Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Saṃyuktāgama 17: Bứng Gốc Và Buông Bỏ

03 Tháng Mười Hai 201510:32(Xem: 11896)
Kinh Saṃyuktāgama 17: Bứng Gốc Và Buông Bỏ

KINH SAṂYUKTĀGAMA 17:
BỨNG GỐC VÀ BUÔNG BỎ


Nguyên Giác

 Kinh Saṃyuktāgama 17 Bứng Gốc Và Buông Bỏ

 
Có một số kinh được Đức Phật đưa ra và gọi đó là giáo pháp ngắn gọn, để dạy một số chư tăng khi quý ngài bạch rằng tuổi đã cao, bây giờ cần một lời dạy giáo pháp ngắn gọn để lui về một góc rừng tu hành khẩn cấp.

Trong đó có Kinh Bahiya, dạy rằng “trong cái thấy chỉ là cái được thấy, trong cái nghe chỉ là cái được nghe…” Pháp này trong thơ thiền Việt Nam là, quên hết các pháp và chỉ còn thấy trên đầu một chữ “Như”…

Hay như trong Kinh Khemaka, Đức Phật dạy y hệt Kinh Kim Cang là “ưng vô sở trụ… chớ trụ tâm vào đâu hết…”

Hay như Kinh Kalaka Sutta, dạy chớ dựng lập thấy biết, và Đức Phật nói rằng đó là dạy về pháp "Như" tối thượng, không pháp nào cao hơn.

Hay như Kinh Cetana Sutta, dạy chớ dựng lập ý niệm.

Hôm nay, bài này sẽ khảo sát về lời dạy: hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà chúng ta nhận biết và tiếp cận. Nhưng chớ nghĩ đây là một hình thức hư vô chủ nghĩa, một kiến giải mà  chính Đức Phật đã bác bỏ. và vì chữ Không do Đức Phật tuyên thuyết hoàn toàn xa lìa hai cực có và không.

Tương tự, trong các pháp ngắn gọn đã khảo sát nêu trên, không có nghĩa là xóa bỏ tri kiến hay xóa bỏ ý niệm, chỉ đơn giản là sống với cái tâm khi niệm chưa khởi, khi tri kiến chưa dựng lập, khi không thấy một pháp nào để trụ hay vô-sở-trụ. Nói kiểu các thiền sư xa xưa, khi nghe chỉ là nghe, khi thấy chỉ là thấy, đó là tâm gì? Hay chỉ là vô tâm? Hay là tâm nguyên sơ? Nói gì cũng không trúng, vì qua nhiều bài kinh với nhiều cách tiếp cận, chúng ta thấy ngôn ngữ không nêu chính xác được. Mới biết, Đức Phật tuyệt vời tối thắng, tuyệt vời hy hữu.

*

Kinh sắp nói nơi này, hẳn là dạy cho những vị tăng đã nhiều năm học đạo, vì giới định huệcon đường tất yếu để giải thoát. Trong truyền thống, tu thiền là phải nhiếp tâm, phải nhiếp niệm và phải phòng hộ các căn – nhưng trong kinh này, không dạy nhiếp tâm, không dạy nhiếp niệm, không dạy phòng hộ các căn, chỉ đơn giản dạy là hãy bứng gốc và buông bỏ hết [mọi hiện tướng của thân tâm], và Đức Phật nói rõ đây là giáo pháp ngắn gọn.

Cũng nên ghi rằng, chư tổ Thiền Tông khi dạy pháp buông hết (công án: Tùy tha khứ) vẫn cảnh giác rằng buông bỏ mà chớ nghĩ là Không, thấy biết mà chớ nghĩ là Có...

Trong sách “Kho Báu Nhà Thiền” của Thiền sư Văn Thủ, bản Việt dịch của dịch giả Định Huệ, nơi “Chương 6: Học đạo cần phải nhận đúng như thật” có ghi lời dạy buông hết các pháp, từ Thiền sư Bá Trượng:

“Các ông trước dứt các duyên, bặt hết muôn việc, hết thảy các pháp thiện cùng bất thiện, thế gian cùng xuất thế gian, chớ có ghi nhớ, chớ có nghĩ tưởng, buông xả thân tâm cho nó tự tại, tâm như gỗ đá không còn phân biệt, tâm không dấy niệm, đất tâm không trống không thì mặt trời trí hụê tự hiện. Chỉ cần dứt hết thảy phan duyên tham, sân, ái thủ, tình chấp cấu tịnh sạch hết, đối với ngũ dục, bát phong chẳng động, chẳng bị cái thấy, nghe, hay, biết ràng buộc, chẳng bị các cảnh làm mê lầm thì tự nhiên đầy đủ thần thông diệu dụng, đó là người giải thoát...”(1)

Trong tác phẩm “Tham Thiên Phổ Thuyết” của Lai Quả Thiền Sư, bản Việt dịch của Thiền Sư Thích Duy Lực, nơi “Chương  10. Lục Căn Khó Nhiếp” có viết về lời dạy buông xả hết thấy nghe hay biết, xin trích:

“LỤC căn là chỉ cho mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Phạm vi của lục căn bất quá ở trên phạm vi thân này sao lại nói khó nhiếp ? Ông muốn nhiếp, ta thì muốn buông. Vì cớ sao ? Vì nhiếp để giữ kín nó lại đó là hại lớn. Chẳng bằng thấy có tướng thì buông xả cái thấy, nghe có tiếng thì buông xả cái nghe, bốn căn kia cũng như thế. Người hành đạo trước tiên quên thấy quên nghe, kế đến tịnh thân tâm, chẳng những lục căn, lục trần được buông xả, mà lục thức theo đó cũng dừng. Thường thấy người trụ Tòng lâm đầu thân, tay chân cứng như cây khô, đi như người gỗ, ngồi như ông Địa, đây tuy chẳng hay, song so với người phóng đãng thì tốt gấp muôn lần. Như thế, chẳng qua chỉ là mắt nhắm không liếc ngó, nhưng bên trong còn động, hễ con ngươi chợt nhìn liền bị tướng lôi; tai dù không nghe, hễ đầu bỗng lay động liền bị tiếng thâu. Cách hành như thế thì đâu có nhiếp được các căn.

 Cách nhiếp chân chánh ví dụ như: Một cái phòng xung quanh có sáu cửa sổ, trong đốt một ngọn đèn thì ánh sáng từ sáu cửa chiếu ra ngoài. Muốn trừ bỏ một cửa thì dùng vải bố che lại ắt một cửa tự tối. Dùng vải che dụ cho giữ con mắt không cho nhìn bên ngoài. Muốn trừ bỏ cửa thứ hai, cũng dùng vải che, vải che tức là giữ cái tai không cho nghe bên ngoài. Bốn cửa kia cũng vậy. Cách hành như thế tạm nhiếp thì được, song chưa phải là hạnh đốn (đốn ngộ). Cách hành của Thiền tông không cần đóng sáu cửa sổ, trước tiên bỏ ngọn đèn ở giữa phòng, kế đến dẹp luôn cả cái phòng, chẳng những lục căn, lục trần tự không, lục thức cũng tự xa lìa. Thực ra không cần dẹp bỏ, đèn và phòng đều tự tiêu tan. Thử hỏi: “Hồ ly tinh (ý thức phân biệt) nay đâu còn chỗ dấu thân nữa?”. Vậy cái đạo của thiền tông trước tiên dùng nghi tình hàng phục tâm, tâm quên thì trong ngoài đều quên, chẳng đóng mà tự đóng, chẳng nhiếp mà tự nhiếp, thật chẳng đúng ư...”(2)

*

Sau đây là bản Anh dịch Kinh Saṃyuktāgama 17 của Bhikkhu Bodhi. Các chữ trong ngoặc đơn () là do Nguyên Giác ghi chú để làm rõ nghĩa.

17. Discourse on Not Belonging to Oneself

Thus have I heard. At one time the Buddha was staying at Sāvatthī in Jeta’s Grove, Anāthapiṇḍika’s Park. A certain monk rose from his seat, bared his right shoulder and with palms together said to the Buddha:

“It would be well if the Blessed One would teach me the essentials of the Dharma in brief. On having heard the Dharma I shall alone and in a quiet place reflect on it with energy. Being established in it without negligence I shall reflect on that for whose sake a clansman’s son goes forth, shaving off beard and hair and putting Dharma robes on the body, out of faith going forth from the home to homelessness for the unsurpassed supreme holy life, realizing here and now that ‘birth for me has been eradicated, the holy life has been established, what had to be done has been done, I myself know that there will be no receiving of further existence.’”

Kinh Saṃyuktāgama 17: Kinh về không thuộc về chính mình

Như vầy tôi nghe. Một thời, Đức Phật ở thành Xá Vệ, trong rừng Jeta, vườn Cấp Cô Độc. Một vị tăng đứng dậy từ chỗ ngồi, trần vai bên phải, chắp tay bạch Đức Phật:

“Con xin cung thỉnh Đức Phật dạy con Pháp tinh yếu ngắn gọn. Khi nghe pháp xong, con sẽ tìm về nơi vắng lặng, ở một mình, thực hành pháp này nhiệt tâm. Con sẽ hành pháp này tinh cần, con sẽ suy nghĩ rằng vì pháp đó mà con trai của một tộc họ xuất gia, cạo râu tóc, mặc pháp y, với tín tâm rời nhà để sống đời không nhà vì thánh hạnh tối thượng, chứng ngộ nơi đây và bây giờ rằng “sanh đã kết thúc với con, đời sống bậc thánh đã dựng lập, những gì phải làm đã làm xong, tự con biết là sẽ không còn tái sanh nữa.”

At that time the Blessed One said to that monk: “It is well, it is well, that you speak like this: ‘Blessed One, teach me the essentials of the Dharma in brief. On having been taught the Dharma herein in brief and fully understood its meaning, I shall alone and in a quiet place reflect on it with energy. Being established in it without negligence … up to … knowing myself that there will be no receiving of further existence.’ Are you speaking like this?” The monk said to the Buddha: “It is like this, Blessed One.”

Lúc đó, Đức Phật nói với vị sư đó: “Tốt lắm, tốt lắm, khi con nói thế này, ‘Bạch Đức Phật, hãy dạy con tinh yếu của Pháp ngắn gọn. Khi được dạy Pháp ngắn gọn xong, và hiểu đầy đủ nghĩa, con sẽ về độc cư nơi vắng lặng, hành pháp này tinh tấn. Dựng lập [tự thân] trong pháp đó không lui sụt... tới khi... tự biết rằng sẽ không tái sanh nữa.’ Con nói như thế, có đúng không?” Vị tăng nói với Đức Phật: “Bạch Đức Phật, đúng là như thế.”

The Buddha said to the monk: “Listen, listen and pay careful attention to what I will tell you. Monk, whatever things do not belong to you, they should quickly be eradicated and relinquished. Having eradicated those things will be for your benefit and welfare, for your peace for a long time.” Then the monk said to the Buddha: “I understood, Blessed One, I understood Well Gone One!”

Đức Phật nói với vị sư: “Hãy nghe, hãy nghe và hãy chú tâm vào những gì thầy sẽ nói với con. Tỳ kheo ơi, bất cứ những gì không thuộc về con, chúng nên nhanh chóng bị bứng gốc và buông bỏ. Bứng gốc những thứ đó sẽ làm lợi íchhạnh phúc cho con, cho con an lành lâu dài.” Rồi vị sư đó nói với Đức Phật: “Bạch Đức Phật, con hiểu rồi, con đã hiểu Như Lai!”

The Buddha said to the monk: “How do you understand in full the meaning of the teaching I herein spoke in brief?” The monk said to the Buddha: “Blessed One, bodily form does not belong to me, it should quickly be eradicated and relinquished. Feeling … perception … formations … consciousness does not belong to me, it should quickly be eradicated and relinquished. This will be for my benefit and welfare, for my peace for a long time. Blessed One, I thus understand in full the meaning of the teaching herein spoken in brief.”

Đức Phật nói với vị sư: “Con hiểu thế nào về nghĩa đầy đủ giáo pháp ngắn gọn thầy vừa nói?” Vị sư nói với Đức Phật: “Bạch Đức Phật, sắc thân hình hài không thuộc về con, cần nhanh chóng bị bứng gốc và buông bỏ. Thọ (tương tự, bứng gốc và buông bỏ với cảm thọ)... tưởng (tương tự, bứng gốc và buông bỏ với tri kiến về sắc, thanh, hương, vị...)... hành (tương tự, bứng gốc và buông bỏ với hành, là khi tâm khởi lên lựa chọn, lượng định sau khi tri kiến đã dựng lập với tưởng)... thức (ý thức khởi lên khi 6 căn gặp 6 trần) không thuộc về con, cần nhanh chóng bị bứng gốc và buông bỏ.  Như thế sẽ làm lợi íchhạnh phúc cho con, cho con an lành lâu dài. Bạch Đức Phật, con đã hiểu nghĩa đầy đủ như thế giáo pháp ngắn gọn vừa tuyên  thuyết.”

The Buddha said to the monk: “It is well, it is well, monk, that you understand in full the meaning of the teaching I herein spoke in brief. Why is that? Bodily form does not belong to you, it should quickly be eradicated and relinquished. In the same way feeling … perception … formations … consciousness does not belong to you, it should quickly be eradicated and relinquished. Having eradicated and relinquished it will be for your benefit and welfare, for your peace for a long time.

Đức Phật nói với vị sư: “Tốt lắm, tốt lắm, tỳ kheo, rằng con đã hiểu đầy đủ nghĩa giáo pháp thầy nói ngắn gọn. Sao lại như thế? Sắc thân hình hài không thuộc về con, nó cần nhanh chóng bị bứng gốc và buông bỏ. Tương tự, thọ... tưởng... hành... thức không thuộc về con, nó cần nhanh chóng bị bứng gốc và buông bỏ. Bứng gốc và buông bỏ nó, sẽ là lợi íchhạnh phúc cho con, cho con an lành lâu dài.

Then, on hearing what the Buddha had said, the mind of that monk was greatly delighted. He paid homage to the Buddha and withdrew. Practising alone in a quiet place with diligence he was established in being without negligence. Having practiced with diligence and being established in being without negligence he was able to reflect on that for the sake of what a clansman’s son goes forth, shaving off beard and hair and putting Dharma robes on the body, out of right faith going forth to homelessness … up to … he himself knew that there will be no receiving of further existence.’ Then that monk became an arahant, attaining liberation of the mind. (3)

Rồi thì, khi nghe Đức Phật nói xong, tâm của vị sư đó rất mực hoan hỷ. Vị sư đảnh lễ Đức Phật và lui ra. Thực hành đơn độc trong nơi vắng vẻ, với tinh tấn, vị sư an lập trong pháp này không biếng trễ. Thực hành với tinh tấn, và an lập trong pháp này không biếng trễ, vị sư chiêm nghiệm về những gì mà đứa con trai của gia tộc xuất gia, cạo râu tóc, mặc pháp y, tín tâm sống hạnh không nhà... tới khi... chính vị sư này biết rằng sẽ không còn nhận thân sau nào nữa.’ Rồi thì, vị sư đó trở thành một A La Hán, thành tụu giải thoát tâm.


Nguyên Giác

(1) Xem: http://thuvienhoasen.org/a14958/kho-bau-nha-thien

(2) Xem: http://www.tosuthien.com/kinh-sach/tham-thien-pho-thuyet/tham-thien-pho-thuyet-quyen-thuong/10-luc-can-kho-nhiep

(3) Xem: https://suttacentral.net/en/sa17

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13686)
Đại chánh tân tu số 0015, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13067)
Đại chánh tân tu số 0014, Hán dịch: Sa Môn An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc và Tâm Hạnh
(Xem: 13502)
Kinh Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0006) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12395)
Kinh Phật Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0005) - Bạch Pháp Tổ; Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12014)
Kinh Thất Phật Phụ Mẫu Tánh Tự (Đại Chánh Tân Tu số 0004) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12840)
Kinh Phật Tỳ Bà Thi (Đại Chánh Tân Tu số 0003) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 12911)
Kinh Thất Phật (Đại Chánh Tân Tu số 0002) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 13106)
Đức Phật dạy: Ai muốn tin Ta, làm đệ tử Ta, cần phải đủ trí quán sát, mới tin; không rõ nguyên nhân Ta, mà tin Ta ấy là phỉ báng Ta... HT Thích Hành Trụ dịch
(Xem: 21260)
Thiện Ác Nghiệp Báo (Chư Kinh Yếu Tập) Đại Chánh Tân Tu số 2123 - Nguyên tác: Đạo Thế; Thích Nguyên Chơn dịch
(Xem: 143398)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
(Xem: 15595)
Đại Chánh Tân Tu số 0018 - Hán dịch: Ðại Sư Pháp Hiền (đời Tống), Việt Dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 81127)
Kinh Nhật Tụng - Kinh Tụng Hằng Ngày
(Xem: 19499)
Kinh Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử Đà La Ni - Đời Đường, nước Kế Tân, Tam Tạng Sa môn Phật Đà Ba Ly vâng chiếu dịch, Việt dịch: Sa-môn Thích Thiện Thông.
(Xem: 20106)
Kiền Long Đại Tạng Kinh bao gồm 168 tập, chứa đựng 1669 bộ Kinh văn... Tổng hợp Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 19154)
Kinh Vô Lượng Nghĩa - Tam tạng pháp sư Đàm Ma Già Đà Da Xá, người Thiên-trúc, dịch từ Phạn văn ra Hán văn tại Trung-quốc, vào đời Tiêu-Tề; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 15024)
Kinh Hạnh Nguyện Phổ Hiền - Tam Tạng pháp sư Bát Nhã, người nước Kế-tân, dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào đời Đường; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 12914)
Có lần Đấng Thế Tôn ngụ tại vùng của bộ tộc Thích-ca (Sakka) tại thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu) trong khu vườn Ni-câu-đà (Nigrodha).
(Xem: 13078)
Đây là những điều tôi nghe Bụt nói vào một thời mà người còn lưu trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ Đà. Hôm ấy, cư sĩ Cấp Cô Độc cùng với năm trăm vị cư sĩ khác đã tìm đến nơi cư ngụ của thầy Xá Lợi Phất.
(Xem: 48852)
Trong khế kinh, Đức Phật nói. "Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật"... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 14679)
Pháp Hoa Tông Yếu, Thứ tự kinh văn số 1725 trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh do Ngài Nguyên Hiểu sọan chữ Hán, Sa Môn Thích Như Điển dịch.
(Xem: 18532)
Bộ Pháp Hoa Huyền Nghĩa xuất bản hôm nay không có một liên quan nào, về mọi phương diện, với những bộ Kinh danh đề tương tựchúng ta thấy trong Đại tạng... Chánh Trí Mai Thọ Truyền
(Xem: 16332)
Tỳ Kheo Huệ Chiểu chùa Đại Vân ở Chuy Châu sọan, Sa Môn Thích Như Điển Phương Trượng chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc dịch từ Tiếng Hán sang tiếng Việt trên chuyến Hoằng Pháp Âu Châu năm 2013
(Xem: 19296)
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú - Do HT Thích Như Điển dịch Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh
(Xem: 27915)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử tiếp tục truyền bá giáo lý của ngài trong nhân gian. Đồng thời, để bảo đảm giáo lý của ngài một cách trung thực cho hậu thế, họ đã gom lại kết tập để soạn thành một tập toàn bộ kinh điển.
(Xem: 22099)
Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ, bao gồm nghĩa lý thâm thiết để cởi mở nghiệp khổ cho chúng sanh... HT Thích Thiện Siêu dịch
(Xem: 23235)
Thiện nam tử! Có một loại pháp Bồ tát nên diệt trừ. Ðó là pháp tham. Thiện nam tử ! Ðây là một pháp phải nên diệt trừ vĩnh viễn.
(Xem: 64679)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 33125)
Thế Tôn, nếu con nghĩ rằng con đắc đạo A La Hán, thì Thế Tôn chẳng nói Tu Bồ Đề là một hành giả thanh tịnh hạnh. Vì Tu Bồ Đề vốn là vô sở hành...
(Xem: 40075)
Tam thế chư Phật, chư Đại-Bồ-tát, thật chứng và nhập một với Pháp-giới-tính nên phát-khởi vô-duyên đại-từ, đồng-thể đại-bi, hiện ra vô số thân, theo duyên hóa-độ vô-lượng vô-biên chúng-sinh...
(Xem: 27251)
Kinh Trường Bộ thi hóa (3 tập) - Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli - Chuyển thể Thơ: Giới Lạc Mai Lạc Hồng
(Xem: 74789)
Kinh chữ Hán - ĐĐ. Thích Hạnh Phú sưu tầm & biên soạn
(Xem: 36055)
Sắc là vô thường. Vô thường tức là khổ. Khổ tức là chẳng phải ta. Cái gì chẳng phải ta thì cũng chẳng phải sở hữu của ta. Quán sát như vậy gọi là chân thật chánh quán.
(Xem: 48917)
Người nhất tâm nghe kinh có hai hạng: nghe rồi thọ trì pháp và nghe rồi không thọ trì pháp. Người nghe rồi thọ trì pháp là hơn, người nghe rồi không thọ trì pháp là kém.
(Xem: 30975)
Nếu dùng hình sắc để thấy ta, Dùng âm thanh để cầu ta, Người nầy hành tà đạo, Chẳng thể thấy Như Lai... HT Thích Như Điển
(Xem: 33852)
Kinh Bại Vong (Parabhava-sutta) rút từ Tập Kinh (Suttanipata), kệ số 91-115, trang 18-20, Pali Text Society... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 58745)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 46183)
“Ðức Thế Tôn nghe Phạm vương ba lần ân cần thưa thỉnh, liền dùng Phật nhãn soi khắp thế giới chúng sanh, thấy sự ô nhiễm của chúng sanh có dày có mỏng...
(Xem: 43739)
Khi Đức Phật nói danh hiệu chư Phật đời quá khứ, có mười ngàn Bồ Tát, được Vô sinh nhẫn, tám trăm Thanh Văn, phát thiểu phận tâm, năm ngàn Tỷ khưu...
(Xem: 43128)
Kinh vừa là Kinh Phật, lại vừa là miệng Phật. Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã...
(Xem: 45823)
Này các Kàlàmà, chớ có tin vì nghe báo cáo, chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì được kinh điển truyền tụng...
(Xem: 47929)
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Trọn bộ 11 tập - 600 cuốn; Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Nghiêm
(Xem: 34559)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33385)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43832)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 52850)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 40360)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43376)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31386)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 28624)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 31815)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28728)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33250)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29058)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60894)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39636)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 29575)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37257)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 26780)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42566)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 26328)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant