Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Pháp Cú Bắc Truyền

23 Tháng Năm 201807:24(Xem: 5044)
Kinh Pháp Cú Bắc Truyền
KINH PHÁP CÚ BẮC TRUYỀN 

Thích Nguyên Hùng

Kinh Pháp Cú Bắc Truyền


Pháp cú thuộc thể loại gatha, tức là những bài chỉnh cú, bài kệ, bài thơ rất dễ ghi nhớ. Vì “gặp việc tùy nghi diễn nói”, nên văn phong rất mộc mạc, chất phác và thân thiết như những lời nói giản dị hàng ngày chuyện cơm ăn áo mặc.

Tổng quan

Nói kinh Pháp cú Bắc truyền, được kết tập bằng tiếng Phạn, là để phân biệt với kinh Pháp cú Nam truyền, được kết tập bằng tiếng Pāli. 

Pháp cú Bắc truyền khi truyền đến Trung Hoa, được dịch ra tiếng Hán,lúc đầu có nhiều tên gọi khác nhau, như Pháp cú tập kinh, Pháp cú tập,Pháp cú lục, Đàm-bát kinh, Đàm-bát kệ… Công bằng mà nói, Pháp cúkhông phải là một bộ kinh, mà là một bộ tuyển tập những bài kệ do Đức Phật nói ra, nằm rải rác trong các kinh A-hàm và những kinh khác, và cả những bài kệ riêng lẻ. Trong bài Tựa kinh Pháp cúcư sĩ Chiêm Khiêm viết: “Những bài kệ này do Thế Tôngặp việc tùy nghi diễn thuyết chứ không phải nói ra trong một lúc. Mỗi bài kệ đều có mở đầu, kết thúc và nằm rải rác trong các kinh (…) Về sau, Sa-môn của năm bộ phái tự sao chép những bài kệ 4 câu hoặc 6 câu trong các kinh, dựa trên nội dung từng bài kệ đó rồi đặt tên phẩm. So với mười hai phần giáo, nội dung của các bài kệ này quá ngắn gọn, không có tên kinh thỏa đáng, nên gọi chung là Pháp cú”. Đoạn văn ngắn này cho thấy những bài kệ Pháp cú đã được định hình và hoàn bị ngay khi Phật còn tại thế, được các Tỷ-kheo đọc thuộc lòng, trì tụng và trao truyền cho nhau. 

Pháp cú thuộc thể loại gatha, tức là những bài chỉnh cú, bài kệ, bài thơ rất dễ ghi nhớ. Vì “gặp việc tùy nghidiễn nói”, nên văn phong rất mộc mạc, chất phác và thân thiết như những lời nói giản dị hàng ngày chuyện cơm ăn áo mặc. Có thể nói, Pháp cú thuộc thể loại Thật lục, hay Ngôn hành lục, ghi chép sự thật xảy ra khi Phật còn tại thế, đó là những lời sách tấn, khích lệ và đôi khi có cả những lời quở trách các học trò; hay những định nghĩa về pháp yếu, về Niết-bàn… Do đó, Chi Khiêm cho rằng, “Người xuất gia ở Thiên Trúcnếu không học Pháp cú là đi sai trình tự tu họcPháp cú chính là nấc thang cần thiết giúp những ngườixuất gia tu tập thâm nhập vào pháp tạng sâu xa, khéo khai mở cho kẻ mông muội, biện rõ chánh tà, khuyến hóa người học trở về sống với chính mình. Có thể nói Pháp cú là nghĩa lý nhiệm mầu, cốt yếu tột bậc.” 

Lịch sử truyền dịch 

Hiện nay, Pháp cú Hán tạng có bốn bộ, Pāli tạng có một bộ, Tây Tạng có hai bộ, và gần đây người ta mới phát hiện một bản tiếng Phạn, thuộc ngôn ngữ vương quốc Kiền-đà-la (Gandhāra).1 

Tây nguyên năm 1892, tại vùng phụ cận Khostan, người ta phát hiện một văn bản cổ viết bằng mẫu tự Kharosti, một thứ phương ngữ Prakrit đặc trưng vùng Tây bắc Ấn. Các học giả cận đại đã xác định đó là thứ ngôn ngữ Gandhari, một loại ngôn ngữ được sử dụng rộng rãi hồi thế kỷ thứ II TL. 

Trong bài Tựa kinh Pháp cúChi Khiêm viết: “Pháp cú cũng có mấy bộ khác nhau, có bộ 900 bài kệ, có bộ 700 bài kệ, có bộ 500 bài kệ.” Lại viết: “Gần đây, Cát-thị lại truyền sang một bộ gồm 700 bài kệ.” Rất tiếc,đến nay chúng tôi vẫn chưa khảo cứu được Cát-thị là ai hay là bộ phái nào! Theo suy đoán của Ấn Thuận, thì căn cứ ngữ âm cát-thị có thể là bộ phái Ca-diếp-di, tức Ẩm quang bộ (Kāśyapīya). Đây là chi nhánh của bộ Phân biệt thuyết (Vibhajya-vādin) và có liên hệ với học phái Thuyết nhất thiết hữu bộ (Sarvāsti-vādin).2 

1- Pháp cú Hán dịch 

Như đã nói, Pháp cú Hán tạng có bốn bộ, đó là kinh Pháp cúkinh Pháp cú thí dụ, kinh Xuất diệu và Pháp tập yếu tụng, lần lượt mang số hiệu từ 210-213, tập 4, bộ Bản duyên, quyển hạ, thuộc Đại tạng kinh Đại chính tân tu. 

Kinh Pháp cú, ĐTK/ĐCTT, T04, n°. 210, Tôn giả Pháp Cứu (Dharmatrāta) tuyển soạn. Đây là bản Pháp cú Hán dịch đầu tiên, do Sa-môn Duy-kì-nan người Thiên Trúc dịch vào khoảng 225 Tây lịch, đời Ngô Tôn Quyền, với sự góp sức của cư sĩ Chi Khiêm (sau đây sẽ gọi là bản Ngô). Duy-kì-nan đến Đông Ngô vào năm Hoàng Vũ thứ 3, tức 224 Tây lịch, đem theo bản Pháp cú 500 kệ tụng, nhưng hai thầy trò chỉ dịch được 495 kệ tụng, 26 phẩm, bởi vì, “Trong khi dịch, có chỗ không hiểu nên để khuyết, không truyền, vì vậycó nhiều chỗ thiếu sót, nhiều đoạn không dịch.”3 Sau đó, có đồng đạo của Duy-kì-nan là Sa-môn Trúc Tương Diễm đến, Chi Khiêm đem hỏi, lại cùng nhau hợp dịch thành bản hiện hành, gồm 39 phẩm, 752 bài kệ

Theo khảo cứu của Ấn Thuận và nhiều nhà nghiên cứu Phật học khác, thì bản Pháp cú mà Duy-kì-nanmang theo, gồm 26 phẩm, 500 kệ tụng là văn bản của bộ phái Đồng diệp bộ, tức là Pháp cú Nam truyền, tiếng Pāli hiện nay, hoặc chí ít cũng có thể khẳng định đó là văn bản được truyền bởi Hóa địa bộ, hoặcPháp tạng bộ.4Còn bản Pháp cú hiện nay gồm 39 phẩm, trong đó có 13 phẩm mà Trúc Tương Diễm thêm vào sau, căn cứ vào tên phẩm mà suy luận thì có thể thấy đây là văn bản của bộ phái Thuyết nhất thiết hữu bộ, hoặc có quan hệ với Thuyết nhất thiết hữu bộ.5 

Kinh Pháp cú thí dụ, ĐTK/ĐCTT, T04, n°. 211, do Sa-môn Pháp CựPháp Vị dịch Phạn Hán đời nhà Tấn, khoảng 305 Tây lịch, gồm 4 quyển, 39 phẩm (sau đây sẽ gọi là bản Tấn). Bản này giải thích ý nghĩa và dẫn dắt những câu chuyện nói Pháp cú, nhưng không đầy đủ, chỉ có 197 kệ tụng. Có khả năng dịch giả đã lược dịch, hoặc sở hữu bản không đầy đủ, bởi số phẩm và nội dung kệ tụng tương đồng với bản Ngô, tức có khả năng cùng lưu xuất từ một bộ phái

- Kinh Xuất diệu, ĐTK/ĐCTT, T04, n°. 212, do Sa-môn Tăng-già-bạt-trừng (Saṃghabhūti), người Kế Tân, đọc bản Phạn, Trúc Phật Niệm dịch Hán, vào đời Diêu Tần, khoảng 398-399 Tây lịch, gồm 30 quyển, 34 phẩm (sau đây gọi là bản Tần). Xuất diệu hay Thí dụ đều được dịch nghĩa từ Phạn ngữ Avadāna. Trong bài tựa kinh Xuất diệu, Tăng Duệ viết: “Từ Xuất diệu, trước đây dịch là Thí dụ, tức là một trong 12 thể tài kinh điển.”6 

Hầu hết phần kệ tụng trong Xuất diệu đều giống Pháp cú mà Duy-kì-nan đã dịch vào đời Ngô, còn phầnnhân duyêncâu chuyện để giải thích kệ tụng thì tương đối giống Pháp cú thí dụ do Pháp Cự và Pháp vịdịch vào đời Tấn. 
Căn cứ luận Đại-tì-bà-sa, quyển 1, luận Câu-xá, quyển 2, Sử Phật giáo Ấn Độ, thì tác giả phần kệ tụngtrong kinh Xuất diệu là Tôn giả Pháp CứuTăng Duệ, trong bài tựa kinh Xuất diệu đã căn cứ vào thuyết này. Tuy nhiên, theo luận Đại trí độ, quyển 33, thì những kệ tụng pháp cú này “do các đệ tử tập hợp lại sau khi Phật nhập Niết-bàn.” Còn về phần văn trường hàng giải thích và dẫn chuyện thì không rõ tác giả

Kinh Pháp tập yếu tụng, ĐTK/ĐCTT, T04, n°. 213, Tôn giả Pháp Cứu tập, Sa-môn Thiên Tức Tai, ngườiThiên Trúc, thuộc Minh giáo, phụng chiếu dịch đời Tống Thái Tông, khoảng 990 Tây lịch (sau đây gọi là bản Tống). Pháp tập yếu tụng còn gọi là Pháp ưu-đà-na, thuần túy kệ tụng, gồm 4 quyển, 33 phẩm. Theo luận Đại tì-bà-sa, quyển 1, thì “Hết thảy kệ tụng udana đều là lời Phật thuyếtĐức Phật Thế Tôn đi giáo khắp nơi, gặp nhiều hạng hữu tìnhtùy nghi tuyên thuyết. Sau khi Đức Phật nhập diệtĐại đức Pháp Cứu lần lượt được nghe tụng tập, ngài bèn gom góp lại, đặt thành tên phẩm. Những bài tụng có ý nghĩa vô thườngthì gom thành một phẩm vô thườngcho đến những bài tụng liên hệ đến phạm chí thì gom thành một phẩmphạm chí.”7 Điều này cho thấy Pháp tập yếu tụng này được truyền bởi bộ phái Thuyết nhất thiết hữu bộ và do Đại đức Pháp Cứu sưu tập. 

Khảo cứu của Ấn Thuận chỉ ra rằng, kinh Pháp cú là do Tôn giả Pháp Cứu biên tập lại chứ không phải là người biên soạn đầu tiên. Và, trong bài Tựa kinh Pháp cúChi Khiêm có nói tới bản Pháp cú 900 bài kệ, thì tụng bản đó chắc chắn là của bộ phái Nhất thiết hữu bộ truyền. Tụng bản của bộ phái Thuyết nhất thiết hữu bộ là tụng bản tiếng Phạn và hiện nay vẫn còn.8 

2- Pháp cú Việt dịch 

Kinh Pháp cú được dịch sang tiếng Việt đầu tiên là Pháp cú Nam truyền. Bản dịch sớm nhất là của nhị vị cố Hòa thượng Thích Thiện Siêu, (năm 1959, dựa trên bản dịch Hán văn của Pháp sư Liễu Tham) và cốHòa thượng Thích Minh Châu, (năm 1969, dịch từ nguyên bản Pāli). Riêng bốn bản Pháp cú Hán truyền chỉ mới được dịch trong những năm cuối của thế kỷ XX. Cụ thể, cả bốn bản Pháp cú Hán truyền nói riêng cũng như toàn bộ Đại tạng kinh nói chung đã được Ban phiên dịch Hán tạng do cố Hòa thượng Thích Tịnh Hạnh chủ trương dịch sang tiếng Việt và in thành bộ Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinhấn hành năm 2000; trong đó, bốn bản kinh Pháp cú được in trong Bộ Bản duyên VII, trang 587. 

Bên cạnh đó, Hòa thượng Thích Trí Quang dịch kinh Pháp cú bản Ngô sang tản văn. Bản dịch này Hòa thượng có đối chiếu so sánh với Pháp cú Nam truyền, đồng thời đưa ra nhận địnhHòa thượng Thích Nhất Hạnh cũng dịch kinh Pháp cú bản Ngô thành Kết một tràng hoa theo lối tản văn, cư sĩ Nguyên Định viết thành thể kệ, hiện phổ biến trên trang nhà langmai.org. Kinh Pháp cú Bắc truyền lưu hành phổ biến hiện nay là bản dịch của thầy Thích Đồng Ngộ (dịch quyển thượng) và Thích Nguyên Hùng (dịch quyển hạ), do Nhà xuất bản Tôn Giáo ấn hành năm 2016. Bản này tương đối sát bản Hán mà rõ ràngtrong sáng và vần điệu trong tiếng Việt. 

Nhận xét 

Như đã nói, trong bài tựa bản dịch kinh Pháp cú đời Ngô, cư sĩ Chi Khiêm viết: “Pháp cú cũng có mấy bộ khác nhau, có bộ gồm 900 bài kệ, có bộ 700 bài kệ, có bộ 500 bài kệ”, điều này dường như cho thấy Pháp cú vốn có ba bản Quảng, Trung và Lược. Theo khảo cứu của Lã Trừng thì hiện còn tàn bản Phạn, Pāli và Tạng ngữ của cả ba bản Quảng, Trung và Lược ấy. 

Pháp cú Pāli có 26 phẩm, 423 bài kệ, tức là bản Lược. Pháp cú bản Ngô, Pháp cú thí dụ bản Tấn, gồm 39 phẩm, 752 bài kệ tụng, tức là bản Trung. Kinh Xuất diệu dịch đời nhà Tần (chủ yếu giải thích Pháp cú hoặc nội hàm kinh văn), kinh Pháp tập yếu tụng dịch đời Bắc Tống và kinh Pháp cú bản dịch Tạng ngữ gồm từ 900 đến 1500 kệ tụng, 33 phẩm, tức là bản Quảng. 

Trong ba bản ấy, thì bản Pāli và bản Ngô là cổ xưa nhất và có nhiều tương đồng nhất, dù bản Ngô có nhiều hơn bản Pāli đến 13 phẩm. Còn hai bản Tần và Tống, về mặt tên các phẩm thì đa phần giống bản Ngô, Tấn, nhưng thứ tự và nội dung thì thay đổi khá nhiều, điều này cho thấy đây là bản cải biên từ nguyên tác. 

Kinh Pháp cú Pāli không đề tên tác giảPháp cú Bắc truyền bản Ngô đề tác giả là Tôn giả Pháp Cứu biên soạn. Điều này cho thấy kinh Pháp cú trước sau có hiệu đính theo dòng lịch sử truyền thừa. Những bảnhiệu đính về sau nữa lại càng có nhiều thay đổi, không phải chỉ một lần, do đó tính chất của bản kinh cũng thay đổi ít nhiều. Chẳng hạn, ngay tên gọi, bản Lược và bản Trung thì gọi là Pháp cú, nhưng các bản Quảng thì gọi là Thí dụ, Xuất diệu… Khi thay đổi tên tác phẩm chắc hẳn các nhà truyền dịch đã có chủ ýthay đổi nội dung cho phù hợp với bộ phái của mình! 

Nhưng, tựu trung, dù hình thức tổ chức kinh Pháp cú rất đơn giản nhưng lại chứa đựng nội dung rất sâu sắc, phản ánh toàn bộ giáo lý trọng yếu của Phật giáo, những lời giáo huấn đạo đức rất thực tếPháp cúnhư kết nối những hạt châu về luân lý đạo đức và chân lý tuyệt đối thành một chuỗi ngọc giá trịHay nóinhư Thiền sư Nhất HạnhPháp cú là một tràng hoa được xâu kết bởi những đóa hoa xinh đẹp nhất trong vườn hoa Chánh pháp

Thích Nguyên Hùng
__________________
(1) Ấn ThuậnNguyên thủy Phật giáo thánh điển chi tập thành, trang 811. 
(2) Ấn Thuận, sách đã dẫn. 
(3) Xuất tam tạng ký tập, quyển 7, ĐCTT/ĐTK, T55. 
(4) Ấn Thuận, Hoa vũ hương vân, trang 216. 
(5) Ấn ThuậnNguyên thủy Phật giáo thánh điển chi tập thành, trang 813. 
(6) ĐTK/ĐCTT, T4, p.609b. 
(7) Đại tì-bà-sa luận, quyển 1, ĐTK/ĐCTT, T27. 
(8) Ấn ThuậnNguyên thủy Phật giáo thánh điển chi tập thành, trang 815.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12608)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11665)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11649)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12220)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12252)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19687)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11877)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11904)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16728)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12573)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 14946)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 15977)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12761)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12132)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11797)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11841)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13046)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16419)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13140)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12387)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11730)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19736)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11067)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11168)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10315)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11014)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10883)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 9950)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11654)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
(Xem: 11532)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11862)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11034)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11249)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11975)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12454)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10667)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17861)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11623)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9852)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 11129)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 13045)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 16414)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 11723)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10807)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 11746)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 28678)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12255)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 52684)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35367)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 15955)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 12100)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12182)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 11292)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17016)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14824)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 14524)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13744)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11626)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 14923)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 22747)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant