Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Kỳ-Lợi-Ma-Nan (Girimànandasutta)

10 Tháng Mười 201512:38(Xem: 11824)
Kinh Kỳ-Lợi-Ma-Nan (Girimànandasutta)

KINH KỲ-LỢI-MA-NAN  (Girimànandasutta)

Toại Khanh

 

Kinh Ky LoiThuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền, vừa như một thoại đầu cho hành giả mà cũng vừa là bài kinh hộ niệm cho người bệnh. Duyên khởi của kinh này là một ngày kia tôn giả Girimànanda lâm trọng bệnh, chính đức Phật đã gọi ngài Ànanda thọ trì nguyên văn bài kinh này rồi đến đọc lại cho tôn giả Girimànanda nghe. Kinh ghi rằng tôn giả Girimànanda sau khi lắng nghe kinh này đã được bình phục sức khỏe. Dĩ nhiên điều đó không phải là sự linh nghiệm huyền hoặc của bài kinh, mà là cách thức lắng nghe của ngài Girimànanda. Người thời sau không ít kẻ hiểu lầm tác dụng của kinh văn, không chú ý đến nghĩa lý để hành trì mà chỉ dốc sức khẩu tụng như thần chú để cầu mong hiệu quả. Chuyện đó chẵng khác gì nhìn ảnh chụp viên thuốc rồi mong hết bệnh.

Nhắc đến ngài Girimànanda thì ai người học Phật cũng phải nhớ đến một giai thoại thú vị. Câu chuyện về ngài cũng giống như của ngài Subhùti (cháu trai ông Cấp Cô Độc). Chuyện xảy ra ở hai thời điểm khác nhau nhưng tình tiết giống hệt như một. Hai vị được vua thỉnh vào ngự uyển an cư mùa mưa nhưng vua lại quên chuẩn bị am thất. Suốt mấy tháng trời hai vị im lặng sống dưới gốc câyđức độ của hai tôn giả đã khiến chư thiên trong khu vực đó phải chú ý. Họ dùng thần lực ngăn mưa không rơi xuống ngự uyển trong suốt mùa mưa ấy như có một chiếc lộng che bên trên vậy. Chuyện lạ đến tai vua, vua nhớ ra mọi sự và khẩn cấp cho thợ làm ngay trong ngày một am thất dâng cho 2 tôn giả. Hai vị vừa ngồi vào mái che của am thất thì trời lập tức đổ mưa. Hai vị tôn giả đã có những lời thơ rất thú vị để ghi nhận lại sự kiện đặc biệt này. Độc giả muốn đọc xin vào Trưởng Lão Tăng Kệ có sẳn trên Internet.

Xưa nay Phật tử Nam Tông Việt Nam đã xem qua nhiều bản dịch khác nhau của bài kinh này, và những điểm bất nhất trong các bản dịch đã khiến nhiều người nghi hoặc. Theo lời dạy của hoà thượng bổn sư, chúng tôi đã y cứ bản Pàli của Tipitaka.org (cả chánh tạng và sớ giải) cùng bản Hán văn của bộ Nam Truyền Đại Tạng (cuốn 24) để giới thiệu một bản dịch mới có đính kèm phần phiên âm Hán Việt cho người có nhu cầu tham chiếu. Chỉ mong Phật pháp mãi hoài xương thịnh ở đời. Mong thay.

TOẠI KHANH kính đề

 

KINH GIRIMÀNANDA (Lời Việt)

Như vầy tôi nghe:
      Một thời  Thế Tôn ngự tại Kỳ Viên, khu vườn của ông Cấp Cô Độc. Lúc bấy giờ, tôn giả Girimananda bị lâm trọng bệnh, đau đớn trầm kha. Rồi tôn giả Ànanda đã đi đến Thế Tôn, đảnh lễ Ngài và ngồi xuông một bên. Sau khi yên vị, tôn giả Ànanda đã thưa chuyện với Thế Tôn: Bạch Thế Tôn, tôn giả Girimànada đang bị lâm trọng bệnh, đau đớn trầm kha. Lành thay, bạch Thế Tôn, xin Thế Tônlòng bi mẫn quang lâm đến chổ tôn giả Girimànanda để thăm bệnh.
      Này Ànanda, nếu ngươi đến chổ của tỷ kheo Girimànanda và nói lại 10 pháp niệm tưởng sau đây, thì sự kiện này có thể xảy ra là sau khi nghe xong, bệnh tình của tỷ kheo Girimànanda có thể lập tức thuyên giảm. Thế nào là 10 pháp niệm tưởng đó? Đó là Vô thường tưởng, Vô ngã tưởng, Bất tịnh tưởng, Nguy hại tưởng, Đoạn trừ tưởng, Ly tham tưởng, Tịch diệt tưởng,  Yếm thế tưởng, Hữu vi hoại tưởng và Nhập xuất tức niệm.
      Này Ànanda, thế nào là Vô thường tưởng ? Ở đây này Ànanda, vị tỷ kheo vào rừng sâu, hay tìm đến gốc cây hoặc nhà vắng sống tùy quán vô thường trong 5 thủ uẩn này bằng cách  quán xét rằng sắc là vô thường, thọ là vô thường, tưởng là vô thường, hành là vô thường, thức là vô thường. Này Ànanda, đây được gọi là Vô thường tưởng.
      Này Ànanda, thế nào là Vô Ngã tưởng ? Ở đây này Ànanda, vị tỷ kheo vào rừng sâu, hay tìm đến gốc cây hoặc nhà vắng sống tùy quán vô ngã trong 6 nội ngoại xứ  này bằng cách  quán xét rằng mắt là vô ngã, cảnh sắc là vô ngã, tai là vô ngã, cảnh thinh là vô ngã, mũi là vô ngã, các mùi là vô ngã, lưỡi là vô ngã, các vị là vô ngã, thân là vô ngã, cảnh xúc là vô ngã, ý là vô ngã, cảnh pháp là vô ngã. Này Ànanda, đây được gọi là Vô ngã tưởng.
      Này Ànanda, thế nào là Bất Tịnh Tưởng ? Ở đây này Ànanda, vị tỷ kheo sống tùy quán bất tịnh đối với tấm thân này bằng cách quán xét rằng thân này từ chân trở lên và từ tóc trở xuống có da bao bọc bên ngoài và đầy ắp các vật bất tịnh sai biệt, gồm tóc, lông, móng, răng, da, thịt,  gân, xương, tủy, thận, tim, gan, màng phổi, lá lách, phổi, ruột non, ruột già, dạ dày, phẩn, mật, đờm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ đặc, nước mắt, mỡ lõng, nước miếng, nước mũi, nước khớp xương, nước tiểu. Này Ànanda, đây được gọi là Bất tịnh tưởng.
      Này Ànanda, thế nào là Nguy Hại Tưởng? Ở đây này Ànanda, vị tỷ kheo vào rừng sâu, hay tìm đến gốc cây hoặc nhà vắng sống tùy quán các Nguy hại trong thân bằng cách quán xét rằng tấm thân này là đầy khổ nạn, nhiều nguy khốn. Trong thân này có nhiều thứ  tật bệnh sai khác như là các bệnh về mắt, các bệnh về tai, các bệnh về mũi, các bệnh về lưỡi, các bệnh về thân, các bệnh đau đầu, bệnh quai bị, các bệnh về miệng, các bệnh về răng, các bệnh ho,  bệnh xuyễn, bệnh sổ mũi, chứng ợ nóng, bệnh sốt, các bệnh dạ dày, bệnh thất phách, bệnh lỵ, bệnh phù, bệnh cảm cúm, bệnh phong cùi, bệnh ung nhọt, bệnh lao hạch, bệnh động kinh, bệnh nấm da, bệnh ngứa, các bệnh phát ban,  bệnh viêm da, các bệnh huyết vận, bệnh tiểu đường, bệnh trỉ, ung thư, bệnh rò, các bệnh do mật gây ra, do đờm dãi, do gió, do rối loạn tâm thần, do thời tiết, do oai nghi thất điều, do bị thương tổn, do  ác quả, và lạnh, nóng, đói,  khát,  đại tiện, tiểu tiện.  Này Ànanda, đây được gọi là Nguy hại tưởng.
      Này Ànanda, thế nào là Đoạn Trừ Tưởng ? Ở đây này Ànanda, vị tỷ kheo bất nhẫn, lìa bỏ, chấm dứt đoạn trừ tẩy xóa dục tầm, sân tầm, hại tầm và các ác bất thiện pháp nói chung đã khởi lên nơi tâm mình. Này Ànanda, đây được gọi làĐoạn trừ tưởng.
      Này Ànanda, thế nào là Ly Tham Tưởng ? Ở đây này Ànanda, vị tỷ kheo vào rừng sâu hay tìm đến gốc cây hoặc nhà vắng, quán xét rằng chỉ có sự vắng mặt toàn triệt các pháp hữu vi, sự lìa bỏ hoàn toàn các sanh y, sự chấm dứt khát ái, ly ái nhiễm và niết-bàn mới thật sự là thanh tịnh, thù diệu nhất trong các pháp. Này Ànanda, đây được gọi là Ly tham tưởng.
      Này Ànanda, thế nào là Tịch Diệt Tưởng ? Ở đây này Ànanda, vị tỷ kheo vào rừng sâu hay tìm đến gốc cây hoặc nhà vắng, quán xét rằng chỉ có sự vắng mặt toàn triệt các pháp hữu vi, sự lìa bỏ hoàn toàn các sanh y, sự chấm dứt khát ái, ly ái nhiễm và niết-bàn mới thật sự là thanh tịnh, thù diệu nhất trong các pháp. Này Ànanda, đây được gọi là Tịch diệt tưởng.
      Này Ànanda, thế nào là Yếm thế tưởng ? Ở đây này Ànanda, vị tỷ kheo loại trừ, lìa bỏ không chấp trước các ý niệm nắm níu, hy cầu đối với thế gian. Này Ànanda, đây được gọi là Yếm Thế Tưởng.
      Này Ànanda, thế nào là Hữu vi hoại tưởng ? Ở đây này Ànanda, vị tỷ kheo cảm thấy xấu hổ, chán ghét, nhờm tởm, đối với tất cả hữu vi. Này Ànanda, đây được gọi là Hữu ViHoại Tưởng.
      Này Ànanda, thế nào là Nhập Xuất Tức Niệm ? Ở đây này Ànanda, vị tỷ kheo vào rừng sâu hay tìm đến gốc cây hoặc nhà vắng, rồi ngồi kiết già thẳng lưng, chánh niệm hướng ra phía trước, thở vào trong tỉnh thứcthở ra trong tỉnh thức. Khi thở vô dài, vị ấy biết rõ: Ta đang thở vô dài. Khi thở ra dài, vị ấy biết rõ: Ta đang thở ra dài. Khi thở vô ngắn, vị ấy biết rõ: Ta đang thở vô ngắn. Khi thở ra ngắn, vị ấy biết rõ: Ta đang thở ra ngắn.
Vị ấy tâm niệm: Ý thức toàn thân ta sẽ thở vô.
Vị ấy tâm niệm: Ý thức toàn thân ta sẽ thở ra.
Vị ấy tâm niệm: Với thân hành lắng đọng, ta sẽ thở vô.
Vị ấy tâm niệm: Với thân hành lắng đọng, ta sẽ thở ra.
Vị ấy tâm niệm: Trong niềm hỷ duyệt, ta sẽ thở vô.
Vị ấy tâm niệm: Trong niềm hỷ duyệt ta sẽ thở ra.
Vị ấy tâm niệm: Trong niềm an lạc, ta sẽ thở vô.
Vị ấy tâm niệm: Trong niềm an lạc, ta sẽ thở ra.
Vị ấy tâm niệm: Cảm nhận toàn bộ tâm hành, ta sẽ thở vô
Vị ấy tâm niệm: Cảm nhận toàn bộ tâm hành, ta sẽ thở ra
Vị ấy tâm niệm: Với tâm hành lắng đọng, ta sẽ thở vô
Vị ấy tâm niệm: Với tâm hành lắng đọng, ta sẽ thở ra
Vị ấy tâm niệm: Cảm nhận toàn bộ tâm thức, ta sẽ thở vô
Vị ấy tâm niệm: Cảm nhận toàn bộ tâm thức, ta sẽ thở ra
Vị ấy tâm niệm: Với nội tâm thắng duyệt, ta sẽ thở vô
Vị ấy tâm niệm: Với nội tâm thắng duyệt, ta sẽ thở ra 
Vị ấy tâm niệm: Với nội tâm định tĩnh, ta sẽ thở vô
Vị ấy tâm niệm: Với nội tâm định tĩnh, ta sẽ thở ra
Vị ấy tâm niệm: Với nội tâm giải thoát, ta sẽ thở vô
Vị ấy tâm niệm: Với nội tâm giải thoát, ta sẽ thở ra 
Vị ấy tâm niệm: Sống tùy quán vô thường, ta sẽ thở vô
Vị ấy tâm niệm: Sống tùy quán vô thường, ta sẽ thở ra 
Vị ấy tâm niệm:  Sống tùy quán ly tham, ta sẽ thở vô
Vị ấy tâm niệm: Sống tùy quán ly tham, ta sẽ thở ra
Vị ấy tâm niệm: Sống tùy quán tịch diệt, ta sẽ thở vô
Vị ấy tâm niệm: Sống tùy quán tịch diệt, ta sẽ thở ra 
Vị ấy tâm niệm: Sống tùy quán xả ly, ta sẽ thở vô
Vị ấy tâm niệm: Sống tùy quán xả ly, ta sẽ thở ra
      Này Ànanda, đây được gọi là Nhập xuất tức niệm.
      Này Ànanda, nếu ngươi đến chỗ tỷ kheo Girimànanda và nói lại 10 phép niệm tưởng này, sự kiện này có thể xảy ra là sau khi nghe xong, bênh tình của tỷ kheo Girimànanda có thể lập tức thuyên giảm.
      Rồi tôn giả Ànanda, sau khi học xong 10 pháp niệm tưởng này từ nơi Thế Tôn, đã đi đến chỗ tôn giả Girimànanda và nói lại 10 pháp niệm tưởng này. Lúc bấy giờ, sau khi nghe xong, cơn trọng bệnh của tôn giả Girimànanda đã lập tức thuyên giảm. Bệnh tình của tôn giả Girimànanda đã chấm dứt với sự kiện như vậy.
 

KINH GIRIMÀNANDA Hán Việt
                                                                         Bản chữ Hán: Kỳ Lợi Ma Nan Kinh
                                                                           (Nam Truyền Đại Tạng Cuốn  24)


      Nhĩ thời, Thế Tôn trú xá vệ thành kỳ thọ Cấp Cô Độc viên. Kỳ thời, cụ thọ (àyasmà) Kỳ Lợi Ma Nan nhân tật bệnh nhi trọng hoạn khốn khổ. Thời, cụ thọ A Nan tức vãng nghệ Thế Tônsở tại chi xứ.Chí dĩ, lễ kính Thế Tôn cận toạ nhất diện. Toạư nhất diện chi cụ thọ A Nan bạch Thế Tôn ngôn:
      Đại đức ! Cụ thọ Kỳ Lợi Ma Nan nhân tật bệnh nhi trọng hoạn khốn khổ. Đại đức Thế Tôn duy nguyện ai mẫn nhi đáo cụ thọ Kỳ Lợi Ma Nan chi xứ.
      A Nan ! Nhược nhữ vãng Kỳ Lợi Ma Nan tỳ kheo xứ thuyết thập tưởng, tắc Kỳ Lợi Ma Nan tỳ kheo văn thập tưởng nhi chỉ kỳ bệnh, thị hữu thị xứ hà đẳng vi thập tưởng da ? Tức vô thường tưởng, vô ngã tưởng, bất tịnh tưởng, quá hoạn tưởng, đoạn tưởng, ly tham tưởng, diệt tận tưởng, nhất thiết thế gian bất hỷ tưởng, nhất thiết hành vô thường tưởng, nhập xuất tức niệm.
      A Nan ! Hà đẳng vi vô thường tưởng da ? A Nan, thử xứ hữu tỳ kheo vãng a-lan-nhã, vãng thọ hạ, vãng không ốc nhi tư trạch: Sắc  thị vô thường, thọ thị vô thường, tưởng thị vô thường, hành thị  vô thường, thức thị vô thường. Như thị ư thửngũ thủ uẩn quán vô thường nhi trú.
      A Nan, thử danh vi vô ngã tưởng. A Nan, hà đẳng vi vô ngã tưởng da ?? A Nan, thử xứ hữu tỳ kheo vãng a-lan-nhã, vãng thọ hạ, vãng không ốc nhi tư trạch: Sắc  thị vô ngã, thọ thị vô ngã, tưởng thị vô ngã, hành thị  vô ngã, thức thị vô ngã. Như thị ư thử ngũ thủ uẩn quán vô ngã nhi trú. A Nan, thử danh vi vô ngã tưởng.
      A Nan, hà đẳng vi bất tịnh tưởng da ? A Nan, thử xứ hữu tỳ kheo tự túc hạ nhi thượng, tự phát đảnh nhi hạ dĩ bì vi biên tế quán sát sung mãn chủng chủng chi bất tịnh chi thử thân vị : Thử thân hữu phát, mao, trảo, xỉ, bì, nhục, cân, cốt, cốt tủy, thận, tâm, can, lặc mô (mạc), tì, phế, trường, trường gian mạc, vị, bài tiết vật, đảm trấp, đàm, nùng, huyết, hãn, chi, lệ, tương, thoá, tị dịch, tủy, tuy. Như thị, ư thử thân quán bất tịnh nhi trú. A Nan, thử danh vi bất tịnh tưởng.
      A Nan, hà đẳng vi quá hoạn tưởng da ? A Nan, thử xứ hữu tỳ kheo trú a-lan-nhã, trú thọ hạ, trú không ốc nhi tư trạch: Thử thân giả quá hoạn đa khổ. Vị: Thử thân sinh chủng chủng chi tật bệnh, vị nhãn bệnh, nhĩ bệnh, tị bệnh, thiệt bệnh, thân bệnh, đầu bệnh, nhĩđoá bệnh, khẩu bệnh, xỉ bệnh, khái thấu, suyễn khí, cảm mạo, phiền nhiệt, ngược, phúc bệnh, hôn tuyệt, hạ lỵ, đông thống, hoắc loạn, lại bệnh, ung bệnh, bạch lại, can tiếu, điên cuồng, tiết, dưỡng, giới, bà thương, liên sang, huyết đảm bệnh, đường tuy bệnh, ma bí (tí), sang, trĩ, lũ, đảm đẳng khởi chi chư bệnh, đàm đẳng khởi chi chư bệnh, phong đẳng khởi chi chư bệnh, hoà hợp sinh chi chư bệnh, quý tiết biến dịch sở sanh chi chư bệnh, bất bình đẳng tư thế sở sinh chi chư bệnh, xâm hại sở sanh chi chư bệnh, nghiệp dị thục sở sanh chi chư bệnh, hàn, nhiệt, cơ, khát, đại tiện, tiểu tiện. Như thị ư thử thân quán quá hoạn nhi trú. A Nan, thử danh vi quá hoạn tưởng.
      A Nan, hà đẳng vi đoạn tưởng da ? A Nan, thử xứ hữu tỷ kheo bất nhẫn hứa dĩ sinh chi dục tầm, lệnh quy ư đoạn, trừ, ly, vô.Bất nhẫn hứa dĩ sinh chi sân tầm, lệnh quy ư đoạn, trừ, ly, vô.Bất nhẫn hứa dĩ sinh chi hại tầm, lệnh quy ư đoạn, trừ, ly, vô.Bất nhẫn hứa dĩ sinh chi ác bất thiện pháp, lệnh quy ư đoạn, trừ, ly, vô. A Nan, thử danh vi đoạn tưởng.
      A Nan, hà đẳng vi ly tham tưởng da? A Nan, thử xứ hữu tỳ kheo vãng  A-lan-nhã, vãng thọ hạ, vãng không ốc nhi tư trạch: Thử nãi tịch tịnh, thử nãi thù diệu tức nhất thiết hành chi tịch chỉ, nhất thiết dư y chi định khí, ái tận, ly tham, niết bàn. A Nan, thử danh vi ly tham tưởng.
      A Nan, hà đẳng vi diệt tận tưởng da ? A Nan, thử xứ hữu tỳ kheo vãng  A-lan-nhã, vãng thọ hạ, vãng không ốc nhi tư trạch: Thử nãi tịch tịnh, thử nãi thù diệu tức nhất thiết hành chi tịch chỉ, nhất thiết dư y chi định khí, ái tận, ly tham, niết bàn. A Nan, thử danh vi diệt tận tưởng.
      A Nan, hà đẳng vi nhất thiết thế gian bất hỷ tưởng da ? A Nan, thử xứ hữu tỷ kheo ư thế gian đoạn ly cận ỷ, chấp trước, tâm chi nhiếp thọ, hiện tham, tùy miên nhi bất thủ. A Nan, thử danh vi nhất thiết thế gian bất hỷ tưởng.
      A Nan, hà đẳng vi nhất thiết hành vô thưởng tưởng da ? A Nan, thử xứ hữu tỷ kheo tu, tàm, quý, sỉ ư nhất thiết hành. A Nan, thử danh vi nhất thiết hành vô thường tưởng.
      A Nan, hà đẳng vi nhập xuất tức niệm da ? A Nan, thử xứ hữu tỷ kheo vãng a-lan-nhã, vãng thọ hạ, vãng không ốc nhi kiết già phu toạ, chánh thân nhi trì, tu niệm ư phổ tiền, như tư : Chánh niệm nhi nhập tức, chánh niệm nhi xuất tức. Trường nhập tức giả, tức liễu tri : Ngã trường nhập tức. Trường xuất tức giả, tức liễu tri: Ngã trường xuất tức. Đoản nhập tức giả, tức liễu tri: Ngã đoản nhập tức. Đoản xuất tức giả, tức liễu tri: Ngã đoản xuất tức. Học : Ngã giác biến thân nhi nhập tức, học: Ngã giác biến than nhi xuất tức, học: Ngã chỉ than hành nhi lập tức, học: ngã chỉ than hành nhi xuất tức, học: Ngã giác hỹ nhi nhập tức, học: Ngã giác hỹ nhi xuất tức, học: Ngã giác lạc nhi nhập tức, học: Ngã giác lạc nhi xuất tức, học: Ngã giác tâm hành nhi nhập tức, học: Ngã giác tâm hành nhi xuất tức, học: Ngã chỉ tâm hành nhi nhập tức, học: Ngã chỉ tâm hành nhi xuất tức, học: Ngã giác tâm nhi nhập tức, học: Ngã giác tâm nhi xuất tức, học: Ngã lệnh tâm hoan hỷ nhi nhập tức, học: Ngã lệnh tâm hoan hỷ nhi xuất tức, học: Ngã lệnh tâm đắc định nhi nhập tức, học: Ngã lệnh tâm đắc định nhi xuất tức, học: Ngã lệnh tâm giải thoát nhi nhập tức, học: Ngã lệnh tâm giải thoát nhi xuất tức, học: Ngã quán vô thường nhi nhập tức, học: Ngã quán vô thường nhi xuất tức, học: Ngã quán ly tham nhi nhập tức, học: Ngã quán ly tham nhi xuất tức, học: Ngãquán diệt tận nhi nhập tức, học: Ngã quán diệt tận nhi xuất tức, học: Ngã quán định khí nhi nhập tức, học: Ngã quán định khí nhi xuất tức. A Nan, thử danh vi nhập xuất tức niệm. A Nan, nhược nhữ vãng Kỳ Lợi Ma Nan tỷ kheo xứ thuyết thập tưởng, tắc giảKỳ Lợi Ma Nan tỷ kheo giả văn thử thập tưởng, nhi chỉ kỳ bệnh thị hữu sở thị xứ. Thời, cụ thọ A Nan tức tùng Thế Tôn xứ thânthọ thử thập tưởng, vãng cụ thọ Kỳ Lợi Ma Nan chi xứ. Chí dĩ, đối cụ thọ Kỳ Lợi Ma Nan thuyết thử thập pháp. Thời,cụ thọ Kỳ Lợi Ma Nan văn thử thập pháp, kỳ bệnh tức chỉ, cụ thọ Kỳ Lợi Ma Nan tự bệnh thuyên dũ, cụ thọ Kỳ Lợi Ma Nan chi bỉ bệnh nãi đoạn.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12661)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11704)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11697)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12305)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12368)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19806)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11935)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11972)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16866)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12655)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15049)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16087)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12856)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12204)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11900)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11912)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13133)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16487)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13215)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12464)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11790)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19821)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11135)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11237)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10392)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11069)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10945)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10014)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11724)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
(Xem: 11613)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11923)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11091)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11330)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12052)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12546)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10744)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17965)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11716)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9933)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 11225)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 13145)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 16525)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 11817)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10879)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 11826)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 28774)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12344)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 52983)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35458)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 16062)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 12166)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12286)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 11376)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17138)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14941)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 14594)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13807)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11680)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15028)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 22836)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant