Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phẩm 7: Xá Lợi

03 Tháng Chín 201607:57(Xem: 5143)
Phẩm 7: Xá Lợi

KINH ĐẠI BI

Tam tạng pháp sư Na Liên Đề Da Xá, người nước Thiên-trúc, 
dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, 
vào thời Cao-Tề (Bắc-Tề, 550-577).
Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn,
tại Canada, năm 2016.

 
Kinh Đại Bi

 

 Phẩm 7
XÁ LỢI

 

Lúc bấy giờ đức Phật lại bảo tôn giả A Nan:

“Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có người thiện nam hoặc tín nữ nào, hoặc tại gia hoặc xuất gia, phát tâm cúng dường xá-lợi của Như Lai, dù chỉ nhỏ như hạt cải, mà chí thành cung kính, tôn trọng, khiêm cung cúng dường, thì Như Lai nói rằng, do căn lành này mà người đó sẽ đạt được đạo quả niết-bàn rốt ráo. Này A Nan! Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có người thiện nam hoặc tín nữ nào, phát khởi lòng kính tin, tạo lập tháp miếuhình tượng của Như Lai với lòng tin sâu xa, không chút nghi ngờ, thì Như Lai nói rằng, do căn lành này mà người đó sẽ đạt được đạo quả niết-bàn rốt ráo. Này A Nan! Hoặc có người hiện tại cúng dường Như Lai, hoặc có người sau khi Như Lai diệt độ sẽ cúng dường xá-lợi của Như Lai dù nhỏ như hạt cải, hoặc có người tạo lập tháp miếuhình tượng của Như Lai, hoặc có người phát khởi lòng tin và nhớ nghĩ đến công đức của Phật mà rải một bông hoa trên hư không để cúng dường, thì Như Lai nói rằng, do căn lành này mà người đó sẽ đạt được đạo quả niết-bàn rốt ráo. Này A Nan! Nếu lại có người thấy được thần thônguy lực của Phật mà rải một bông hoa trên không trung để cúng dường, người ấy còn có thể đạt được đạo quả niết-bàn, huống nữa là trong hiện tại thân cận thừa sự cúng dường Như Lai, và sau khi Như Lai diệt độ cúng dường xá-lợi của Như Lai. Này A Nan! Cảnh giới của chư Phật không thể nghĩ bàn, cho nên phước đức của người cúng dường cũng không thể nghĩ bàn. Này A Nan! Nếu có người nhớ nghĩ tới Phật mà phát tâm cúng dường, dù chỉ dùng một bông hoa rải lên không trung, Như Lai dùng Phật trí thấy biết phước báo của người ấy không thể nghĩ bàn, huống nữa là trong đời vị lai nếu có Phật tử phát khởi lòng kính tin sâu xa, nhớ nghĩ tới công đức của Phật mà mong cầu trí tuệ của Phật. Này A Nan, thầy hãy tin điều đó!”

Nghe Phật dạy như thế, tôn giả A Nan vô cùng vui mừng, liền bạch Phật rằng:

“Thật là hi hữu, bạch đức Thế Tôn! Bây giờ thật đúng lúc, cúi xin đức Thế Tôn dạy rõ về phước báo của người nhớ nghĩ tới Phật mà phát tâm cúng dường, dù chỉ dùng một bông hoa rải lên không trung. Chư vị tì-kheo nghe lời đức Thế Tôn dạy rồi thọ trì đọc tụng; do đó mà sinh tâm thương xót thế gian, đem lại lợi ích, an ổn cho trời người. Ở đời hiện tại cũng như vị lai, chúng sinh lại được nghe lời dạy của chư vị tì-kheo này, rất vui mừng, sinh lòng kính tin, thường gieo trồng căn lành. Họ nghĩ rằng: [Đức Thích Ca Mâu Niđấng Pháp Vương vô thượng, là bậc đại từ bi, thương xót thế gian, khuyên dạy chúng ta, khiến cho chúng ta phát tâm tinh tấn nhớ nghĩ tới Phật.]”

Tôn giả A Nan bạch xong, đức Phật bảo:

“Này A Nan! Thầy hãy lắng nghe và suy nghĩ chín chắn, Như Lai sẽ nói về phước báo ấy.”

Tôn giả A Nan bạch:

“Thưa vâng, bạch đức Thế Tôn! Chúng con đang lắng nghe.”

Đức Phật dạy tôn giả A Nan:

“Nếu có người nào nhớ nghĩ tới Phật, dù chỉ dùng một bông hoa rải lên không trung để cúng dường, do phước đức ấy mà người đó sẽ được phước báo không thể nói cho cùng; dù người đó, từ đời quá khứ cho đến ngày nay, lưu chuyển trong sinh tử, trải qua kiếp số dài lâu, không thể biết hết được; trong đời vị lai cũng vậy. Nếu có người đem tâm chí thành nhớ nghĩ tới công đức của Phật, dù chỉ dùng một bông hoa rải lên không trung để cúng dường, thì trong đời vị lai, người đó sẽ được làm Phạm Thiên Vương, Thích Thiên Vương, hoặc Chuyển Luân Thánh Vương, và phước báo của người ấy sẽ không cùng tận. Do căn lành và phước đức không có ngằn mé mà người đó chỉ có một hướng đi tới là đạo quả niết-bàn. Vì sao vậy? Này A Nan! Cúng dường vào ruộng phước chư Phật thì không phải là quả báo hữu vi có ngằn mé, cho nên Như Lai nói người đó chắc chắn sẽ chứng được niết-bàn rốt ráo. Này A Nan! Hoặc có người hiện tại cúng dường Như Lai, hoặc có người sau này cúng dường xá-lợi của Như Lai dù nhỏ như hạt cải, hoặc có người tạo lập tháp miếuhình tượng của Như Lai để cúng dường, hoặc có người do nhớ nghĩ tới Phật mà rải một bông hoa lên không trung để cúng dường, hoặc có người ngồi yên lặng trong nhà, do nhớ nghĩ tới Phật mà rải một bông hoa lên không trung để cúng dường, này A Nan, Như Lai nói những người này sẽ an trú niết-bàn; đó là niết-bàn bậc nhất, niết-bàn rốt ráo, niết-bàn tối thắng, niết-bàn vi diệu, niết-bàn thanh tịnh. Này A Nan! Vì lí do đó, trong các loại ruộng phước thì Phật là ruộng phước tối thắng, là vua của các ruộng phước. Vì sao vậy! Vì cúng dường vào ruộng phước chư Phật thì sẽ được phước báo không cùng tận; không phải là loại phước báo thế gian có thể cùng tận; cho nên, ruộng phước chư Phật là loại ruộng phước bậc nhất. Này A Nan! Chư Phật thuận theo chánh đạo, có thể làm ruộng phước rốt ráo, ruộng phước vô thượng. Những người cúng dường nơi ruộng phước chư Phật, chắc chắn sẽ tiến đến cảnh giới niết-bàn rốt ráo, niết-bàn bậc nhất. Này A Nan! Người rải hoa cúng dường có được công đức như thế, nếu lại có người chỉ nhớ nghĩ tới Phật và một lòng kính tin, Như Lai nói người này cũng sẽ tiến tới cảnh giới niết-bàn rốt ráo. Này A Nan! Không những loài người nhớ nghĩ tới Phật được công đức như thế, mà đến như loài súc sinh, nếu cũng biết nhớ nghĩ tới Phật, thì Như Lai nói rằng, loài súc sinh ấy cũng có căn lành và phước báo, và sẽ được đạo quả niết-bàn rốt ráo. Này A Nan! Thầy hãy quán xét, chư Phật làm ruộng phước cho chúng sinh, khiến cho chúng sinh sẽ được thần thônguy lực như thế. Vì vậy cho nên, này A Nan, thầy chớ nên đau buồn! Nếu có người thiện nam hoặc tín nữ nào, cho đến loài súc sinh hay các loài chúng sinh khác, phát khởi lòng tin đối với chư Phật, thì sẽ được thần thôngcông đức rộng lớn như thế, như vị cam lồ bậc nhất trong các vị cam lồ. Này A Nan! Thầy đã đem cả việc làmlời nói mà hầu hạ Như Lai với tâm từ hiếu, trước sau như một, luôn luôn an vui, không giận hờn, không oán trách. Này A Nan! Giả sử có người thiện nam hoặc tín nữ, trải qua trọn một kiếp hay ít hơn một kiếp, đem mọi thứ trân quí, cung kính cúng dường chư vị Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, và A-la-hán nhiều như mía, tre, gai, cỏ trong khắp ba ngàn đại thiên thế giới, này A Nan! Ý thầy thế nào? Phước đức của người thiện nam hoặc tín nữ đó có nhiều không?”

Tôn giả A Nan bạch:

“Bạch đức Thế Tôn! Phước đức của người thiện nam hoặc tín nữ đó rất nhiều.”

Đức Phật dạy:

“Này A Nan! Nếu lại có người, ở trước chư Phật, chỉ cần chắp tayxưng niệm danh hiệu, thì phước đức của người này, nếu so sánh với người trước, nhiều hơn gấp trăm lần, gấp ngàn lần, gấp trăm ngàn ức lần. Vì sao vậy? Này A Nan! Trong các loại ruộng phước thì chư Phật là ruộng phước tối thượng. Bởi vậy, cúng dường chư Phật sẽ thành tựu được công đức, thần thônguy lực lớn. Này A Nan! Vừa rồi là nói về phước đức cúng dường chư vị Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm và A-la-hán trong ba ngàn đại thiên thế giới; nếu lại có người thiện nam hoặc tín nữ, trải qua trọn một kiếp hay ít hơn một kiếp, đem mọi thứ xứng ý, cung kính cúng dường chư vị Phật Bích-chi nhiều như mía, tre, gai, cỏ trong khắp ba ngàn đại thiên thế giới; rồi sau khi chư vị Phật Bích-chi ấy diệt độ, lại có người thiện nam hoặc tín nữ xây tháp bảy báu, trọn đời dùng hương hoa, y phục, ngọa cụ, phướn lọng quí báu, chí thành cung kính cúng dường, này A Nan! Ý thầy thế nào? Phước đức của những người thiện nam, tín nữ đó có nhiều không?”

Tôn giả A Nan bạch:

“Bạch đức Thế Tôn! Phước đức của những người thiện nam, tín nữ đó rất nhiều.”

Đức Phật dạy:

“Này A Nan! Nếu lại có người, ở trước Phật, phát khởi lòng tin thanh tịnh, khéo suy nghĩhiểu rõ lời dạy của Phật mà nói như vầy: [Trí tuệ của chư Phật thật không thể nghĩ bàn!] Do căn lành của sự tin hiểu đó mà người này có được phước đức, nếu so sánh với người cúng dường Phật Bích-chi ở trước, thì nhiều hơn gấp trăm lần, gấp ngàn lần, gấp trăm ngàn ức lần. Vì sao vậy? Này A Nan! Chư Phật Thế Tônlòng từ vô lượng, lòng bi vô lượng, giới vô lượng, định vô lượng, tuệ vô lượng, giải thoát vô lượng, giải thoát tri kiến vô lượng, tu tập vô lượng, chứng đạt vô lượng. Này A Nan! Trí tuệ của chư Phật không thể nghĩ bàn, cảnh giới của chư Phật cũng không thể nghĩ bàn; nếu có người cúng dường bậc không thể nghĩ bàn thì sẽ được phước báo không thể nghĩ bàn. Này A Nan, thầy chớ nên lo buồn! Thầy sẽ được công đức, thần thônglợi ích lớn. Vì sao vậy? Này A Nan! Thầy đã đem việc làm từ hiếu, lời nói từ hiếu và ý nghĩ từ hiếu, cúng dường Như Lai trong hơn hai mươi năm qua; thầy thọ trì kho tàng pháp bảo của Như Lai; trong những người nghe nhiều học rộng thì thầy là người đứng đầu; trong những người có trí tuệ, biện tài, nói năng khéo léo, hỏi đáp rành mạch, thì thầy cũng là người đứng đầu; thầy có đức vô úy, có trí tuệ chân chính, chứng được đạo quả, giữ gìn Kinh, Luật, Luận; đối với bốn chúng, thầy thuyết pháp không biết mệt mỏi. Này A Nan! Sau khi Như Lai diệt độ, thầy cùng với đại đức Đại Ca Diếp sẽ là các vị đạotối thượng, làm các Phật sự lớn lao. Này A Nan, thầy chớ nên lo buồn! Thầy sẽ được công đức, thần thônglợi ích lớn.”
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1229)
Kinh này nói về cái chết, vô thường, mất mát… Kinh này không nói về vô ngã, nhưng nói rằng phải xa lìa “cái của tôi,”
(Xem: 986)
Bài kinh Kevaṭṭa-Sutta là một bài kinh dài giảng cho một người thế tục trẻ tuổi tên là Kevaṭṭa khi người này đến xin Đức Phật chỉ định ...
(Xem: 1263)
Phật từ tướng bạch hào Phóng quang khắp thế giới Hội thượng Phật Bồ Tát Tán thán Phật Tỳ Lô
(Xem: 1636)
Một thời, Thế Tôn trú ở Sāvatthī, tại Jetavana, khu vườn của ông Anāthapiṇḍika. Lúc bấy giờ, Tôn giả Girimānanda bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh.
(Xem: 1744)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc già phạm ở thành Vương xá, trong đỉnh Thứu phong, cùng chúng đại tỳ kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị đều đến tụ tập.
(Xem: 2032)
Tôi nghe như vầy: Một thời Đức Phật ở tại tịnh xá Cấp cô độc, vườn Kỳ-đà, gần thành Xá-vệ.
(Xem: 2041)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến. Chỉ có pháp hiện tại, Tuệ quán chính ở đây,
(Xem: 3734)
Thiền quán về Duyên khởi Tính không và giai đoạn hậu thiền với mục đích làm tăng trưởng những phẩm hạnh cao quý.
(Xem: 9099)
Nghi Lễ Hàng Ngày NS Thích Nữ Giới Hương biên soạn
(Xem: 30313)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 4412)
Tôi nghe như vầy. Một thời Đức Phật ở chùa Kỳ Viên thuộc thành Xá Vệ do Cấp Cô Độc phát tâm hiến cúng.
(Xem: 12159)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11496)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12587)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 9723)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 10627)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10386)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10594)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 16082)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 7006)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 5047)
Nói kinh Pháp cú Bắc truyền, được kết tập bằng tiếng Phạn, là để phân biệt với kinh Pháp cú Nam truyền, được kết tập bằng tiếng Pāli.
(Xem: 16396)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13736)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16406)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 11962)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 16128)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14259)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16105)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12617)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 11950)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11684)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15550)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 13929)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 11909)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 14865)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 13032)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14384)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20542)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13105)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10855)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 14231)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20154)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 13857)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 14644)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 11950)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15159)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 10952)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10397)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12351)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 14140)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 16692)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11482)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 11243)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 11935)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 51773)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15337)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13865)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11357)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13077)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12667)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant