháp sanh tín huệ
 Tất cả các ma chẳng động được
 Nếu hay sanh tín được quyết định
 Tức là Phật tử từ tâm sanh
 Ngưỡng mong Thế Tôn diễn nói pháp
 Do đó đại chúng được trừ nghi
 Nếu có ai đối với chúng sanh
 Tâm từ che chở khắp thế gian
 Trí huệ kiên cố sẽ thành Phật
 Bèn được an trụ Nhứt thiết trí
 Đấng vô thượng trăm phước trang nghiêm
 Ngưỡng mong giải bày trừ lưới nghi
 Chỉ muốn thọ trì pháp Thế Tôn
 Như Lai vì họ hiện tướng cười
 Mong được nghe Phật lời thiện xảo
 Âm thanh tám đức rất vi diệu
 Trước tự được đến nơi thiện đạo
 Sau hay dẫn dắt các quần sanh
 Phật pháp vi diệu là như vậy
 Phật tử an trụ ở trong ấy
 Giống Phật Thế Tôn chẳng đoạn tuyệt
 Chắc được ở lâu tại thế gian”.
 
 Đức Thế Tôn nói kệ đáp Mã Thắng Tỳ Kheo :

 “Mã Thắng nay ông hỏi cớ cười
 Phật vì lợi ích các thế gian
 Ông được phước đức vừa lòng mình
 Phước ấy vô lượng chẳng hết được
 Người trí mới hay hỏi đúng lúc
 Do đó lợi lớn các chúng sanh
 Ông cùng tất cả hàng đại chúng
 Mừng vui một lòng nghe Phật nói
 Chúng trời Biến Tịnh hiện diện đây
 Ở trong pháp Phật đều không nghi
 Tất cả mừng vui lòng tịnh tín
 Dùng kệ khen ngợi Phật công đức
 Trời ấy đã ở đời quá khứ
 Cúng dường ngàn ức do tha Phật
 Cũng hỏi Phật ấy những nghĩa nầy
 Trong tất cả pháp đều không nghi
 Do các nhơn duyên thuở xưa ấy
 Nay nói được kệ tán thán Phật
 Cũng lại tịnh tâm sẽ tán thán
 Hiền kiếp tất cả chư Như Lai
 
 Trong kiếp Ưu Ba La họ sẽ
 Thành Phật đại lực na la diên
 Giáo hóa chúng sanh bất khả tư
 Dẫn dắt vào nơi thành Niết bàn
 Lúc chư Đại Thánh ấy thành Phật
 Được danh hiệu Phật rất vi diệu
 Nay ta vì ông nói hiệu ấy
 Đồng trong kiếp ấy đều làm Phật
 Hiệu là Pháp Tràng Phật Như Lai
 Thảy đều cứu độ bất tư nghị
 Na do tha chúng nhập Niết nàn
 Các Như Lai ấy diệt độ rồi
 Đốt thân lưu bố những Xá lợi
 Đem Xá lợi ấy đều xây tháp
 Đầy trong quốc độ như rãi hoa
 Bấy giờ tất cả Phật Xá lợi
 Mỗi mỗi thảy đều lưu bố rộng
 Sau mỗi mỗi Phật ấy nhập diệt
 Thảy đều lợi ích các thế gian
 Bất tư nghị do tha chúng sanh
 Cúng dường Xá lợi Phật ấy rồi
 Sẽ được cam lộ diệu Niết bàn
 Tam thế chư Phật đều tán thán
 
 Nếu ai xưng niệm danh Phật ấy
 Thì được thiện căn thắng vi diệu
 Sẽ được thành tựu đạo hữu học
 Gặp Phật chuyễn được quả thù thắng
 Dường như vô lượng nan tư chúng
 Đều ở chỗ ta trồng căn lành
 Mừng ưa tin thích tâm thanh tịnh
 Sẽ được gặp gỡ Phật Di Lặc
 Chúng Thanh Văn của chư Phật ấy
 Từ Phật ấy đến chỗ chư Phật
 Sẽ được gặp Phật nhập chúng hội
 Đều do cúng dường Xá lợi ấy
 Được nghe lời Phật như vậy rồi
 Tất cả đại chúng sanh hi hữu
 Công đức thắng diệu có oai thần
 Chúng trời Biến Tịnh thanh tín sĩ
 Và hàng đại chúng khắp vui vẻ
 Thảy đều lưu chú hướng Bồ đề
 Được biết Như Lai thế lực lớn
 Thảy đều dảnh lễ chưn Thế Tôn”.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12776)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12703)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11752)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11739)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12329)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12388)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19827)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11963)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11991)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16889)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12675)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15065)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16121)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12884)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12243)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11920)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11930)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13154)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16510)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13236)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12500)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11823)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19864)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11159)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11263)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10404)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11099)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10972)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10038)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11756)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
(Xem: 11636)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11964)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11115)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11349)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12067)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12562)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10767)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17985)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11728)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9950)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 11241)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 13176)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 16580)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 11853)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10904)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 11845)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 28811)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12379)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 53059)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35490)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 16088)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 12186)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12317)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 11405)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17195)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14981)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 14616)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13840)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11710)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15063)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant