Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

49. Pháp Hội Quảng Bác Tiên Nhân

01 Tháng Năm 201000:00(Xem: 8734)
49. Pháp Hội Quảng Bác Tiên Nhân

KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999

XLIX
PHÁP HỘI QUẢNG BÁC TIÊN NHƠN

THỨ BỐN MƯƠI CHÍN

Hán Dịch: Nhà Đường, Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi
Việt Dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

Như vậy tôi nghe, một lúc Phật ở tại thành Vô Cấu Chiến trên bờ sông Hằng, có vô lượng chúng Tỳ Kheo như các Tôn giả A Nan, Ma Ha Ca Diếp, Xá Lợi Phất, Bạc Câu La, Ly Bà Đa, A Nhã Kiều Trần Như v.v... Các Tôn giả nầy việc được làm đã xong, rời các trần nhiễm, phiền não đã hết, chẳng còn thối chuyển. Các Tôn giả luôn tọa thiền tụng niệm kinh hành không tạm lười nghỉ, hoặc như bầy nai đi đứng yên lặng, hoặc ở trong rừng thường nhập thiền định. Các Tôn giả nầy an trụ nơi giáo pháp sáng suốt của đức Như Lai, điều phục sáu căn được vô sở úy.

Bấy giờ rừng Ta La nhánh lá rậm rợp, hoa thơm trải đất. Những chim câu chỉ la, chim ca lăng tần già, nga vương, bầy ong bay đậu kêu hót hòa nhã có thể làm cho các chúng sanh rời lìa hôn trầm giải đãi.

Lúc đó đức Như Lai bảo các Tỳ Kheo : “ Nầy chư Tỳ kheo ! Các thầy phải siêng thật hành việc được làm, lấy giới luật oai nghi để tự ấp che”.

Liền lúc ấy phương Tây bỗng nhiên chói sáng như ánh sáng mặt trời.

Vì chưa ly dục nên Tôn giả A Nan bạch rằng : “ Bạch đức Thế Tôn ! Ánh sáng nầy là tướng gì ?”.

Đức Phật dạy : “ Nầy A Nan ! Đây là pháp tử của Hắc Hương bực tối thắng thượng ngũ thông tiên, tên là Quảng Bác. Tiên nhơn nầy tiết thực xấu gầy thân thể không nhuần sáng cùng chung với năm trăm người đồng hành như là tiên Bất Bạch, tiên Thiên Nhơn, tiên Chiêm Ba Dã Na, tiên đơn Trà Dã Na, tiên Ca Ma Dã Na, tiên Mê Khư Na Tư, tiên Nghi Vị, tiên Độ La v.v... trước sau vây quanh sẽ đến chỗ ta”.

Bấy giờ, Quảng Bác tiên nhơn từ xa thấy đức Thế Tôn thân tâm tịch tĩnh ở tại rừng rậm được chư Tỳ Kheo hầu hạ, liền tự nghĩ rằng : Lạ thay bực tôn quí Nhứt thiết trí thân tướng đầy đủ, bỏ ngôi vua Chuyển Luân cùng các quan và sáu vạn cung nữ, như bỏ món ăn độc, mà tu khổ hạnh nơi núi rừng, lìa những dục lạc, tiếng đồn khắp nơi thiệt chẳng hư dối.

Trong chúng ấy có một tiên nhơn tên Na Thích Đà từ xa nhìn đức Thế Tôn sanh lòng vui mừng liền nói kệ rằng :

Nhìn kia hoa xanh dưới rừng cây
Như khối vàng tía là người nào
Bửu châu Di Lâu chiếu sáng ngời
Cũng như trăng thu không mây khuất.

Các tiên đều vui sướng chắp tay cung kính đi lần đến chỗ đức Phật.

Đức Thế Tôn bảo chư Tỳ Kheo : “ Các thầy xem kia các tiên trong châu Diêm Phù, tóc xỏa tung lên, ở rừng hoang, thoa tro, tịch cốc, hoặc một tháng hoặc nửa tháng nhịn ăn gầy xấu, mặc da nai vỏ cây, tóc móng không cạo không cắt, ngồi xổm trên đất trống, nhan sắc như khói than ong đen, chú thuật cúng thờ lửa cho là cát tường, ở ngoài trống hay dưới cây, hoặc té từ gộp đá cao, hoặc nhảy xuống vực sâu, dùng lửa đốt thân hay phơi nắng cho phỏng đau, ỷ thị dòng họ lìa xa trí huệ vô thượng.

Các thầy Tỳ kheo nên biết các tiên nhơn nầy kiến thức chằng thanh tịnh mê say ba cõi luân hồi sanh tử chẳng ra khỏi được”.

Các Tỳ kheo nghe đức Phật Thế Tôn dạy bảo như vậy rồi liền đồng thanh bạch rằng : “Nay chúng tôi nương đức Như Lai mà siêng tu phạm hạnh, với ba cõi sẽ được ra khỏi hẳn”.

Quảng Bác tiên nhơn cùng các tiên lần đến chỗ đức Phật, thấy các A La Hán oai đức tôn nghiêm liền có lòng e sợ. Họ khom mình ngó xuống đều tự cột tóc xõa, thân đeo dây trắng. Dung nhan họ đen tối, hai mắt xanh vàng, đầu tóc khô khan thân hình xấu xí, tay cầm ba khúc cây to, hoặc đi trên hư không, hoặc đàm luận sách thế tục.

Quảng Bác tiên nhơn đến trước đức Phật thưa rằng : “ Bạch đức Thế Tôn ! Nay chúng hội nầy xin đức Phật biết cho’’.

Đức Phật phán dạy : “Nầy Quảng Bác ! Ta đã biết rõ sự thọ sanh trong các cõi hữu lậu và tự tánh”.

Tôn giả A Nan bạch rằng : “ Bạch đức Thế Tôn ! Đây là tiên nhơn nào được chư tiên bao quanh, trí sáng lời hay, đầu tóc tung lên”.

Đức Phật dạy : “Nầy A Nan ! Đây là Quảng Bác tiên nhơn, người sáng tác sách Vi Đà phụng trì tu tập theo Xa yết La Giáo làm ra các thứ văn tự thế tục’’.

Chư A La Hán cùng bảo nhau : « Tiên nhơn nầy có sở đắc gì mà khổ hạnh như vậy nhưng vẫn không giải thoát được sanh tử”.

Các A La Hán lại tự nghĩ rằng các tiên nhơn nầy nay đến chỗ đức Phật sẽ thưa hỏi điều gì, hỏi nhơn duyên hay hỏi vô ngã ?

Quảng Bác tiên nhơn chắp tay hướng về đức Phật bạch rằng : “ Bạch đức Thế Tôn ! Đức Phật xuất hiện khó, pháp hội Thánh chúng cũng khó. Nay tôi có chút ít điều nghi muốn hỏi, xin đức Phật thương dạy cho”.

Đức Phật bảo : “ Nầy Đại Tiên ! Cho ông hỏi, ta sẽ giải bày’’.

Quảng Bác tiên nhơn hỏi : “ Bạch đức Thế Tôn ! Thế nào là bố thí ? Gì là nghĩa bố thí ? Thế nào là thí chủ ? Thí chủ có nghĩa là gì ? Thế nào là người bố thí chẳng gọi là thí chủ ? Thế nào là thí chủ chẳng gọi là người bố thí ? Bố thí thế nào để được phước báu nơi người thọ lãnh ? Thế nào bố thí rồi, hoặc hiện đời hoặc đời sau phước bố thí đi theo làm chứa làm nhóm ?

Bạch đức Thế Tôn ! Sau khi đức Phật nhập diệt, cúng dường tháp miếu thì ai là người nhận thọ để được phước báu ? ».

Đức Phật bảo : « Nầy Đại Tiên ! Những điều ông hỏi rất là hi hữu, đó là ông muốn giác ngộ hàng mới phát tâm ».

Bấy giờ Tôn giả Xá Lợi Phất ở trong đại chúng, tóc bạc mặt nhăn, lấy tay mặt đỡ lông mày nhìn hồi lâu rồi nói rằng : « Xưa kia tôi từng nghe người đời khen ngợi Quảng Bác tiên nhơn, sao hôm nay chẳng biết hỏi han như trẻ nít. Sao không hỏi những nghĩa thâm diệu về nhơn duyên vô ngã, mà lại hỏi quả báo của sự bố thí ».

Tôn giả A Nan đến lạy chơn đức Phật bạch rằng : « Bạch đức Thế Tôn ! Tiên nhơn ấy ham thích nơi bố thí, tôi xin được giải nói nghĩa bố thí cho ông ấy ».

Đức Phật phán dạy : « Nầy A Nan ! Nếu hỏi nơi đức Như Lai mà hàng Thanh Văn giải đáp thì chẳng phải là lời dạy của Như Lai ».

Tôn giả Xá Lợi Phất lại bạch rằng : « Bạch đức Thế Tôn ! Nay tiên nhơn nầy có điều nghi ngờ ấy, tôi xin giải đáp ».

Đức Phật phán dạy : « Không được, trong hàng Thanh Văn ông là bực thượng thủ nhứt, nếu ở trước ta mà ông giải đáp sẽ khiến các chúng sanh phải sa đọa ác thú, vì họ sẽ hủy báng rằng đức Như Lai chẳng phải bực có trí huệ quyết định, hoặc cho rằng đức Như Lai giác ngộ trọn vẹn rồi mà còn có ngã mạn’’.

Chư Tỳ Kheo nghe đức Phật nói như vậy rồi đều sanh lòng tin thanh tịnh bạch rằng : « Bạch đức Thế Tôn ! Quảng Bác tiên nhơn có chỗ nghi hỏi, xin đức Phật giải đáp cho ».

Đức Phật hỏi Quảng Bác tiên nhơn : « Đại tiên nay lắng nghe quả báo của bố thí và nghiệp nhơn sai khác.

Nếu người thọ có thể khiến thí chủ sanh được quả báo đó là nghĩa của bố thí. Nếu có chúng sanh nào tâm thanh tịnh đem của cải mình giao cho người chấp sự đem ra bố thí, người chủ của cãi gọi là thí chủ, còn người chấp sự gọi là người bố thí.Nếu có người tâm thanh tịnh tự đem của cải ra bố thí, người nầy gọi là thí chủ mà cũng gọi là người bố thí.

Lại nầy Đại tiên ! Có ba mươi hai hạng bố thí chẳng thanh tịnh, nay ông nên lắng nghe :

Nếu có người thấy biết điên đảobố thí thì chẳng gọi là tịnh thí. Bố thíbáo ơn, bố thí chẳng có lòng thương, bố thísắc dục, đều chẳng gọi là tịnh thí. Hoặc bố thí trong lửa, bố thí trong nước cũng chẳng gọi là tịnh thí. Hoặc đe dọabố thí, bố thí cho năm nhà, đem món độc bố thí, đem dao gậy binh khí bố thí, giết hại mà bố thí, đều chẳng gọi là tịnh thí. Hoặc để nhiếp phục người mà bố thí, vì khen ngợi mà bố thí, vì xướng kỹ mà bố thí, vì xem tướngbố thí, cầu trang sức đẹp mà bố thí, vì kết bằng hữu mà bố thí, đều chẳng gọi là tịnh thí. Hoặc chim thú vào nhà ăn mà chủ nhà không vui lòng thì chẳng gọi là tịnh thí. Vì học nghềbố thí, vì bịnh mà bố thí cho thầy thuốc, trước đánh mắng sau đem của cải bố thí, đều chẳng gọi là tịnh thí. Bố thínghi ngờ được báo hay không được báo thì chẳng gọi là tịnh thí. Hoặc bố thí rồi mà trong lòng bực bội hối tiếc thì chẳng gọi là tịnh thí. Bố thí mà nói ngưởi thọ lãnh sau sẽ làm trâu ngựa súc vật cho tôi thì chẳng gọi là tịnh thí. Hoặc bố thí mà nói phước báu đây tôi tự thọ lấy thì chẳng gọi là tịnh thí. Hoặc người trẻ mạnh không lòng tin thanh tịnh, lúc sau bị bịnh khổ, hoặc sắp phải chết, thân thể đau khổ tay chưn rời rã, sứ Diêm La Vương đùa cợt trước mặt, quyến thuộc nhìn ngó khóc than, bấy giờ mới bố thí thì chẳng gọi là tịnh thí. Hoặc bố thí mà nghĩ rằng khiến các thành ấp khác biết tôi bố thí thì chẳng gọi là tịnh thí. Hoặc có lòng ganh ghét ngạo nghễbố thí thì chẳng gọi là tịnh thí. Ham mộ nhà giàu sangcầu hôn nhơn nên đem vàng bạc lụa là bố thí thì chẳng gọi là tịnh thí. Hoặc cầu con trai con gái và các duyên tạp khác mà bố thí thì chẳng gọi là tịnh thí. Hoặc suy nghĩ nay tôi bố thí đời sau sẽ được phước báu thì chẳng gọi là tịnh thí. Thấy người nghèo củng chẳng thương xót, trái lại đem tiền của bố thí người giàu sang thì chẳng gọi là tịnh thí. Hoặc tham hoa quảbố thí cho thì chẳng gọi là tịnh thí.

Nầy Đại Tiên ! Ba mươi hai loại bố thí ái nhiễm ấy, dường như có người đem hạt giống tốt gieo trồng trên ruộng hoang xấu, nương nơi đất gặp mưa ướt chắc chắn sẽ nẩy mầm lên cây, nhưng thu hoạch ít về bông trái ».

Quảng Bác tiên nhơn lại bạch rằng : « Bạch đức Thế Tôn ! Thế nào là bố thí cho người trì giới người phá giới mà chẳng hư mất ? ».

Đức Phật phán : « Nầy Đại Tiên ! Nếu có người tịnh tín nhân quả phát lòng vui mừng vì các chúng sanhbố thí không hề hối tiếc cũng chẳng phân biệttrì giới hay phá giới.

Lại nữa nầy Đại Tiên ! Có năm loại bố thí gọi là bố thí lớn. Đó là bố thí đúng lúc, bố thí cho người hành đạo, người bịnh và người khán bịnh, người giảng thuyết chánh pháp, người đến nước khác.

Còn có năm loại, đó là bố thí chánh pháp, bố thí món ăn, chỗ ở, đèn sáng, hương hoa ».

Quảng Bác tiên nhơn lại thưa : « Bạch đức Thế Tôn ! Những gì là thanh tịnh ? ».

Đức Phật phán : « Nầy Đại Tiên ! Nếu người phát lòng tin vì các chúng sanh có lòng thương xót hồi hướng vô thượng Bồ đề khắp thanh tịnh giải thoát thì được gọi là thanh tịnh.

Còn có năm loại bố thí vô thượng, đó là bố thí nơi đức Như Lai, nơi chúng Tăng, nơi người thuyết chánh pháp, nơi cha, nơi mẹ. Bố thí năm nơi ấy đều gọi là bố thí vô thượng.

Còn có các loại bố thí gọi là bố thí lớn, đó là bố thí cho quốc vương mất ngôi, người bị quan quyền bức bách không nơi nương cậy, người bị bịnh tật đau khổ, đều gọi là bố thí lớn.

Nếu gặp người bị tội sắp hành hình và người bị nạn nguy đến tánh mạng mà chịu bỏ mạng mình để cứu mạng sống cho kia, đều gọi là bố thí lớn.

Hoặc nơi người tật bịnh mà bố thí thuốc men thì cũng gọi là bố thí lớn.

Hoặc nơi chúng Tăng đủ giới mà bố thí đúng lúc cũng gọi là bố thí lớn.

Hoặc bố thí cho người cầu trí huệ cũng gọi là bố thí lớn.

Hoặc bố thí cho súc sanh, chim thú, các loài ếch nhái cũng gọi là bố thí lớn.

Hoặc bố thí cho kẻ thiếu kém khiến cho họ được no đủ cũng gọi là bố thí lớn.

Hoặc khuyên người khác bố thí thanh tịnh cùng tùy hỉ cũng gọi là bố thí lớn.

Lại nầy Đại Tiên ! Trước đây ông có hỏi sau khi đức Phật diệt độ, gieo trồng thế nào mà được phước báu ?

Nầy Đại Tiên ! Chư Phật Như Lai đều là pháp thân mà chẳng phải sắc thân, hoặc Phật ở tại thế gian hay sau khi diệt độ, nếu có người cúng dường thì phước báu không khác.

Như Chuyển Luân Vương truyền lịnh khắp cõi nước chẳng cho giết hại các chúng sanh chẳng cho vọng ngữ. Người trong nước hoặc chưa được thấy vua cũng chưa từng hầu gần, họ chỉ nghe lịnh vua truyền mà tuân hành, nhà vua đối với những người nầy ắt có lòng vui mừng nên được sanh lên cõi trời. Còn những kẻ trái lịnh vua truyền thì đọa vào ác thú.

Nầy Đại Tiên ! Có người dầu thấy thân ta mà họ chẳng giữ giới của ta dạy thì có lợi ích gì. Như Đề Bà Đạt Đa dầu gặp được Phật mà ông ấy vẫn phải đọa địa ngục.

Trong đời sau, có người siêng thật hành đúng giáo pháp của Phật, người nầy rất hi hữu như đã được thấy Phật không khác.

Nầy Đại Tiên ! Như ông đã hỏi phước đức nhơn duyên theo thí chủ làm chứa làm nhóm thế nào ?

Nầy Đại Tiên ! Như bó lau sậy vì đốt cháy mà có lửa sáng, ngọn lửa sáng ấy không thể nói là chứa nhóm trong bó lau sậy. Cũng vậy, thí chủ chứa họp phước đức như bóng theo hình, không thể thấy được.

Như trái nho, cây mía lúc chưa ép thì không thấy được nước mật của nó, nhưng nước mật của nó không phải có ở nơi khác. Cũng vậy, quả báo phước đức chẳng thấy ở trong thân trong tay trong tâm của thí chủ, nhưng nó không rời lìa thí chủ.

Như hột ni câu luật đà lúc chưa già chín thì không thấy có mộng mầm.

Như người buôn mang hàng đến bán nơi ấp thành lớn được lời lãi nhiều, phước đức của thí chủ cũng vậy.

Như bầy ong lấy mật hoa, như mây trùm trên không, nào có thấy có chứa có nhóm, mà lúc kết quả thì thành mật ngon, mưa nhuần phước đức quả báo của thí chủ cũng vậy ».

Quảng Bác bạch Phật : « Nghĩa sai biệt của sự bố thí tôi đã được nghe đức Thế Tôn giải.

Bạch đức Thế Tôn ! Ở trong thân người, thần thức mến luyến như thế nào ? ».

Đức Phật dạy : « Nầy Đại Tiên ! Như Quốc Vương ở trong thành lớn sợ có quân địch đến, nên lo đào hào đắp lũy tích tụ lương thực nuôi dạy quân tướng, dựng bày cờ xí tập luyện voi ngựa, dàn quân bày trận truyền lịnh dự bị chiến đấu, mặc giáp dày cầm dao bén nghiêm hờ. Ví phước Quốc Vương hết nên thế giặc mạnh sẽ bị bại vong. Cũng vậy, thần thức ở trong thân người thấy sáu căn bị vô thường xâm hại, nên khởi tín tâm phát chánh niệm hành chánh pháp điều luyện ý tưởng tuyên cáo rằng : nay có quân mạnh vô thường đến hại phải gấp mặc giáp bố thí, cầm gươm trí huệ, mang cung tàm quý dựng lũy cấm giới phòng ngăn. Quân mạnh vô thường lần lần bức bách sáu căn, thần thức ấy phải bỏ thân, như Quốc Vương hết phước phải bỏ thành đến ở thành khác ».

Quảng Bác bạch rằng : « Bạch đức Thế Tôn ! Làm thế nào biết là thành phước đức là thành chẳng phải phước đức mà tôi phải bỏ đi ? ».

Đức Phật phán dạy : « Nầy Đại Tiên ! Như có người đi thuyền lớn tốt để qua đại hải, dầu gặp cuồng phong sóng to, cá kình hung dữ nhưng nhờ thuyền vững nên đến được bờ kia. Đã an ổn rồi, người ấy tế tự đi nhiễu thuyền ba vòng cung kính xướng rằng : Lành thay tôi nhờ thuyền nầy mà vượt được đại hải.

Nầy Đại Tiên ! Cũng vậy, người có phước đức sau khi mạng chung tự suy nghĩ rằng : nay tôi được sanh lên cõi trời, thân người trước kia thiệt là chẳng uổng, nhờ thân người ấy mà tôi được khỏi đọa vào ác thú, lành thay thân trước rất đáng kính yêu.

Nầy Đại Tiên ! Như người đi thuyền xấu hư để qua biển lớn, ở giữa biển bị chìm bị lật, người ấy giận ghét nguyền rủa thuyền xấu. Cũng vậy, người tạo nghiệp ác không phước đức sau khi chết phải đọa ác thú, giận ghét mắng nhiếc thân trước, uổng công nuôi nấng nay phải khổ thế nầy, như đội cỏ dơ khô, như tằm làm kén tự vấn lấy thân tự chuốc lấy họa.

Nầy Đại Tiên ! Người tạo phước đức ở thân kế sau, thần thức ở thai mẹ vừa được bảy ngày liền có thể nghĩ biết tôi từ nơi kia sanh vào đây. Vì có thiện nghiệp nên lòng vui mừng hay làm cho mẹ hiện ra ba tướng lành : mặt mẹ luôn vui vẻ tươi đẹp, chưn phải giẫm đất mạnh vững hơn trước, tay thường xoa hông phải, thích mặc y phục sạch sẽ thêm vẻ xinh đẹp.

Thần thức người gây nghiệp ác cũng ở trong thai bảy ngày tự nhớ nghĩ tôi từ nơi kia đã từng tạo tội ác, nghĩ rồi sanh lòng sầu não hay làm cho mẹ có các hiện tượng xấu, như thân thể hôi dơ gầy gò vàng bủng, như thường buồn bực choáng váng ói mửa, tai họa cả nhà hoạn nạn bức khổ, như lúc sanh nở hoặc mẹ chết hoặc con yểu ».

Quảng Bác lại bạch Phật : « Bạch đức Thế Tôn ! Lúc thần thức mới nhập thai nếu có trí huệ thì nghĩ nhớ biết những gì ? ».

Đức Phật phán dạy : « Nầy Đại Tiên ! Thần thức ấy lúc mới nhập thai thấy châu Diêm Phù có nhiều cung điện ao hồ vườn tược rừng cây nơi nơi xinh đẹp, thân tộc tụ họp rất là vui vẻ. Nếu có trí huệ cõi trời thì tùy niệm nhớ biết vô lượng trăm ngàn đời trước. Chỗ đó tôi sanh ra, người ấy là mẹ cả trăm lần sanh tôi, cả trăm đời nuôi nấng tôi, nghĩ như vậy rồi sanh lòng nhàm lìa, khổ thay, chết đi sống lạithế gian nầy như vậy đã đủ rồi, các cõi cực nhọc luôn được vĩnh viễn thoát khỏi ».

Quảng Bác hỏi đức Phật : « Thần thức ấy có quan niệm nhàm lìa mong thoát ly như vậy, há lại chẳng ra khỏi vòng sanh tử ư ? ».

Đức Phật phán dạy : « Nầy Đại Tiên ! Không thể được Thần thức ấy không có tướng xuất lyđược giải thoát thì không bao giờ có. Dầu thần thức ấy ở trong sanh tửquan niệm nhàm chán mong xa lìa ; nhưng nó vẫn thọ sanh. Nếu không như vậy thí lẽ ra người tạo phước đức cùng kẻ tạo ác, tất cả đều hướng đến quả Niết bàn.

Nầy Đại Tiên ! Như lời ông nói về thần thức suy nghĩ nhớ biết đó, là thức hiện hành chớ chẳng phải trí hiện hành. Thức thì hay phân biệt, trí thì hay biết rõ. Thức cùng trí hòa hiệp nhau thì mới có khả năng như lời ông nói.

Muốn tuyên lại nghĩa nầy đức Phật nói kệ rằng : 

Hay ngừa các tội ác
Hoặc chứa nhiều phiền não
Biết là trí không trí
Là huệ hay ngu si
Thấy kiêu mạn vô minh
Thấy biết tất cả đó
Không bao giờ rời trí
Do trí nên biết rõ
Thức trí chẳng rời nhau
Phật thường nói hòa họp
Một bánh chẳng thành xe
Hai bánh cũng chẳng thành
Cũng chẳng ngoài bánh xe
Cần có người và trâu
Gồm đủ căm và trục
Cũng đủ hai càng gọng
Vòng ách và dây cương
Mới được gọi là xe
Thân thể cũng như vậy
Các giới hòa hợp sanh
Các căn đều đầy đủ
Do thức hay kéo dắt
Lóng đốt dính liền nhau
Gân mạch luôn khắp đủ
Sọ đầu trùm da tóc
Ruột phổi và tim gan
Tì vị hòa hợp nhau
Xây dựng nên thân giả
Vua thức ở trong đó
Ngự trị điều khiển thân
Rõ biết các thể tánh
Gọi là thức trí chung

Nầy Đại Tiên ! Thức ấy vi tế không thể do hình sắc thấy được, không có các căn chẳng lìa các căn. Nếu có người khiếp nhược hoặc hoảng sợ hoặc suy tưởng ngẫm nghĩ, đều là thức hiện hành chẳng phải tác dụng của trí ».

Quảng Bác bạch Phật : « Bạch đức Thế Tôn ! Thế nào quan sát chúng sanh từ loài địa ngục sanh nơi loài người, nhẫn đến loài trời đến sanh loài người ? Có những nghiệp nhơn sai khác gì mà sanh loài trời, loài muông thú, loài ngạ quỉ và sanh loài địa ngục ? ».

Đức Phật phán : « Nầy Tiên Nhơn ! Bổn tánh của chúng sanh chết đây sanh kia chỉ có Phật là thấy rõ, chẳng phải hàng ngũ thông tiên nhơn biết được, cũng chẳng phải hàng Người, hàng Trời, Phạm Vương, Ma Vương hoặc bực Thanh Văn, Duyên Giác biết được.

Nầy Đại Tiên ! Nếu người nào lúc ở nơi pháp của Phật lìa được tham sân si phân biệt chứng sơ quả, cảnh giới của người nầy còn chẳng phải hàng Đế Thích, hàng Trời Na La Diên cùng hàng ngũ thông tiên nhơn như các ông biết rõ được ».

Nghe đức Phật nói lời nầy, Quảng Bác tiên nhơn tự nghĩ rằng Thánh Trí biết rõ nghiệp báo trong vòng luân hồi thiệt ta chưa từng có.

Quảng Bác lạy chưn đúc Phật bạch rằng : « Bạch đức Thế Tôn ! Nay tôi già suy quên lãng chẳng thể đến được đạo quả, không có khả năng đảm nhiệm gánh nặng Bồ đề, kể từ nay tôi và chúng đệ tử của tôi và hàng quyến thuộc quy y Phật Pháp Tăng. Ngưỡng mong đức Thế Tôn chỉ dạy cho được lợi ích vui mừng, do mặt nhựt thánh trí thường ở thế gian trừ bỏ mê mờ phiền não. Lành thay đức Thế Tôn ! Xin đức Phật diễn nói về tất cả chúng sanh sanh về cõi trời ».

Đức Phật phán dạy : « Đại Tiên lắng nghe ! Nay ta sẽ nói về việc ấy.

Nếu có chúng sanh nào bền vững trọn nên công hạnh bố thí tràn hoa thơm xinh, người ấy ắt sanh về cõi Trời Trì Man. Lúc lâm chung, thân thể người nầy phát ra mùi thơm vi diệu và cảm hiện hoa tươi, lại tự thấy các thứ hoa nhiều màu rải trên thân mình, hoặc lại có thấy đền đài cung điện treo nhiều linh, lục lạc, châu báu, trang sức với các thứ hoa đẹp, trăm ngàn Thiên nữ ở trong ấy. Sau khi chết, người ấy thấy cha và mẹ Trời Trì Man hòa hiệp như người Diêm Phù Đề, do ái phong thổi người ấy vào thai tạng. Bấy giờ mẹ Trời Trì Man ấy mang thai bảy ngày, ở dưới nách phải sanh ra con trai. Vừa sanh xong, trước ngực con trai ấy có hoa duyệt ý cõi trời tự nhiên kết thành tràng đủ bảy màu, đó là những màu trắng đen, vàng, đỏ, xanh biếc, hồng và đồng đỏ. Tràng hoa ấy có ánh sáng chói lòa, mùi thơm của hoa do gió đưa lan khắp một do tuần, vì thế nên trời ấy gọi là Trời Trì Man. Trong cung có cây, nước mật nó thơm ngon như chất cam lộ. Trái cây trong vườn đủ tám mùi vị phẩm cao. Trời ấy toàn ăn thứ trái đó, không vật thực nào khác. Lúc cảm thấy đói, trái chín tự hiện ra trên cây. Mặt đất không có gai góc sạn sỏi, toàn là cỏ mềm hoa tươi trải khắp sạch sẽ. Hoặc có cung điện như khối hoa trắng, hoặc có cung điện vàng ròng dựng lên. Thiên nữ xinh đẹp cùng đùa vui dưới mái hiên. Trời Trì Man thọ hai trăm năm cõi trời. Lúc trời ấy sắp mạng chung hiện ra hai hiện tượng : cây trong vườn nhà lá thì héo úa cành thì rũ xuống bông hoa mất mùi thơm, tràng hoa trên thân bỗng nhiên héo vàng gió mát biến thành gió nóng độc, muốn bỏ cung điện nguy nga mà đi. Bấy giờ các Thiên nữ thấy hiện tượng xấu nầy, cùng nhau vây quanh trời ấy mà kêu khóc rằng : khổ thay cho vô thường không chút xót thương nơi người mà chúng tôi yêu quí bắt lấy chẳng cho tự do, giây lát đây sẽ bỏ lìa chúng tôi. Lúc ấy Thiên Tử Trì Man đó lần bị bịnh nhiệt tăng cả thân hiện ánh lửa, dầu vậy nhưng nội tâm không cảm thấy nóng bức mà vẫn khoái lạc, rời cõi trời sanh vào nhơn gian. Ở trong thai thần thức ấy có thể làm cho mẹ thích tràng hoa thơm và các thứ trái ngọt, thường chiêm bao thấy thành ấp chợ búa trang nghiêm đông đúc, khắp nơi giăng rũ chuỗi hoa. Khi đã sanh ra, thân hình sáng đẹp ưa thích y phục sạch sẽ và tràng hoa xinh tươi, thích đến thân thuộc bạn bè, say mê dục lạc mến yêu nữ sắc, những món y phục quí vườn hoa bông trái không gì chẳng ham, thấy người giàu sang lại càng vui mừng.

Lại nầy Đại Tiên ! Người xu hướng về Trời Tứ Thiên Vương thì như sau đây : Nếu có người thấy kẻ nghèo cùng người bịnh tật, bố thí cho ăn uống y phục, thuốc men, hoặc đào ao giếng để bố thí. Lúc lâm chung, thân người ấy không ốm gầy không thay đổi sắc, mình không hôi dơ, tiếng không khàn tắt, không đái dầm ỉa són, các căn không hư tổn có thể thấy tự mình ở trong chúng trời. Sau khi mạng chung thi thể màu hoa sen hồng, miệng thoảng mùi thơm, lại còn có gió mát thổi hoa thơm phất trên thi thể. Lúc ấy thần thức thấy Trời Tứ Thiên Vương cha mẹ vui vầy giao du say đắm tình ái, thiên phụ dùng bàn tay phải xoa lưng thiên mẫu, liền thọ thai vào nơi vế mẹ, sau bảy ngày thì sanh thân trời đầy đủ các thứ trang sức.

Nầy Đại Tiên ! Địa xứ của Trời Tứ Thiên Vương ngang rộng tám vạn bốn ngàn do tuần, hoàng kim, bạch ngân, lưu ly, pha lê xen lẫn trang sức, trong cung điện Trời Tứ Thiên Vương có hàng trăm ngàn Thiên nữ, trăm ngàn thứ bông trái lớn như hình tượng người đầy trong các khu vườn, ánh sáng ma ni trời thường chiếu sáng cõi ấy, cành nhánh rừng cây rũ y phục kiếp ba và lụa hàng vi diệu. Những cây ấy đều bóng nhuần ai xem cũng thích, nơi các đền điện treo đầy nhạc cụ, tiếng tiêu tiếng sáo tự nhiên phát ra. Các thiên đồng tử chỉ có một việc là vò vắt món ăn. Cơm ấy thơm ngon, màu như hoa sen hồng, vị hơn chất cam lộ, bát đĩa đựng toàn bằng hai chất : hoàng kim và bạch ngân, tùy ý thích ưa món ăn đẹp thơm ngon ngọt tự nhiên hiện ra trong ấy, Còn có rượu trời tên là hoa tửu thơm lạnh đặc biệt, nếu có ai ngửi cũng tự nhiên say. Mỗi Thiên Tử Trời Tứ Thiên Vương đều có tẩm điện riêng tên là Sơ Thu, có cả ngàn cây sa lan kê hiệp trùm che kín phía trên. Khắp nơi thòng rũ những dây hoa vàng bạc châu báu, còn có các loại giường ghế màn thảm sáng đẹp mịn nhuyễn, có sáu vạn Thiên nữ dung nhan xinh đẹp y phục sáng bóng tiếng nói lảnh lót âm vận hiệp với Thiên nhạc, các Thiên nữ nầy được các nhạc thần chỉ dạy nên lúc ca lúc vũ khi nói cười khi đi đứng có thể làm cho người thấy phải luyến ái. Trước cung điện có dựng cột phướn trang nghiêm vớI những vàng bạc gấm lụa, treo phan báu phất phơ theo gió.

Cõi ấy có bốn Thiên VươngTrì Quốc Thiên Vương, Tăng Trưởng Thiên Vương, Quảng Mục Thiên VươngĐa Văn Thiên Vương. Bốn Thiên Vươngcõi trời ấy thường tụ họp các Thiên Tử yến ẩm vui vầy. Các Thiên Tử cõi trời Tứ Thiên Vương thọ năm trăm tuổi, tính theo năm cõi trời, không có ai yểu giữa chừng.

Nầy Đại Tiên ! Lúc Thiên Tử cõi trời Tứ Thiên Vương mãn tuổi thọ sắp chết thì có ba hiện tượng : một là mất ánh sáng nơi thân, hai là tràng hoa đeo không còn mùi thơm, ba là chẳng thích nghe các Thiên nữ hòa tấu kỹ nhạc, cũng không thích dạo chơi trong vườn hoa, trên thân thì y phục dơ bẩn, tràng hoa héo úa, mồ hôi rịn chảy, hai mắt khô rát nhìn lại các món thường ngày thích ngắm nhìn càng thêm mê muội, như cá dưới nước bắt để trên đất nắng mùa hạ, bị nóng bức quá nên lăn lộn trên đất. Các Thiên nữ thấy Thiên Tử ấy sầu khổ như vậy cùng đến vây quanh đồng nhau than khóc : khổ thay, khổ thay ! Người mà chúng ta mến yêu sao lại đến thế nầy, trước kia vui sướng nay thành sầu khổ, ngày nay sao đành bỏ ta cùng những chỗ vui chơi.

Các Thiên nữ nói kệ than rằng :

Mọi món vật trang nghiêm
Chỗ của Ngài vui chơi
Cung thành phước đức lớn
Lâu đài khắp bốn mặt
Thìên nữ thường đông đúc
Vườn rừng luôn sum suê
Sao Ngài đành vứt bỏ
Khổ thay cho vô thường.

Các Thiên nữ nói kệ xong nhìn nhau nghẹn ngào, tay mặt cầm hoa tươi rải lên mình Thiên Tử ấy mà nói rằng : Ngài có đủ phước sẽ sanh nhơn gian, nơi ấy là phước địa phải có lòng tin gieo lấy giống lành.

Bấy giờ Thiên Tử ấy thấy các Thiên nữ đều xa bỏ mình nên lòng càng thêm bức rứt, thân tâm nóng bức như nhiễu giọt dầu lên sắt nóng đỏ vụt tự tiêu diệt còn thừa chút khói tro lại bị gió nghiệp thổi tan, như lân hư trần chia làm ngàn ức phần không còn thấy được. Thần thức của Thiên Tử ấy từ cõi trời giáng xuống nhơn gian thấy cha mẹ hòa hiệp sanh lòng vui thích liền nhập vào thai tạng. Vừa có thai mẹ liền có những hiện tượng : ăn uống thêm nhiều chẳng ăn món máu thịt, ưa mặc y phục bông hoa và thích nơi tụ hội đông người, đối với hàng thân thuộc bạn bè thì thương mến hơn trước. Dầu bụng mang thai con mà không hề khó chịu, miệng không chảy nước dãi, thân không nặng nhọc. Sau khi sanh ra, đứa trai ấy tướng người đoan nghiêm, mắt nó xanh biếc như thanh bửu cõi trời, ai thấy nó đều thích. Nghe nói những sự việc Trời Tứ Thiên Vương ở cõi trên thì nó vui mừng lắm. Nó thường ưa bố thí, ưa mặc y phục thơm tho, tánh ưa thường thường ăn uống, thích ca múa cùng lưu luyến vườn rừng nữ sắc.

Nầy Đại Tiên ! Nếu có người nào do lòng tin thanh tịnh mà xa rời sự sát hại và trộm cướp, mang món ăn uống đồ dùng tốt, mang những y phục và của tiền châu báu để cúng dường bố thí, thành kính mang hoa hương cúng dường tháp Phật, người nầy lúc lâm chung thân không bịnh khổ không dơ không hôi, chánh niệm không quên, sắc mặt như màu hoàng kim, sóng mũi chẳng xẹp gãy, tâm không nhiệt não, cổ họng không bế tắc cũng không khò khè, chẳng bị gió nghiệp bức bách, tiếng nói chẳng khàn chẳng ngọng, ngủ ăn bình thường.

Đại Tiên nên biết người lành trên đây thì các thứ độc không hại được, ăn uống tiêu hóa cùng những sự tổn thương yểu vong cùng tai nạn đều đã xa lìa.

Lúc chết thần thức người nầy vì là thần thức cõi trời nên thấy lầu đài Trời Tam Thập Tam hình tượngma kiệt bằng hoàng kim trang nghiêm các cột cổng nhà, mặt đất là chiên đàn tốt, nước thơm rưới lên, đất ấy mềm dịu sạch sẽ trắng hơn sương tuyết sạch như chuổi ngọc. Cây hương huỳnh đàn đèn đuốc bằng châu báu trời bày hàng xen lẫn. Các Thiên nữ Thiên Tử vui đùa trong các khu vườn.

Thấy cảnh trời trên đây, thần thức sanh lòng vui thích liền nhập vào tay Thiên nữ mẹ làm thành thai tạng. Lúc ấy bàn tay mẹ do đó mà sanh ra hoa cầm đưa Thiên phụ coi cùng nhau vui mừng. Thiên mẫu lại lấy hai tay xoa nâng bông hoa ấy, Thiên Tử liền sanh ra. Thiên mẫu nói với Thiên phụ nay tôi sanh ra một Thiên Tử làm cho giống lành càng thêm mạnh. Bèn tụ hội chư Thiên để làm lễ khánh hạ.

Sau khi sanh được bảy ngày, Thiên đồng tử ấy có đủ tướng người cõi trời Tam Thập Tam, nhớ biết đời trước từ chỗ đó chết sanh đến nơi đây, người đó là cha ta, người đó là mẹ ta, ta đã từng làm điều thiện đó, nghĩ nhớ như vậy rồi sanh lòng vui mừng liền ở nơi ngũ dục sanh lòng say đắm ưa thích, cung điện vườn rừng cõi trời tự nhiên hiện ra. Cánh tay của Thiên đồng tử ấy suông như vòi voi, ngực cao đầy như ngực sư tử, hai vế tròn trịa như thân cây chuối, da thịt sáng bóng sạch sẽ không có tàn nhang, không có nốt ruồi đen, không có lông mọc tạp, không có chút hôi dơ, toàn thân thoảng ra mùi thơm vi diệu. Tất cả y phục nhẹ kín chuỗi ngọc tràng hoa cõi trời đều chẳng cần tìm nơi ngoài, nó tự nhiên hiện đủ trên thân. Bấy giờ trong cung điện ấy không có Thiên Tử, chỉ có những Thiên nữ, họ thấy Thiên đồng tử liền đến vây quanh đồng nói rằng : lành thay Ngài đến đây rất tốt, cung điện nầy thuộc về Ngài, chúng Thiên nữ các em đây trước nay không nơi nương tựa xin được theo hầu Ngài. Các Thiên nữ nầy đều hàng thanh niên vú như bình hoàng kim, gương mặt như hoa sen hồng. Sáu vạn Thiên nữ như vậy đưa Thiên đồng tử vào vườn toàn cây câu tỳ la cõi trời sum sê tươi tốt, các thứ nhạc trời, tiếng tiêu tiếng sáo, tiếng trống tiếng đờn tự nhiên phát ra, âm thanh vi diệu người nghe khoan khoái. Lại có tòa sư tử nghiêm sức với các tràng chuỗi ngọc châu lót bằng gấm lụa. Thiên đồng tử thấy những cảnh nghiêm trang xinh đẹp nầy liền lên ngồi trên tòa sư tử như vua quán đảnh.

Lúc Thiên Tử ngồi xong thì các món trân ngoạn tự nhiên phát ra tiếng rằng : người lành nầy từ châu Diêm Phù Đề do làm phước trời nên sanh nơi đây, mọi người đều nên đến hầu hạ Ngài, đờn hát ca múa làm cho Ngài vui vẻ không chán.

Âm thanh ấy phát ra rồi thì trong vườn rừng cung điện tất cả sáu vạn Thiên nữ tay cấm hoa trời, mình mặc y phục trời, hơi thơm từ thân Thiên nữ phát ra như mùi rượu nho, rượu mật, rượu họa, ngửi mùi hương ấy làm cho người phải say mê. Các Thiên nữ đồng thanh nói : Ngài đã có chứa phước trời, chúng em xin được phụng sự Ngài.

Bấy giờ Thiên Tử cùng hàng Thiên nữ dạo chơi trong các khu rừng hoan hỉ, rừng tạp hoa, rừng viêm ngọc, rừng cực quang nghiêm, rừng nhựt cung viên, cũng dạo chơi nơi các khu vườn tiếng suối reo, vườn tiếng âm nhạc. Các rừng các vườn ấy mát mẻ xinh tươi, không có gió xấu, mùi hoa ngào ngạt, chiếu sáng khắp nơi bằng châu ma ni bửu xanh, có những điểu vương hót tiếng vi diệu, lông chim ấy chiếu rực như khối châu báu, mỏ chim bằng phệ lưu ly cõi trời, các chim bay liệng đầy khắp vườn rừng.

Nầy Đại Tiên ! Cõi trời Tam Thập Tam có ao nước đủ tám công đức theo tháng mà đầy vơi. Nước ao không hề bẩn, luôn trong sạch mát mẻ. Trong ao có những cây hoa thơm bá diệp. Bờ ao có cây ngay hàng, đầy những hoa đẹp. Những ao nước nầy là nơi mà các Thiên nữ thường đến tắm rửa vui đùa.

Đến giờ ăn thì những bát đĩa bằng châu báu tự nhiên xuất hiện tùy theo ý muốn, các món ăn màu sắc đẹp thơm như hoa câu ma, trắng hơn ngọc tuyết, có tên là thiên cam lộ. Món ăn ấy đủ mùi thơm ngon cũng dễ tiêu hóa, không hề có vị cay chua đắng chát .

Nầy Đại Tiên ! Có hạng trời báo chằng được thuần nên dầu là đồng trong một bát ăn mà hoặc tự cảm thấy màu xanh màu đỏ, hoặc thấy cả màu vàng màu đen hoặc nhiều màu lẫn lộn. Thân hình trời thì không khác nhau mà món ăn có sai khác. Nên biết những hạng trời nầy đời trước ở nhơn gian dầu là bố thí, nhưng sau khi bố thí rồi lại ăn năn có lòng hối tiếc nên cảm báo như vậy.

Nầy Đại Tiên ! Cõi trời Tam Thập Tam lại còn có những khu vườn tên là hiệp hôn, cây trái trong đó luôn sum sê. Nơi ấy là chỗ ở của các hàng ly dục tịch tĩnh. Những Thiên Tử cùng Thiên nữ mà vào vườn ấy đều chẳng phải vì thích ưa dục lạc.

Nầy Đại Tiên ! Đệ tử của ta bực Thanh Văn cao nhứt là Kiều Phạn Bát Đề hiện tại ở tại vườn hiệp hôn ấy, Kiều Phạn Bát Đề là con trai dòng Bà La Môn thanh tịnh, trụ trong thiền định từ bi, dùng từ tam muội mở mắt từ bi, mỗi lần nhập định là bảy ngày làm hạn mới hiện có hơi thở ra thở vào. Lúc ông ấy nhập định theo ý muốn có gió mát thổi đến. Giả sửkiếp hỏa đốt cháy đại địa thành một khối lửa lớn, nhưng với thân nhập thiền định của ông ấy chẳng thể làm tổn hại được phần nhỏ như hột cải. Thân thể nhập thiền định của Kiều Phạn Bát Đề thường vững vàng như tòa núi Di Lâu.

Nan Đà Long VươngBạt Nan Đà Long Vương có oai lực lớn phun hơi rất mãnh liệt có thể làm cho núi Di Lâu lay động khua ra tiếng, nước bốn đại hải biến làm vị mặn. Giả sử hai Long Vương nầy dùng hết thế lực mình có cũng không thể làm nhiễu loạn được Kiều Phạn Bát Đề lúc ông nầy nhập thiền định.

Nầy Đại Tiên ! Kiều Phạn Bát Đề, đệ tử của ta, ở rừng hiệp hôn, các Thiên nữ dầu say ái dục mà khi thấy Tôn giả nầy liền sanh lòng thanh tịnh, đem hoa mạn đà la và những hoa sen đến cúng dường chắp tay cung kính. Các Thiên Tử trời Tam Thập Tam cũng đến vây quanh mang thiên cam lộ đến dâng cúng. Tôn giả Kiều Phạn Bát Đề ở rừng hiệp hôn nói những khế kinh, như trường hàng, kệ, trùng tụng, vị tằng hữu, vô vấn tự thuyết, bổn sanh, bổn sự, nhơn duyên, luận nghị, phương quảng, thí dụthọ ký, Hàng Thiên TửThiên nữ ấy nghe Tôn giả thuyết pháp không ai là chẳng ân cần cung kính tôn trọng.

Còn nữa, nầy Đại Tiên ! Trời Tam Thập Tam có nhà tụ hội. Nhà ấy có bốn vạn tám ngàn cột, toàn làm bằng những hoàng kim bạch ngân, ngọc xa cừ, ngọc mã não cùng với lõi cây chiên đàn, treo linh thòng lạc vang ra tiếng vi diệu. Trải khắp thiên y, dựng những tràng phan, tiếng nhạc như tiếng tiêu, tiếng sáo, tiếng không hầu, tiếng đờn cầm đờn sắc, tiếng loa tiếng trống, tiếng chiêng tiếng phèn la, các âm thanh vi diệu tự nhiên phát ra làm vui đẹp người nghe. Các Thiên Tử, Thiên nữ yêu kính nhau vui mừng gặp gỡ thường tụ họp nơi hội đường ấy. Trong hội đường dùng châu ma ni bửu để trang sức, mặt đất lót bằng lưu ly trong sáng nhuần bóng sạch sẽ trơn láng như gương, những hương xoa hương bột cùng các thứ hoa đẹp rải khắp mọi nơi, ở trong ấy không có ai hôn mê ngủ gật, cũng không có ý tưởng biếng lười, gió nhẹ thơm mát phảng phất khắp nơi.

Nầy Đại Tiên ! Trời Tam Thập Tam ấy khắp nơi đều có lâu các bằng châu báu gỗ quý chiên đàn giăng màn lưới báu, treo nhiều chuỗi ngọc châu trải khắp hoa thơm.Có trăm ngàn Thiên nữ dầu say mê ái dục mà không hề tật đố, không ghen hờn không cãi không giành, thường hòa thuận nhau. Thiên nữ ấy diện mạo xinh đẹp như trăng tròn sáng, tràng hoachâu báu nghiêm sức trên đầu trên thân, giọng nói thanh tịnh tiếng ca vi diệu qua lại không ngớt.

Lại nầy Đại Tiên ! Hội đường của trời Tam Thập Tam ngay ngắn rộng rãi. Hiên đài rộng cao mát như bóng mây. Bốn phía hội đường còn có vườn đều rộng trăm do tuần, trong vườn nhiều hoa sen tươi màu hoàng kim, trong hoa vang ra tiếng ca vi diệu làm người nghe đếu vui đẹp. Ngoài vườn có lùm rừng toàn những cây cõi trời như những cây câu ca na đà, những cây ba lợi dã đa, những cây câu tỳ đà la.

Nầy Đại Tiên ! Hội đường thiện pháp ấy, tất cả những vật trang sức trân ngoạn đều là những khối hoàng kim bạch ngân, những khối ngọc lưu ly, ngọc pha lê, ngọc xa cừ, ngọc mã não và ngọc xích chơn châu. Đền đài cũng là khối bảy thứ báu ấy. Kho tàng thì đầy những trân kỳ bửu vật.

Các cung điện đến số trăm ngàn.Vườn tược rừng cây trang sức châu báu liên tiếp xa gần.

Cõi ấy thường nghe sự an vui không hề có sầu khổ bịnh tật cũng không có họa hoạn.

Các Thiên TửThiên nữ trời Tam Thập Tam vui chơi nơi các khu vườn rùng ấy xong thì họp nhau tại hội đường thiện pháp ấy để cùng hưởng vui sướng.

Lại nầy Đại Tiên ! Trời Tam Thập Tam còn có cung điện riêng tên là Thiện Kiến.Hội đường Thiện Kiến nầy sáng như giữa ban ngày, sạch trong dường gương sáng, vòng quanh bốn phía nhà dùng dây châu báu giăng treo trang sức.

Trong hội trường nầy có một ngàn Thiên nữ, trên mão trang sức bằng những hoa thất bửu, chuỗi châu ngọc chiếu rực rỡ, the chỉ hoàng kim bao trùm.

Đền Thiện Kiến ấy có sáu vạn cột, trính kèo chói sáng lẫn nhau, trùng trùng điệp điệp những trân kỳ xen lẫn để trang sức. Sơn phết thì màu đỏ thắm, rải đất thì dùng nước chiên đàn nước trầm hương cùng hương tô hiệp mùi thơm ngào ngạt.

Nơi ấy voi ngựa xe cộ qua lại tung bay bụi hoàng kim làm cho nơi nơi thành màu hoàng kim.

Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn tay cầm chày kim cương, có trăm ngàn Thiên nữ theo hầu, đến vào đền báu ấy cùng thưởng ngoạn vui chơi.

Nầy Đại Tiên ! Phải biết trong cõi trời Tam Thập Tam có Thiên Vương tên Nhơn Đà La, có sức dũng kiện địch nổi chín ngàn voi lớn. Thiên Vương ấy cánh tay thòng xuống đẹp như vòi voi trời, thân thể như vàng hoàng kim sạch bóng. Gân thịt kín đáo rắn dẻo, xương cốt và mạch máu không lộ bày, ngực tròn như ngực sư tử chúa, bụng chẳng vun cao, eo lưng bó nhỏ. Trên đầu trang sức với những châu báu ngọc quý xỏ bằng chỉ hoàng kim lòng thòng chiếu sáng. Y phục thì dài nhuyễn nhẹ, tiếng nói trong trẻo, từ lâu đã thông thuộc và soạn tác những sách luận, khi ăn thì thuần là món thiên cam lộ, khi đi thì ngồi voi y bạt la.

Nầy Đại Tiên ! Sắc thân đẹp mạnh của Thiên Vương Nhơn Đà La ấy chẳng phải là xương thịt thường, mà thuần là hoa báu hợp thành, giọng nói trong tốt, hơi người thoát ra mùi thơm kỳ lạ. Giả sử như voi say cuồng ngửi được hơi thơm nơi thân Thiên Vương ấy thoảng ra thì nó tự điều thiện. Thiên Vương ấy hình mạo đoan nghiêm như thân Phật, màu sắc cùng ánh sáng ấy có thể làm cho khối hoàng kim để gần phải mất cả màu sáng ».

Quảng Bác nói : « Bạch đức Thế Tôn ! Như Lai hôm nay khen ngợi Thiên Đế thật là hi hữu ».

Đức Phật nói : « Nầy Đại Tiên ! Thân của Thiên Đế ấy là thân vô thường, là thân hạ liệt nào đáng ngợi khen. Thân ấy như món kết bằng cỏ bở, như hoa nhờ kéo hớt, như hình tranh của họa sĩ, cũng như tượng gỗ của thợ điêu khắc, lại cũng như kết hoa làm tràng nào còn được lâu.

Nầy Đại Tiên ! Đệ tửthần thông của Phật như ông A Na Luật, chỉ cứ noi thân do cha mẹ sanh ra, lấy sức mạnh nơi mỗi lóng đốt so với Thiên Đế còn hơn gấp bội phần ».

Bấy giờ Tôn giả A Na Luật hiện đang ngồi trong pháp hội nghe lời đức Phật phán như vậy thì tự nghĩ rằng nay đức Thế Tôn có ý giác ngộ tôi. Nghĩ xong, Tôn giả liền nhập tam muội, thân Ngài chiếu sáng như hoàng kim cõi trời, đội mão thù thắng ánh sáng châu ngọc rực rỡ, mặt Ngài nhuần bóng hơn thoa đề hồ, cặp mắt xanh biếc như ngọc phệ lưu ly. Cánh tay trang sức với châu ma ni châu mã não và châu nhựt quang. Ánh sáng và hơi thơm nơi thân Ngài chiếu lan khắp nơi.

Quảng Bác Tiên nhơn thấy thân tướng nầy lòng rất kinh ngạc liền đứng dậy chắp tay cung kính chiêm ngưỡng cho là ít có, to tiếng xướng lên rằng : « Lạ thay, lành thay ! Tôi được thân người thiệt là chẳng uổng. Nay gặp đức Thế Tôn phát huy tụ hội xưa chưa từng thấy mà nay được nghe thấy ».

Đức Phật phán hỏi : « Nầy Đại Tiên ! Thân Thiên Đế ấy cùng thân của A Na Luật so sánh nhau hơn kém thế nào ? ».

Quảng Bác nói : « Bạch đức Thế Tôn ! Đem so với thân của Tôn giả A Na Luật đây thì thân Thiên Đế ấy không bằng một phần trăm cũng không bằng một phần ngàn ».

Đức Phật phán dạy : « Nầy Đại Tiên ! Với thân thể nầy chẳng đủ cho là hi hữu. Vì người đã có phước đức thì tùy ý mình muốn đều được thành tựu thân thể theo sở nguyện cả ».

Lúc bấy giờ chúng hội sanh lòng hi hữu vui mừng bạch đức Phật : « Bạch đức Thế Tôn ! Xin Phật vì chúng tôi mà lại giảng nói về cõi trời ».

Đức Phật phán dạy : « Nầy Đại Tiên ! Trời Tam Thập Tam ấy, Thiên Đế có bà phu nhơn tên là Xá Chi. Bà ấy ở vườn hoan hỉ có trăm ngàn Thiên nữ hầu hạ. Bà phu nhơn ấy dung nhan đẹp lạ như bông hoa nở, má như cánh sen hồng, mặt như màu hoàng kim. Bà ấy mặc y phục mịn nhuyễn tươi sáng, hoa báu vi diệu trời trang sức trên đầu, thòng những chuỗi châu báu những bội ngọc quý khi lúc lay động khua vang tiếng vi diệu. Trán bà ấy rộng bằng ngay thẳng rũ the lượt hoàng kim, cặp mắt dài nhọn như hoa sắp nở, thân hình bà ấy chẳng mập chẳng ốm chẳng cao chẳng thấp, thể chất thơm sạch không có dơ xấu. Thường có gió đưa hoa đẹp đến kết thành lọng che. Đối với Thiên Đế, bà ấy một lòng chơn thành vững chắc không hề hờn giận tranh cãi. Bà ấy cũng không có sự lo về thai nghén.

Đại Tiên nên biết bà phu nhơn Xá Chi ấy say mê ân ái nặng hơn các Thiên nử khác, bà ấy chí ý kiêu căng còn hơn núi Di Lâu, núi Mạn Đà rậm rạp khó ngước nhìn. Dầu vậy, mà bà phu nhơn ấy hay phát huy chủng tánh Phật.

Nầy Đại Tiên ! Trời Tam Thập Tam không có những khổ nạn xen tạp, chỉ thuần vui sướng chơi đùa trong các cung điện vườn rừng .

Nầy Đại Tiên ! Thọ mạng của trời Tam Thập Tam là một ngàn tuổi tính theo năm của trời ấy. Lúc người trời ấy sắp lâm chung có năm hiện tượng xấu.

Nơi ao hồ trong mát làm người tắm vui thích, gió nhẹ thổi các hoa đẹp thơm tươi sáng lung lay tỏa hương thơm, mà nay đối với vị trời ấy lúc sắp sửa tắm rửa liền biến thành mỡ nhớt. Vị trời ấy thấy vậy kinh sợ nhảy lên khỏi nước dơ chạy vào rừng, các Thiên nữ theo hầu thấy Thiên Tử ấy hoảng sợ như vậy cũng cùng nhau chạy đuổi theo. Vị trời ấy dừng ở dưới cội cây buồn rầu nghẹn ngào. Chúng Thiên nữ đồng tiếng nói sao Ngài lại vội rời bỏ chúng em mà đứng một mình ở đây ?

Vị Thiên Tử ấy tiếng nói càng lúc càng thảm thiết bảo các Thiên nữ rằng : « Từ nào đến giờ chưa tửng có chất nhờn dơ hiện ra trên thân ta. Vừa nói lời trên xong thì hai nách vị trời ấy bỗng nhiên chảy mồ hôi. Chúng Thiên nữ thấy hiện tượng xấu dơ ấy liền dang ra xa. Đây là tướng suy xấu thứ nhất.

Vị Thiên Tử nầy thấy chúng Thiên nữ lánh xa mình thì rầu rĩ buồn khổ trong lòng thêm nhiệt não. Tràng hoa trên đầu bỗng nhiên úa héo, y phục trời đang mặc cũng thình lình dơ bẩn, không còn thích những trân ngoạn giường ghế báu quý trước. Các Thiên nữ thấy tướng xấu ấy biết là hiện tượng sắp chết vì gớm hơi hôi dơ, nên đều dang ra xa, chỉ có vói nhìn Thiên Tử ấy phát tiếng kêu khóc luyến tiếc nghẹn ngào than rằng : « Thân trời mịn nhuyễn thơm lành trước kia cùng chúng tôi vui chơi yến ẩm dạo đi trong vườn rừng, cũng cùng chúng tôi tắm lội trong ao hồ mát trong, cũng cùng chúng tôi hội họp nơi nhà thiện pháp như nga vương, cũng cùng chúng tôi vui đùa trong vườn hoan hỉ như chim ca lan, cùng chúng tôi dạo đi trên sông mạn đà như hương tượng, cùng chúng ở vườn ba gia và vườn câu la như phong vương, cùng chúng tôi ở rừng tạp thọ như mão trời quý đẹp, nay sao lại hiện năm tướng suy sẽ rời bỏ chúng tôi mà đi. Đây là tướng suy xấu thứ hai hiện ra.

Bấy giờ vị Thiên Tử ấy nghe tiếng than khóc của chúng Thiên nữ nên càng thêm tức giận, lòng sanh sợ hãi, bèn bị bịnh nhiệt thiêu đốt cả thân mình khô héo, đôi mắt kinh hoàng như nhà đi buôn bị lạc mất đoàn buôn, như ghe thuyền hư bể giữa biển lớn, như người đánh mất châu như ý, như cội cây mục trên gành núi cao bị ngọn gió lớn thổi lay, như rồng con bị chim kim sí bắt ngậm nơi miệng. Vị Thiên Tử ấy sợ hãi hoàng chắp tay vói nói với chúng Thiên nữ rằng : Các nàng đến đây, xin được tay các nàng xoa bóp cho tôi được sống thêm chốc lát. Dầu nghe vị Thiên Tử ấy nói như vậy nhưng chúng Thiên nữ không ai dám đến gần vì gớm mùi hôi dơ, chỉ có đứng xa nhìn mà kêu khóc. Chúng Thiên nữ ấy đều cầm các thứ hoa vói ném mà nói rằng : Phước trời của Ngài đã hết Ngài mau sanh vào Diêm Phù Đề.

Nghe lời nói của chúng Thiên nữ, vị Thiên Tử ấy biết là họ đã xa bỏ mình nên phát thanh thán oán rằng : Lạ thay tại sao từ lâu trong lâu đài các thứ ngoạn cụ cùng vườn tược nầy, chúng Thiên nữ ấy cùng tôi sum họp hưởng lạc, mà nay họ lại đứng dang ra xa bảo vói với tôi là Ngài nên mau sanh vào Diêm Phù Đề.

Than nói lời trên rồi, nhìn lại cảnh tượng đang ở và các khu vườn trang nghiêm xinh đẹp mà mình đã từng dạo chơi hằng ngày, trong lòng luyến ái buồn thương, vị Thiên Tử ấy cất tiếng nói lớn rằng : Than ôi nào là hội đường thiện pháp, than ôi nào là vườn hoan hỉ, vườn tạp thọ, vườn hoàng viêm thạch, vườn ba lộ sa, vườn ba lê gia, vườn quan thắng, than ôi nào là sông mạn đà, ao thanh lương, than ôi nào là cung ngọc đền vàng lầu châu các báu, nay tôi đều không còn thọ hưởng được, từ đây phải đọa lạc. Than nói chưa xong, lại thấy chúng Thiên nữ kinh hoàng đi qua đi lại, tay thì lau nước mắt sụt sùi than thở lộ vẻ lo sợ, bèn than rằng : Than ôi nào người thân nào người yêu, tại sao họ thấy tôi sắp chết mà họ không chuyện trò với tôi, tôi đang sắp sửa vĩnh biệt mà họ không chịu tiếp cận tôi để giã biệt, tôi cùng chúng nó sẽ không còn thấy lại nhau. Nay tôi phước trời đã hết nên tự thấy chỗ ở nầy tối om trống vắng. Than ôi nhạc trời có lẽ không hòa tấu chăng, tại sao tôi không còn nghe. Trong cõi trời nầy sự vui sướng cao độ nhứt, tất cả hàng Thiên Tử cùng chúng Càn Thát Bà chư Thần phục vụ tôi, cùng thần tướng sắc đẹp mạnh mẽ cầm chày kim cương, thần tướng ngàn mắt, than ôi nay tôi không còn được thấy được hưởng. Than ôi cho các thứ hoa trời, nào là hoa ba lợi gia, hoa câu tỳ la ở trên đầu tôi sao nó lại héo úa.

Chúng Thiên Tử, Thiên nữ thấy vị Thiên Tử ấy buồn rầu như vậy thảy đều lo sầu.

Bấy giờ, Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn và Xá Chi phu nhơn cùng trăm ngàn chúng Thiên Tử, Thiên nữ, Thần Càn Thát Bà tấu âm nhạc trời vầy đoàn du hành, thấy vị Thiên Tử ấy hiện năm tướng suy xấu sắp chết đều sanh lòng thương xót mà đồng than rằng : Than ôi ! Lạ thay cho vô thường kia không chút tình thương rất hung bạo độc hại.

Thiên Đế Thích Đề Hoàn Nhơn dùng phạm âm thanh bảo vị Thiên Tử ấy rằng : Thôi đi Thiên Tử, người chớ quá sầu não, chúng ta rồi đây cũng sẽ như thế nầy thôi. Ngươi chớ sanh lòng luyến ái mà phải đọa vào ác thú.

Chúng Thiên Tử cũng đồng bảo rằng : Ngài nên siêng năng làm đủ các điều thiện sanh vào nhơn gian, nơi mà tất cả chúng sanh tu tạo nghiệp phước đức.

Vị Thiên Tử ấy nghe lời khuyên bảo của Thiên Đếchúng Thiên Tử bèn tự nghĩ rằng nay tôi quyết chắc sẽ đọa lạc. Nghĩ rồi chắp tay hướng về chúng Thiên Tử mà nói rằng : Các Ngài an ủi tôi cho tôi vui mừng, nhưng thời gian tôi đọa lạc đã đến.

Nói xong, vị Thiên Tử ấy than thở ngắm nhìn, bấy giờ lại hiện ra thêm hai hiện tượng suy xấu : Một là đôi mắt ngầu đỏ như xích liên hoa, hai là các món trang sức trên thân bỗng ẩn mất.

Chúng Thiên Tử, Thiên nữ thấy hiện tượng nầy đồng đem hoa trời rải lên mình vị Thiên Tử ấy và cũng tấu thiên nhạc lên.

Vị Thiên Tử ấy thấy chúng Thiên Tử, Thiên nữ rải hoa tấu nhạc để tiển đưa mình liền sanh lòng thích muốn sanh vào Diêm Phù Đề, tự buồn than rơi lệ từ giã cõi trời Tam Thập Tam sanh vào Diêm Phù Đề, khi đã nhập thai làm cho mẹ phát hiện các tướng tốt, thường ca múa cười vui, thích dục lạc, luôn vui vẻ, ưa những nơi vườn rừng cây hoa quả, ưa mặc các thứ y phục nhiều màu tươi đẹp, thích thường ăn uống, dầu mang thai mà mẹ vẫn không hề cảm thấy khó chịu, chẳng ưa tà dục, thích tràng hoa đẹp xinh và các thứ hương thơm lành, lúc ngủ thì chiêm bao thấy cảnh tốt điều lành không bao giờ thấy sự điên đảo.

Nầy Đại Tiên ! Thiên Tử trời Tam Thập Tam sanh xuống Diêm Phù Đề, lúc còn ở thai tạng có thể làm cho mẹ phát sanh những hiện tượng như vậy.

Đại Tiên nên biết trong thời gian mang thai ấy, mẹ được khỏi tất cả bịnh hoạn về nội tạng, sau khi sanh luôn khỏe mạnh.

Khi đã sanh ra, trẻ đồng tử ấy thân thể ngay ngắn, chỉ tay đậm rõ những nét tốt đáng mừng, tay chưn nhu nhuyến, răng đều kín, eo lưng đẹp, toàn thân dịu dàng, lòng ưa những sự công đức lành thù thắng, tánh thích dục lạc tốt, y phục thì thích món nhẹ sạch, thích dạo chơi trong vườn rừng. Thân thể thoát ra hơi thơm dịu, dòng họ sang quý giàu có lớn đầy đủ vàng ngọc châu báu, thường làm những việc giữ giới hạnh và bố thí cúng dường.

Đại Tiên nên biết nếu vị Thiên Tử ấy mà lòng dục quá nặng nhiều thì sẽ sanh vào nhà nghèo, nhưng thân hình vẫn là đoan chánh đầy đủ các căn, không lùn không cao, không đen không quá trắng, tay chưn đều ngay ngắn, ai thấy cũng sanh lòng yêu kính. Tánh người nầy thích luận nghị, tâm luôn hòa dịu ít giận hờn, ưa gần vợ người, đối với vợ nhà chẳng có lòng yêu thích, với bạn bè anh chị em cùng quyến thuộc cũng chẳng thương luyến.

Đại Tiên nên biết, các vị Thiên Tử trời Tam Thập Tam sanh xuống nhơn gian, có những sự tướng như vậy ».

Nghe đức Phật phán dạy xong, Quảng Bác tiên nhơn cùng tất cả chúng tiên đều vui mừng đồng tiếng khen rằng lành thay.

PHÁP HỘI QUẢNG BÁC TIÊN NHƠN 
THỨ BỐN MƯƠI CHÍN
HẾT

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12653)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12609)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11666)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11654)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12233)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12253)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19689)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11878)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11906)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16731)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12574)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 14947)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 15981)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12765)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12141)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11803)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11843)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13047)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16420)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13145)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12389)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11732)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19737)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11071)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11180)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10316)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11015)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10884)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 9951)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11657)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
(Xem: 11536)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11863)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11035)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11251)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11979)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12457)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10669)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17865)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11624)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9853)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 11133)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 13046)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 16417)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 11726)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10808)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 11748)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 28681)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12256)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 52689)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35367)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 15956)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 12100)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12186)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 11296)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17017)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14828)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 14524)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13746)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11629)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 14934)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant