Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Saṃyuktāgama 17: Bứng Gốc Và Buông Bỏ

03 Tháng Mười Hai 201510:32(Xem: 11827)
Kinh Saṃyuktāgama 17: Bứng Gốc Và Buông Bỏ

KINH SAṂYUKTĀGAMA 17:
BỨNG GỐC VÀ BUÔNG BỎ


Nguyên Giác

 Kinh Saṃyuktāgama 17 Bứng Gốc Và Buông Bỏ

 
Có một số kinh được Đức Phật đưa ra và gọi đó là giáo pháp ngắn gọn, để dạy một số chư tăng khi quý ngài bạch rằng tuổi đã cao, bây giờ cần một lời dạy giáo pháp ngắn gọn để lui về một góc rừng tu hành khẩn cấp.

Trong đó có Kinh Bahiya, dạy rằng “trong cái thấy chỉ là cái được thấy, trong cái nghe chỉ là cái được nghe…” Pháp này trong thơ thiền Việt Nam là, quên hết các pháp và chỉ còn thấy trên đầu một chữ “Như”…

Hay như trong Kinh Khemaka, Đức Phật dạy y hệt Kinh Kim Cang là “ưng vô sở trụ… chớ trụ tâm vào đâu hết…”

Hay như Kinh Kalaka Sutta, dạy chớ dựng lập thấy biết, và Đức Phật nói rằng đó là dạy về pháp "Như" tối thượng, không pháp nào cao hơn.

Hay như Kinh Cetana Sutta, dạy chớ dựng lập ý niệm.

Hôm nay, bài này sẽ khảo sát về lời dạy: hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà chúng ta nhận biết và tiếp cận. Nhưng chớ nghĩ đây là một hình thức hư vô chủ nghĩa, một kiến giải mà  chính Đức Phật đã bác bỏ. và vì chữ Không do Đức Phật tuyên thuyết hoàn toàn xa lìa hai cực có và không.

Tương tự, trong các pháp ngắn gọn đã khảo sát nêu trên, không có nghĩa là xóa bỏ tri kiến hay xóa bỏ ý niệm, chỉ đơn giản là sống với cái tâm khi niệm chưa khởi, khi tri kiến chưa dựng lập, khi không thấy một pháp nào để trụ hay vô-sở-trụ. Nói kiểu các thiền sư xa xưa, khi nghe chỉ là nghe, khi thấy chỉ là thấy, đó là tâm gì? Hay chỉ là vô tâm? Hay là tâm nguyên sơ? Nói gì cũng không trúng, vì qua nhiều bài kinh với nhiều cách tiếp cận, chúng ta thấy ngôn ngữ không nêu chính xác được. Mới biết, Đức Phật tuyệt vời tối thắng, tuyệt vời hy hữu.

*

Kinh sắp nói nơi này, hẳn là dạy cho những vị tăng đã nhiều năm học đạo, vì giới định huệcon đường tất yếu để giải thoát. Trong truyền thống, tu thiền là phải nhiếp tâm, phải nhiếp niệm và phải phòng hộ các căn – nhưng trong kinh này, không dạy nhiếp tâm, không dạy nhiếp niệm, không dạy phòng hộ các căn, chỉ đơn giản dạy là hãy bứng gốc và buông bỏ hết [mọi hiện tướng của thân tâm], và Đức Phật nói rõ đây là giáo pháp ngắn gọn.

Cũng nên ghi rằng, chư tổ Thiền Tông khi dạy pháp buông hết (công án: Tùy tha khứ) vẫn cảnh giác rằng buông bỏ mà chớ nghĩ là Không, thấy biết mà chớ nghĩ là Có...

Trong sách “Kho Báu Nhà Thiền” của Thiền sư Văn Thủ, bản Việt dịch của dịch giả Định Huệ, nơi “Chương 6: Học đạo cần phải nhận đúng như thật” có ghi lời dạy buông hết các pháp, từ Thiền sư Bá Trượng:

“Các ông trước dứt các duyên, bặt hết muôn việc, hết thảy các pháp thiện cùng bất thiện, thế gian cùng xuất thế gian, chớ có ghi nhớ, chớ có nghĩ tưởng, buông xả thân tâm cho nó tự tại, tâm như gỗ đá không còn phân biệt, tâm không dấy niệm, đất tâm không trống không thì mặt trời trí hụê tự hiện. Chỉ cần dứt hết thảy phan duyên tham, sân, ái thủ, tình chấp cấu tịnh sạch hết, đối với ngũ dục, bát phong chẳng động, chẳng bị cái thấy, nghe, hay, biết ràng buộc, chẳng bị các cảnh làm mê lầm thì tự nhiên đầy đủ thần thông diệu dụng, đó là người giải thoát...”(1)

Trong tác phẩm “Tham Thiên Phổ Thuyết” của Lai Quả Thiền Sư, bản Việt dịch của Thiền Sư Thích Duy Lực, nơi “Chương  10. Lục Căn Khó Nhiếp” có viết về lời dạy buông xả hết thấy nghe hay biết, xin trích:

“LỤC căn là chỉ cho mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Phạm vi của lục căn bất quá ở trên phạm vi thân này sao lại nói khó nhiếp ? Ông muốn nhiếp, ta thì muốn buông. Vì cớ sao ? Vì nhiếp để giữ kín nó lại đó là hại lớn. Chẳng bằng thấy có tướng thì buông xả cái thấy, nghe có tiếng thì buông xả cái nghe, bốn căn kia cũng như thế. Người hành đạo trước tiên quên thấy quên nghe, kế đến tịnh thân tâm, chẳng những lục căn, lục trần được buông xả, mà lục thức theo đó cũng dừng. Thường thấy người trụ Tòng lâm đầu thân, tay chân cứng như cây khô, đi như người gỗ, ngồi như ông Địa, đây tuy chẳng hay, song so với người phóng đãng thì tốt gấp muôn lần. Như thế, chẳng qua chỉ là mắt nhắm không liếc ngó, nhưng bên trong còn động, hễ con ngươi chợt nhìn liền bị tướng lôi; tai dù không nghe, hễ đầu bỗng lay động liền bị tiếng thâu. Cách hành như thế thì đâu có nhiếp được các căn.

 Cách nhiếp chân chánh ví dụ như: Một cái phòng xung quanh có sáu cửa sổ, trong đốt một ngọn đèn thì ánh sáng từ sáu cửa chiếu ra ngoài. Muốn trừ bỏ một cửa thì dùng vải bố che lại ắt một cửa tự tối. Dùng vải che dụ cho giữ con mắt không cho nhìn bên ngoài. Muốn trừ bỏ cửa thứ hai, cũng dùng vải che, vải che tức là giữ cái tai không cho nghe bên ngoài. Bốn cửa kia cũng vậy. Cách hành như thế tạm nhiếp thì được, song chưa phải là hạnh đốn (đốn ngộ). Cách hành của Thiền tông không cần đóng sáu cửa sổ, trước tiên bỏ ngọn đèn ở giữa phòng, kế đến dẹp luôn cả cái phòng, chẳng những lục căn, lục trần tự không, lục thức cũng tự xa lìa. Thực ra không cần dẹp bỏ, đèn và phòng đều tự tiêu tan. Thử hỏi: “Hồ ly tinh (ý thức phân biệt) nay đâu còn chỗ dấu thân nữa?”. Vậy cái đạo của thiền tông trước tiên dùng nghi tình hàng phục tâm, tâm quên thì trong ngoài đều quên, chẳng đóng mà tự đóng, chẳng nhiếp mà tự nhiếp, thật chẳng đúng ư...”(2)

*

Sau đây là bản Anh dịch Kinh Saṃyuktāgama 17 của Bhikkhu Bodhi. Các chữ trong ngoặc đơn () là do Nguyên Giác ghi chú để làm rõ nghĩa.

17. Discourse on Not Belonging to Oneself

Thus have I heard. At one time the Buddha was staying at Sāvatthī in Jeta’s Grove, Anāthapiṇḍika’s Park. A certain monk rose from his seat, bared his right shoulder and with palms together said to the Buddha:

“It would be well if the Blessed One would teach me the essentials of the Dharma in brief. On having heard the Dharma I shall alone and in a quiet place reflect on it with energy. Being established in it without negligence I shall reflect on that for whose sake a clansman’s son goes forth, shaving off beard and hair and putting Dharma robes on the body, out of faith going forth from the home to homelessness for the unsurpassed supreme holy life, realizing here and now that ‘birth for me has been eradicated, the holy life has been established, what had to be done has been done, I myself know that there will be no receiving of further existence.’”

Kinh Saṃyuktāgama 17: Kinh về không thuộc về chính mình

Như vầy tôi nghe. Một thời, Đức Phật ở thành Xá Vệ, trong rừng Jeta, vườn Cấp Cô Độc. Một vị tăng đứng dậy từ chỗ ngồi, trần vai bên phải, chắp tay bạch Đức Phật:

“Con xin cung thỉnh Đức Phật dạy con Pháp tinh yếu ngắn gọn. Khi nghe pháp xong, con sẽ tìm về nơi vắng lặng, ở một mình, thực hành pháp này nhiệt tâm. Con sẽ hành pháp này tinh cần, con sẽ suy nghĩ rằng vì pháp đó mà con trai của một tộc họ xuất gia, cạo râu tóc, mặc pháp y, với tín tâm rời nhà để sống đời không nhà vì thánh hạnh tối thượng, chứng ngộ nơi đây và bây giờ rằng “sanh đã kết thúc với con, đời sống bậc thánh đã dựng lập, những gì phải làm đã làm xong, tự con biết là sẽ không còn tái sanh nữa.”

At that time the Blessed One said to that monk: “It is well, it is well, that you speak like this: ‘Blessed One, teach me the essentials of the Dharma in brief. On having been taught the Dharma herein in brief and fully understood its meaning, I shall alone and in a quiet place reflect on it with energy. Being established in it without negligence … up to … knowing myself that there will be no receiving of further existence.’ Are you speaking like this?” The monk said to the Buddha: “It is like this, Blessed One.”

Lúc đó, Đức Phật nói với vị sư đó: “Tốt lắm, tốt lắm, khi con nói thế này, ‘Bạch Đức Phật, hãy dạy con tinh yếu của Pháp ngắn gọn. Khi được dạy Pháp ngắn gọn xong, và hiểu đầy đủ nghĩa, con sẽ về độc cư nơi vắng lặng, hành pháp này tinh tấn. Dựng lập [tự thân] trong pháp đó không lui sụt... tới khi... tự biết rằng sẽ không tái sanh nữa.’ Con nói như thế, có đúng không?” Vị tăng nói với Đức Phật: “Bạch Đức Phật, đúng là như thế.”

The Buddha said to the monk: “Listen, listen and pay careful attention to what I will tell you. Monk, whatever things do not belong to you, they should quickly be eradicated and relinquished. Having eradicated those things will be for your benefit and welfare, for your peace for a long time.” Then the monk said to the Buddha: “I understood, Blessed One, I understood Well Gone One!”

Đức Phật nói với vị sư: “Hãy nghe, hãy nghe và hãy chú tâm vào những gì thầy sẽ nói với con. Tỳ kheo ơi, bất cứ những gì không thuộc về con, chúng nên nhanh chóng bị bứng gốc và buông bỏ. Bứng gốc những thứ đó sẽ làm lợi íchhạnh phúc cho con, cho con an lành lâu dài.” Rồi vị sư đó nói với Đức Phật: “Bạch Đức Phật, con hiểu rồi, con đã hiểu Như Lai!”

The Buddha said to the monk: “How do you understand in full the meaning of the teaching I herein spoke in brief?” The monk said to the Buddha: “Blessed One, bodily form does not belong to me, it should quickly be eradicated and relinquished. Feeling … perception … formations … consciousness does not belong to me, it should quickly be eradicated and relinquished. This will be for my benefit and welfare, for my peace for a long time. Blessed One, I thus understand in full the meaning of the teaching herein spoken in brief.”

Đức Phật nói với vị sư: “Con hiểu thế nào về nghĩa đầy đủ giáo pháp ngắn gọn thầy vừa nói?” Vị sư nói với Đức Phật: “Bạch Đức Phật, sắc thân hình hài không thuộc về con, cần nhanh chóng bị bứng gốc và buông bỏ. Thọ (tương tự, bứng gốc và buông bỏ với cảm thọ)... tưởng (tương tự, bứng gốc và buông bỏ với tri kiến về sắc, thanh, hương, vị...)... hành (tương tự, bứng gốc và buông bỏ với hành, là khi tâm khởi lên lựa chọn, lượng định sau khi tri kiến đã dựng lập với tưởng)... thức (ý thức khởi lên khi 6 căn gặp 6 trần) không thuộc về con, cần nhanh chóng bị bứng gốc và buông bỏ.  Như thế sẽ làm lợi íchhạnh phúc cho con, cho con an lành lâu dài. Bạch Đức Phật, con đã hiểu nghĩa đầy đủ như thế giáo pháp ngắn gọn vừa tuyên  thuyết.”

The Buddha said to the monk: “It is well, it is well, monk, that you understand in full the meaning of the teaching I herein spoke in brief. Why is that? Bodily form does not belong to you, it should quickly be eradicated and relinquished. In the same way feeling … perception … formations … consciousness does not belong to you, it should quickly be eradicated and relinquished. Having eradicated and relinquished it will be for your benefit and welfare, for your peace for a long time.

Đức Phật nói với vị sư: “Tốt lắm, tốt lắm, tỳ kheo, rằng con đã hiểu đầy đủ nghĩa giáo pháp thầy nói ngắn gọn. Sao lại như thế? Sắc thân hình hài không thuộc về con, nó cần nhanh chóng bị bứng gốc và buông bỏ. Tương tự, thọ... tưởng... hành... thức không thuộc về con, nó cần nhanh chóng bị bứng gốc và buông bỏ. Bứng gốc và buông bỏ nó, sẽ là lợi íchhạnh phúc cho con, cho con an lành lâu dài.

Then, on hearing what the Buddha had said, the mind of that monk was greatly delighted. He paid homage to the Buddha and withdrew. Practising alone in a quiet place with diligence he was established in being without negligence. Having practiced with diligence and being established in being without negligence he was able to reflect on that for the sake of what a clansman’s son goes forth, shaving off beard and hair and putting Dharma robes on the body, out of right faith going forth to homelessness … up to … he himself knew that there will be no receiving of further existence.’ Then that monk became an arahant, attaining liberation of the mind. (3)

Rồi thì, khi nghe Đức Phật nói xong, tâm của vị sư đó rất mực hoan hỷ. Vị sư đảnh lễ Đức Phật và lui ra. Thực hành đơn độc trong nơi vắng vẻ, với tinh tấn, vị sư an lập trong pháp này không biếng trễ. Thực hành với tinh tấn, và an lập trong pháp này không biếng trễ, vị sư chiêm nghiệm về những gì mà đứa con trai của gia tộc xuất gia, cạo râu tóc, mặc pháp y, tín tâm sống hạnh không nhà... tới khi... chính vị sư này biết rằng sẽ không còn nhận thân sau nào nữa.’ Rồi thì, vị sư đó trở thành một A La Hán, thành tụu giải thoát tâm.


Nguyên Giác

(1) Xem: http://thuvienhoasen.org/a14958/kho-bau-nha-thien

(2) Xem: http://www.tosuthien.com/kinh-sach/tham-thien-pho-thuyet/tham-thien-pho-thuyet-quyen-thuong/10-luc-can-kho-nhiep

(3) Xem: https://suttacentral.net/en/sa17

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 43717)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 42907)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 48879)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39611)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53658)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36707)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40694)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49620)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47164)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27519)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 25718)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 29773)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 26988)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 24575)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 21161)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23101)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 23730)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22671)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 29432)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20498)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 34029)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 24524)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 29859)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20093)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20299)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15042)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 23733)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
(Xem: 33923)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 23850)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29041)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 59871)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27445)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68488)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24399)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 26202)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 20639)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 19886)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27381)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46120)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 25405)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29089)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
(Xem: 187704)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
(Xem: 27190)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 30984)
Kinh Pháp Cú (Kinh Lời Vàng), The Path of Truth - Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu - Họa sĩ: Mr. P. Wickramanayaka (vẽ theo bản tiếng Anh mà HT Thích Minh Châu dịch) - Vi tính: Tâm Tịnh
(Xem: 32970)
Tích truyện Pháp Cú - Thiền viện Viên Chiếu - Nguyên tác: "Buddhist Legends", Eugène Watson Burlingame
(Xem: 23860)
Sau 45 năm thuyết pháp, những lời giảng daỵ của Đức Phật không những không bị quên lãng, thất lạc mà còn được lưu giữ, truyền bá mãi đến ngày nay...
(Xem: 25440)
Ta Bà là chốn tạm ở thôi Cửa không mau phải hồi đầu lại Hai sáu nguyện vương tiêu tai chướng Ba ngàn hoá Phật chứng lòng thành
(Xem: 26533)
Cuộc đối thoại đầy đạo vị hứng thú dĩ nhiên được truyền tụng khắp nơi trong giới Phật giáo cũng như ngoài nhân gian. Về sau, vào thế kỷ đầu sau Tây lịch, sợ để khẩu truyền lâu ngày
(Xem: 36409)
Ở phương Ðông cách đây hơn mười căn dà sa cõi Phậtmột thế giới tên là Tịnh Lưu Ly. Ðức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
(Xem: 27168)
Lúc Đức Phật Thích-ca chứng đắc, Chuyển bánh xe chánh pháp độ sanh, Kiều-trần-như được duyên lành, Năm anh em họ viên thành lý chân,
(Xem: 30205)
Phật Thùy Ban Niết Bàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh (Kinh Di Giáo) - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; HT. Thích Trí Quang dịch Việt
(Xem: 37100)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 23785)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Kỳ Thọ Cấp Cô Độc gần thành Xá Vệ, với đại chúng khất sĩ gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị. Hôm ấy vào giờ khất thực, Bụt mặc áo và ôm bát đi vào thành Xá Vệ.
(Xem: 36743)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
(Xem: 27455)
Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm Kinh - Năm trăm Danh Hiệu Phật và Bồ Tát Quán Thế Âm
(Xem: 28181)
Công Phu Khuya
(Xem: 24032)
Nói một cách vắn tắt, sự xuất hiện của Duy-ma-cật là xu hướng khẳng định vai trò tích cực của chúng đệ tử tại gia trong giáo pháp của Phật, về các mặt hành đạo cũng như hóa đạo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant