Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phật Nói Kinh Công Đức Xuất Gia

22 Tháng Mười Hai 201414:51(Xem: 16073)
Phật Nói Kinh Công Đức Xuất Gia

PHẬT NÓI KINH

CÔNG ĐỨC XUẤT GIA

(Minh Lễ dịch)

 

Tôi nghe như vầy: Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân). Chàng quý tộc này rất đam mê sắc dục, như các chư thiên trên trời say đắm các thiên nữ, chàng ta cũng bày các cuộc vui chơi cùng các nàng thể nữ trên lầu cao giống y như vậy. Đức Phật ngài là bậc nhứt thiết trí, thấy biết tất cả, vừa nghe tiếng nhạc văng vẳng từ lầu cao vang ra, Ngài liền bảo với Tôn Giả A-Nan rằng:

 

- Này A-Nan! Ta biết người đang say mê sắc dục này không còn bao lâu, chỉ trong vòng bảy ngày nữa sẽ bỏ bà con quyến thuộc, các cuộc vui chơi mà chết. Này A-Nan! Người này nếu như không rời bỏ các dục lạc, mong cầu nguồn vui trong đời sống xuất gia, sau khi mất rồi hắn nhứt định phải chịu đọa lạc vào địa ngục u tối.

 

Khi ấy Tôn Giả A-Nan vâng lời Phật dạy muốn đem lại nguồn lợi lạc thiết thực cho chàng quý tộc kia nên đã đến nhà hắn. Chàng Tỳ La Tứ Na vừa nghe Tôn Giả A-Nan đến nhà mình liền đích thân ra tận cửa nghinh đón, do lòng kính mến A-Nan nên đã thỉnh ngài vào trong an tọa. Tôn Giả A-Nan ngồi chưa được bao lâu liền đó chàng quý tộc chắp tay tỏ vẻ cung kính thưa hỏi cùng ngài:

 

- Thật là hết sức may mắn không gì bằng! Người bạn tốt và thân thiết của tôi đến vừa đúng lúc tôi đang ao ước mong muốn gặp người, sự sung sướng vô ngần trong lòng tôi chắc ngài cũng có thể nhận biết, cúi xin ngài hãy đem dạy lại những lời giáo huấn của Đức Phật cho tôi cùng hưởng sự vui thâm diệu về chánh pháp.

 

Và chàng quý tộc ân cần cầu thỉnh đến ba lần, Tôn Giả A-Nan vì muốn đem lại sự lợi ích vĩ đại cho chàng nên yên lặng không nói lên lời. Chàng Tỳ La Tứ Na lại thưa:

 

- Hỡi đấng đại tiên Tịch mặc! Ngài hằng đem lại hạnh phúc cho muôn loài, không biết hôm nay tôi sơ sót gì để ngài hiềm hận mà đã không ban cho một lời giáo huấn.

 

Phút chốc A-Nan, người sẽ là vị thừa kế thứ ba gìn giữ kho tàng chánh pháp của Phật, tỏ vẻ buồn bã cất lời:

 

- Này chàng trai lành kia ơi! Người hãy lắng nghe: Đức Phật Ngài là bậc Nhất thiết trí, thấy biết tất cả. Lời Ngài nói chân chánh đúng như sự thật. Ngài có tiên đoán người sẽ chết trong vòng bảy ngày nữa, người như không tỉnh ngộ đối với năm thứ dục lạc sớm xả ly nó để tìm nguồn an vui nơi cuộc sống xuất gia, sau khi chết lại còn phải đọa vào địa ngục. Cái thế của vô thường như lửa đốt vật, sẽ không còn gì lưu lại, người nên suy xét cho kỹ.

 

Chàng Tứ Na vừa nghe lời này hết sức sợ hãi, liền tỉnh ngộ ngay và rất lấy làm lo lắng. Chàng vâng lời dạy của A-Nan hứa rằng sẽ xuất gia trong vòng ngày thứ bảy tới sau khi để sáu ngày chót để vui chơi, ngài A-Nan nhận lời. Qua đến ngày thứ bảy, vì quá sợ sinh tử chàng Tứ Na đến thỉnh cầu Đức Phật làm lễ xuất gia, Đức Phật bằng lòng cho phép Tứ Na được xuất gia trọn trong một ngày đêm gìn giữ cấm giới trong sạch, liền đó mạng chung như cây hương đã tàn ánh lửa, tắt mất. Tôn giả A-Nan mới cùng số người xung quanh chịu sự giáo hóa của Ngài đồng đến nơi Đức Phật ngự, thưa hỏi với Đức Phật rằng:

 

- Bạch Thế Tôn! Tỳ kheo Tỳ La Tứ Na giờ đây đã mất, không biết sẽ được tái sanh về chỗ nào?

 

Khi đó, Đức Phật Thế Tôn là bậc Thầy cao cả của trời người thấy biết tất cả mới cất tiếng hòa nhã vượt bực thánh thoát của loài chim thiêng Ca Lăng Tần Già dạy A-Nan rằng:

 

- Này A-Nan! Tỳ kheo Tỳ La Tứ Na sợ hãi cái khổ mạng chung phải sa vào địa ngục, đã vất bỏ dục lạc, dâng mình trong trọn đời sống xuất gia trọn một ngày đêm giữ giới trong sạch. Tỳ kheo này sau khi bỏ thân hiện tại, thác sanh lên cõi trời Tứ Thiên Vương, làm con vị Thiên Vương Tỳ Sa Môn ở phương Bắc, tha hồ cùng các thể nữ hưởng thọ năm món dục lạc được năm trăm năm, mạng chung lại sanh lên trời Tam Thập Tam Thiên, làm con vua Đế Thích, hưởng thọ sự lạc thú cực cao trên cõi trời với các thể nữ. Sống được ngàn tuổi lại mất, tái sanh lên cõi trời Diễm Thiên, làm con vua trời Diễm Thiên, mặc tình hưởng thọ năm lạc thú về sắc, thanh, hương, vị, xúc. Được hai ngàn năm lại mất, thác sanh lên thiên cung Đâu Xuất, làm con vua trời Đâu Xuất, hưởng thọ năm món lạc thú vi diệu, mắt mắt nhìn nhau tâm sự nhàm chán hằng luận bàn về vấn đề chánh pháp: giải thoát, trí huệ. Sống cõi trời này được bốn ngàn năm, mạng chung vãng sanh lên cõi trời Tha Hóa Tự Tại cũng làm con vua trời. Cõi trời này đứng vào hàng thứ sáu, các sự vui ở đây vượt bực năm cõi dưới, được sanh lên đây hưởng những lạc thú vi diệu, khi hưởng lạc, tâm hết sức mê thích, hưởng đầy đủ các lạc thú suốt một muôn sáu ngàn năm. Hưởng lạc ở sáu cõi trời thuộc dục giới như vậy tái đi tái lại bảy lần, Tỳ kheo Tỳ La Tứ Na nhờ vào công đức xuất gia trong vòng một ngày đêm, trọn hai mươi kiếp không đọa lạc vào ba đường ác địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, thường sanh vào cõi trời, người hưởng phước tự nhiên. Trong một kiếp cuối cùng thọ sanh cõi nhân gian làm con một nhà giầu có, tài sản dồi dào, đến tuổi trai tráng thiện căn thuần thục, người sợ hãi họa sanh, già, bệnh, chết, rời bỏ cuộc đời tăm tối, theo nẻo xuất gia, cạo bỏ râu tóc, thân mặc áo pháp siêng năng tu tập, gìn giữ bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi, hết sức đoan chánh, duy trì chánh niệm, quán sát năm ấm là khổ, không, vô ngã, nhận chân được lý duyên khởi thành bực Bích Chi Phật hiệu là Tỳ Lưu Đế, liền khi đó phóng ánh sáng vĩ đại sáng soi các loài trời người, khích phát thiện căn của họ làm cho gieo nhơn nơi ba thừa giải thóat.

 

Ngay khi ấy Tôn giả A-Nan chắp tay thưa với Phật:

 

- Bạch Thế Tôn! Như nếu có kẻ cho phép người xuất gia, kẻ giúp các vật phẩm cần thiết cho người xuất gia, chẳng hay kẻ đó được bao nhiêu phước? Nếu như kẻ phá hủy nhơn duyên không cho người xuất gia, kẻ này chịu bao nhiêu tội báo? Cúi xin Thế Tôn dạy dỗ cặn kẽ cho chúng con.

 

Đức Phật đáp lời A-Nan:

 

- Này A-Nan! Ngươi bỏ ra trăm năm để hỏi ta về vấn đề này, ta dùng trí huệ vô tận, trừ khi ăn uống, suốt trong trăm năm rộng rãi thuyết trình về công đức của kẻ này còn chưa thể hết. Kẻ này hằng sanh lên cõi trời hay trong chốn nhân gian thường làm Quốc Vương hưởng phước lạc thuộc phạm vi trời người. Nếu có kẻ theo pháp Sa môn cho người xuất gia, kẻ hay giúp đỡ phương tiện nhơn duyên cho người xuất gia, kẻ này dù ở trong vòng sanh tử lại hằng hưởng thọ an lạc, ta để trọn trăm năm nói về phước đức còn chưa hết được giới hạn, vì vậy này A-Nan, dù ông có bỏ suốt trăm năm để hỏi ta về vấn đề này, ta đáp cũng không hết nổi. Nếu như lại có kẻ phá hoại nhơn duyên xuất gia của người khác tức là họ đã cướp dựt kho tàng tài sản phước lành vô tận, hủy phá nhơn của ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Như có kẻ muốn làm trở ngại nhơn duyên xuất gia của người khác hãy nên quán sát việc như vậy. Tại sao? Là vì kẻ này do tội nghiệp trên phải sa vào địa ngục hằng bị đui mù chịu biết bao thống khổ, sanh vào loài súc sanh lại cũng mù mắt, như sanh vào ngạ quỷ cũng không thấy đường. Chịu biết bao nỗi khổ trong ba đường ác một thời gian lâu dài mới được thoát ly tái sanh làm người, vừa ở trong thai mẹ đã phải cam chịu kiếp mù lòa. Này A-Nan! Ông để trọn trăm năm hỏi ta tội báo này, ta bỏ ra trăm năm dùng trí huệ vô tận để đáp lời này cũng không hết được giới hạn tội báo của kẻ ấy, hắn thường thọ sanh trong bốn đường người, quỷ, súc, địa ngục mang thân đui tối, ta cũng không bao giờ xác định cho kẻ này sẽ được giải thoát. Tại sao? Là vì do hủy phá nhơn duyên xuất gia của người.

 

Người xuất gia thành tựu vô biên công đức vì thế hủy phá nhơn lành này nên mắc tội vô lượng.

 

Người xuất gia như gương trí huệ trong sáng soi rõ các pháp lành đưa đến sự giải thoát, nếu như có kẻ nào thấy người xuất gia gìn giữ giới hạnh thanh tịnh hướng về đường giải thoát lại gây những trở ngại làm cho họ khó lòng xuất gia, do nhơn này đời đời kiếp kiếp sanh ra thường bị đui mù không thấy được Niết Bàn.

 

Người xuất gia sẽ thành tựu đôi mắt trí huệ quán sát thập nhị nhơn duyên sẽ được giải thoát, kẻ phá duyên xuất gia che lấp mắt huệ vì vậy phải chịu báo từ đời này đến đời khác luôn luôn mang thân mù lòa không thấy được ba cõi.

 

Người xuất gia sẽ thấy được năm ấm, hai mươi loại ngã kiến hướng về chánh đạo, kẻ ngăn trở duyên xuất gia làm hư hoại chánh kiến vì vậy sanh ra cam chịu mù đui không thấy đường xá. Người xuất gia sẽ nhận thức được tất cả pháp lành, sẽ thấy được pháp thân thanh tịnh của chư Phật, kẻ phá hoại nhơn duyên xuất gia phải mang báo đui mù không thể thấy Phật.

 

Người xuất gia sẽ đầy đủ hình tướng của một bậc sa môn giữ giới thanh tịnh gieo giống Phật đạoruộng phước vô thượng, kẻ phá hoại nhơn duyên xuất gia cắt đứt hết tất cả những hy vọng, do tội này đời đời sanh ra phải mang thân đui tối.

 

Người xuất gia sẽ quán sát tất cả ngoại thân nội tâm đều là khổ, vô thường, vô ngã, kẻ phá hoại sự xuất gia của người gây những trở ngại, phá huệ nhãn như vậy thì sẽ không làm sao thấy được bốn đạo, bốn niệm xứ, bốn chánh cần, bốn môn như ý túc, năm căn, năm năng lực, bảy phần giác ngộ, tám chánh đạo hướng về Niết Bàn, do tội lỗi này phải chịu kiếp đui mù không nhận thấy được các pháp lành: Không, vô tướng, vô tác hướng về Niết Bàn. Thế cho nên người trí huệ nhận thức rằng kẻ xuất gia sẽ thành tựu pháp lành như vậy, ai phá hoại nhơn duyên xuất gia phải chịu tội báo như trên. Ai phá hoại chánh kiến làm bậc sa môn sanh ra phải chịu kiếp đui mù không thấy được thành Niết Bàn. Nếu như có người ở các phương khác giữ giới thanh tịnh được trăm kiếp, lại có người ở cõi Diêm Phù Đề này xuất gia giữ giới thanh tịnh được trọn ngày đêm hay chỉ trong phút chốc được công đức so ra kẻ xuất gia giữ giới trong trăm kiếp ở phương khác sánh ra không bằng một phần mười sáu. Nếu như có kẻ dâm đãng cuồng loạn, chỗ không đáng dâm lại cưỡng ý ganh ghét cố thi hành cho kỳ được, tội báo này khó tính hết giới hạn. Nếu có người suy tư chơn chánh phát tâm xuất gia muốn xả bỏ các điều ác, kẻ nào phá hoại nhơn duyên xuất gia không làm cho họ được mãn nguyện do tội lỗi này tăng trưởng nghiệp báo hơn trước gấp bội trăm kiếp.

 

Khi đó ngài A-Nan lại thưa với Phật:

 

- Bạch Thế Tôn! Tỳ kheo Tỳ La Tứ Na vun trồng căn lành được sanh vào nhà quý tộc hưởng lạc là do đời quá khứ cũng có gây nghiệp lành, hay chỉ là phước đức của trọn ngày đêm xuất gia giữ giới thanh tịnh?

 

Phật bảo A-Nan:

 

- Ông chớ nên quán sát về nhơn duyên quá khứ, tỳ kheo Tứ Na đây chỉ nhờ căn lành xuất gia trong một ngày đêm giữ giới thanh tịnh được phước báo bảy lần thọ phước trên sáu cõi trời dục giới, hai mươi kiếp hưởng lạc, trong kiếp tối hậu làm thân người thuộc con nhà giầu có, đến tuổi trưởng thành lúc thiện căn thuần thục, sợ cái khổ sanh, già, bệnh, chết, phát tâm dâng trọn đời mình theo nếp sống xuất gia gìn giữ giới hạnh trong sạch kết thành thắng quả Bích Chi Phật.

 

Này A-Nan! Ta lại thí dụ cho ông rõ, hãy lắng nghe! Thí dụ như trong bốn thiên hạ: phương Đông Phất Bà Đề, Nam Diêm Phù Đề, Tây Cù Da Ni, Bắc Uất Đờn Việt dẫy đầy những hàng A-La-Hán nhiều như rừng bụi lau mè, có người để ra trọn trăm năm tận tâm cúng dường các vị A-La-Hán này các vật dụng y phục, món uống ăn, thuốc thang, phòng xá, giường ngủ; khi các A-La-Hán nhập Niết Bàn lại còn xây tháp miễu trong trí bằng những châu báu, treo hoa thơm, chuỗi ngọc, lọng, phan cùng các linh báu, khi rửa tháp thì dùng nước thơm, hằng ca tụng ngợi khen để cúng dường các bậc La Hán. Công đức người trên này so với kẻ chỉ xuất gia trọn một ngày đêm giữ giới thanh tịnh được công đức trong mười sáu phần không bằng một. Vì lý do này, các thiện nam tử nên xuất gia tu tập hạnh giữ giới thanh tịnh. Kẻ mong được công đức cầu pháp lành, vâng theo lời dạy của ta đừng bao giờ gây trở ngại nhơn duyên xuất gia của người khác, trái lại phải dùng phương tiện khuyến khích cho họ được thành tựu chí nguyện.

 

Khi bấy giờ hàng đại chúng nghe được lời giáo huấn của Đức Thế Tôn lòng dạ ai ai cũng nhàm chán trần thế phát tâm xuất gia gìn giữ giới hạnh, có vị đắc được quả Tu Đà Hòan, cho đến có vị đắc thành A La Hán, có vị lại vun trồng nhơn lành cho thắng quả Bích Chi Phật, có vị phát tâm vô thượng Bồ Đề, tất cả ai ai cũng đều vui mừng lãnh thọ lời Đức Phật vừa dạy.

(Đức Phật nói kinh Công Đức Xuất Gia)

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 43855)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 42992)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 48975)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39784)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53752)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36788)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40769)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49689)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47270)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27663)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 25795)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 29840)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27109)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 24685)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 21255)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23182)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 23843)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22756)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 29529)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20591)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 34128)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 24601)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 29948)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20172)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20365)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15100)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 23826)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
(Xem: 34025)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 23954)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29129)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60077)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27556)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68653)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24473)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 26305)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 20749)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20005)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27505)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46315)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 25516)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29191)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
(Xem: 188635)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
(Xem: 27358)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 31081)
Kinh Pháp Cú (Kinh Lời Vàng), The Path of Truth - Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu - Họa sĩ: Mr. P. Wickramanayaka (vẽ theo bản tiếng Anh mà HT Thích Minh Châu dịch) - Vi tính: Tâm Tịnh
(Xem: 33093)
Tích truyện Pháp Cú - Thiền viện Viên Chiếu - Nguyên tác: "Buddhist Legends", Eugène Watson Burlingame
(Xem: 23952)
Sau 45 năm thuyết pháp, những lời giảng daỵ của Đức Phật không những không bị quên lãng, thất lạc mà còn được lưu giữ, truyền bá mãi đến ngày nay...
(Xem: 25540)
Ta Bà là chốn tạm ở thôi Cửa không mau phải hồi đầu lại Hai sáu nguyện vương tiêu tai chướng Ba ngàn hoá Phật chứng lòng thành
(Xem: 26622)
Cuộc đối thoại đầy đạo vị hứng thú dĩ nhiên được truyền tụng khắp nơi trong giới Phật giáo cũng như ngoài nhân gian. Về sau, vào thế kỷ đầu sau Tây lịch, sợ để khẩu truyền lâu ngày
(Xem: 36561)
Ở phương Ðông cách đây hơn mười căn dà sa cõi Phậtmột thế giới tên là Tịnh Lưu Ly. Ðức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
(Xem: 27273)
Lúc Đức Phật Thích-ca chứng đắc, Chuyển bánh xe chánh pháp độ sanh, Kiều-trần-như được duyên lành, Năm anh em họ viên thành lý chân,
(Xem: 30317)
Phật Thùy Ban Niết Bàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh (Kinh Di Giáo) - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; HT. Thích Trí Quang dịch Việt
(Xem: 37229)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 23858)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Kỳ Thọ Cấp Cô Độc gần thành Xá Vệ, với đại chúng khất sĩ gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị. Hôm ấy vào giờ khất thực, Bụt mặc áo và ôm bát đi vào thành Xá Vệ.
(Xem: 36888)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
(Xem: 27553)
Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm Kinh - Năm trăm Danh Hiệu Phật và Bồ Tát Quán Thế Âm
(Xem: 28290)
Công Phu Khuya
(Xem: 24123)
Nói một cách vắn tắt, sự xuất hiện của Duy-ma-cật là xu hướng khẳng định vai trò tích cực của chúng đệ tử tại gia trong giáo pháp của Phật, về các mặt hành đạo cũng như hóa đạo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant