Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Trí Tuệ Khởi Sinh Mọi Hạnh Lành Bản Kinh Văn Về Hai Giai Đoạn Thiền Quán Duyên Khởi

25 Tháng Hai 202119:24(Xem: 3775)
Trí Tuệ Khởi Sinh Mọi Hạnh Lành Bản Kinh Văn Về Hai Giai Đoạn Thiền Quán Duyên Khởi

Trí Tuệ Khởi Sinh Mọi Hạnh Lành Bản Kinh Văn Về
Hai Giai Đoạn Thiền Quán Duyên Khởi


La Sơn Phúc Cường

Chuyển Kiếp Duyên Trần

 

Khunkhen Pema Karpo là một trong những vị tổ dòng Phật giáo Drukpa Kayu ở miền xứ Tuyết. Một trong những di sản đồ sộ mà ngài để lại là bộ luận Một Trăm Ngàn Từ. Đây là bộ luận bàn về nhiều nội dung rộng lớn như: vũ trụ học Phật giáo, luận lý, Lô-gic, mối quan hệ giữa Hiển giáoMật giáo v.v…Bộ luận này hiện vẫn là sách giáo trình trong nhiều tự viện và trường học Phật giáo hệ Tạng truyền. Một trong những hậu thân của tổ Khunkhen Pema Karpo là ngài Ngawang Namgyal Rinpoche đã thành lập nên vương quốc Bhutan, thiết lập hệ thống tu học Phật giáo tại đây. Bộ luận Một Trăm Ngàn Từ từ thời ngài Ngawang Namgyal Rinpoche thế kỷ thứ 17 tới nay, vẫn là sách giáo trình tại các tự viện và trường học Phật giáo, đồng thờichỉ dẫn cho sự hành thiền thường thật và nhập thất dài hạn cho các hành giả Phật giáo tại vương quốc Bhutan. (1) Bài viết này chỉ lược một đề mục trong bộ luận giới thiệu thiền quán về Duyên khởi để nuôi dưỡng từ bitrí tuệ Tính không.

Đề mục này gồm hai phần, thiền quán về Duyên khởi Tính không và giai đoạn hậu thiền với mục đích làm tăng trưởng những phẩm hạnh cao quý.

Thiền quán về Duyên Khởi Tính Không

Ở nơi thâm sơn tràn đầy hỷ lạc, rời xa chốn thành thị đầy xao nhãng, bỏ lại những nguồn thị phi, tham ái,tránh năm chướng ngại và mười bất thiện, an tọa trên tọa cụ trong tư thế liên hoa. Hai tay dưới rốn trong ấn thiền định, lưng thẳng, vai mở, cằm hơi nghiêng phía cổ, lưỡi chạm hàm trên, mắt nhìn thẳng đầu sống mũi, trong tư thế của đức Tỳ Lô Giá Na. Thở ra một hơi nhẹ và dài, rồi hít thở vào một cách tự nhiên.

Tiếp tới khởi dòng tâm nguyện như sau: “Vì lợi ích giải thoát cho tất thảy chúng sinh, nguyện con viên mãn Bồ đề tâm tối thượng.” Sau đó tiếp tục thiền quán phía trước trên đỉnh đầu là đức Phật Thích Ca. Sắc thân ngài rực rỡ ánh vàng với ba mươi hai tướng hảo và 80 vẻ đẹp tùy hình. Tay ngài trong thế ân xúc địa, ngài đắp Y vàng rực rỡkết già trên bảo tòa hoa sen. Tiếp tới hãy nhất tâm và tha thiết cầu nguyện tới các bậc tổ dòng truyền thừa

Tiếp tới an trụ trong trạng thái tâm không còn vọng tưởng về quá  khứ (ví như: Đừng để tâm hiện khởi các tư tưởng như trước đây mình đã nỗ lực thực hành nên bây giờ được ân hưởng trạng thái tốt lành này, rồi thì điều  này, điều kia từng diễn ra v.v….), đừng hướng tới tương lai (ví như: giờ đầy mình đang nỗ lực thực hành pháp bảo thiêng liêng này, trong tương lai mình sẽ được quả ngọt này kia v.v…). Và cũng đừng để tâm tư duy hay phân tích mọi hiện tướng trước mặt và trong tâm (như thứ này là lợi ích, thứ kia là xấu ác, thứ này là đúng đắn, thứ kia là lầm sai.” Đừng để tâm bị chi phối bởi những định kiến như: “Thứ này phải thế này, điều này phải thế kia!” Đừng đơn giản bị quan kiến hư vô phủ định sự tồn tại của mọi sắc tướng chi phối: “Ồ, mọi thứ đâu có gì, chỉ là mộng huyễn mà thôi!” và cũng đừng giả trang thiền tướng, hư vọng về Tính không hay đặt danh, khái niệm cho tính không bằng các tư tưởng: “Ồ, đây chính là trí tuệ Tính không. Đây chính là tâm chân thật!”

Nếu như thế thì hành giả thiền quán ra sao? Nếu không đặt danh, khái niệm hóa mọi đối tượng, nếu không định tâm nơi một hình sắc? Hãy buông xả mọi định kiến, tư tưởng và chỉ đơn giản để tâm an trụ trong cảnh giới bình đẳngvô niệm. Tổ Tsangpa Gyare đã dạy: “Tâm, không xáo động, là an nhiên. Nước, không khuấy động, là tinh khiết.”(2) Tổ Saraha đã dạy: Hãy để tâm thư thái, chẳng có gì cần thêm bớt, chẳng có gì cần làm cho sạch trong.

phương diện các sắc tướng, chúng hiện khởi và vẫn đang tồn tại. Nhưng vì tồn tại do duyên giả hợp nên khi ta không thể truy tìm được tự tính cố hữu của chúng. Chúng tới từ hư không và tan biến thành hư không. Có một hành giả đang lắng nghe, suy tư chân lý nhưng cũng chẳng thể tìm được tự tính cố hữu của hành giả này. Ở phương diện thực hành, người thực hành hãy cứ để tâm tĩnh tại và tỉnh giác về mọi sắc tướng đang hiện khởi và vận hành. Miễn là biết tỉnh giác về chúng, thì chúng sẽ luôn được tự do trong bản chất vốn có của mình.Không có sự tách rời giữa đối tượng tỉnh giác và  người tỉnh thức; đối tượng và chủ thể là bất khả phân. Đó là sự hợp nhất bất nhị của tỉnh thứctính không.

Quá cứng nhắc nếu cố ép mình vào chính niệm và sẽ chỉ làm các dòng tư tưởng mỗi lúc một mạnh mẽ hơn. Nhưng nếu buông lung, người thực hành sẽ bị sự hấp dẫn các giác quan làm lạc lối. Bởi vậy phải cột phàm tâm bằng sự an địnhtỉnh giác, khi ấy những phân biệt nhị nguyên tốt hay xấu, thiện hay ác, Niết bàn hay luân hồi sẽ không còn nền tảng kiến cố và dần tan biến vào hư không. Đây là trạng thái không thể dùng ngôn từ để mô tả mà mỗi hành giả cần phải tự mình trực tiếp chứng nghiệm.

Bản chất tâm chân thật của chúng ta không giống như trong tư duy luôn định hình các khái niệm, tri thức, định kiến phân biệt, mà là một thực tại rộng lớn không phụ thuộc vào không gian, vị trí hay bất kỳ đối tượng cụ thể nào. Nó là một tâm tỉnh thức rộng mở tới vô cùng, hiện diện ở khắp mọi nơi nhưng không phụ thuộc vào một nơi chốn cố định. Nó được ví như bầu trời rộng lớn, vốn sẵn có và thấm đẫm nơi thân, khẩu và ý của ta, thân thuộc tới đến nỗi chúng ta không bao giờ ngừng đặt câu hỏi về nó hay mong muốn nhận biết về nó. Bởi vì bản tâm chân thật hiện diện ở khắp mọi ngõ ngách trong đời sống của chúng ta như không khí ta đang hít thở, nên chúng ta vẫn luôn nghe thấy, chạm thấy và cảm thấy nó ở mọi nơi, mọi lúc. . Hình ảnh tâm bản lai được ví như bầu trời rộng lớn không bờ mé và các đại dương vô tận, các kinh văn luôn có lời kệ cầu nguyện tới vô lượng vô tận, mặc dù tâm bản lai rộng lớn hơn vô cùng so với bầu trời và tất cả đại dương cộng lại.

Giai đoạn hậu Thiền: viên mãn công hạnh giải thoát

Nếu như khi đang trong trạng thái hành thiền, tâm chưa thể tĩnh tại dài lâu, mà đôi khi lại xao nhãng, hãy tức thì nhận ra và thư giãn, không phản ứng hay ngụy tạo. dòng tâm khuấy động sẽ được an tĩnh ngay tại nơi chúng đang hiện diện, hòa nhập làm một, như nước rót vào nước. Hãy cứ để chúng như vậy, đừng phản ứng hay chối bỏ các dòng tâm phiền não dữ dội khi chúng hiện khởi. Đừng để chúng chi phối cũng đừng cố tìm cách đối trị chúng. Chúng ta chỉ cần nhận ra chúng đang hiện khởi và vận hành và thư giãn nơi chúng. Đây chỉ là cách các dòng phiền não tự hiện khởi và tan biến vào hư không.

Tổ Pagmodrupa đã dạy: “Ngay cả khi các tư tưởng hiện khởi, hãy đừng sợ hãi chúng. Bởi vì chúng là bản chất tự nhiên từ tâm bản nhiên thuần tịnh, chúng tới, rồi đi, tự nhiên không ngăn ngại, giống như mặt trời mọc rồi lặn.”(3)

Tổ Milarepa đã viết: “Khi đang an trụ trong bản tâm, các dòng tư tưởng hiện khởi chính là sự hiển bày diệu kỳ của dòng tâm.”

Trong Mật điển Đại Nhật Như Lai (Mahavairocana) có dạy: “Khi an trụ trong vô niệm, bầu trời quang minh rực rỡ sẽ hiện khởi”. Trong Sambhuti viết: “Tự các dòng tư tưởng tịnh hóa các dòng tư tưởng.”(4)

Như vậy, trong sự hành trì này, coi các dòng tư tưởng hiện khởi là chất liệu của con đường, trước hết người thực hành học cách tỉnh giác trước mọi hiện khởi trong tâm. Tiếp tới, duy trì và phát triển năng lực của sự tỉnh giác. Rèn luyện để không phản ứng  hay bám chấp mà biết hòa hợp, để cho mọi hiện tướng tự hiện khởi và tự do như chúng vốn đang là. Phương pháp hành thiền này được gọi là hợp nhất Sắc tướng và Tính không hay Chân không Diệu hữu.

Đức Saraha đã dạy: “Ở phía trước, phía sau và khắp thảy mười phương, mọi sắc tướng đều là hóa hiện của chân không. Khi hòa nhập với bản tâm tối thượng, không còn phải nỗ lực, không phải tìm cầu. Mọi lời trì tụng, mọi pháp hành thiền, tất thảy luận điển cũng chỉ nhằm một pháp vị này.”

Khi đã thể nhập bản chất Chân không Diệu hữu của vạn pháp, luân hồiniết bàn, tư tưởngtính không, phiền nãotrí tuệ, tất cả đều hợp nhất trong một bản thể  trong sáng, rực rỡ và rộng lớn vô bờ mé. Tiếp tới có thể lặng lẽ đứng dạy. Một khi tâm thức đã hòa nhập bản chất Tính không, hãy thực hành các thiện hạnh của thân, khẩu và ý càng nhiều càng tốt. Nếu trí tuệ Tính không không làm khởi phát và tăng trưởng từ bi tâm, sự nhẫn nại cùng tinh tiến thì cách thực hành đó không được coi là con đường đạo chân chính. Bởi vậy tâm từ, tâm bi và tâm Bồ đề cần phải được rèn luyện đồng thời và hợp nhất khi hành thiền về trí tuệ Tính không. Trong khi tâm thức đang an trụ trong bản chất trí tuệ Tính không, hãy khởi dòng tâm như sau: “Mong nguyện cho tất thảy chúng sinh có được niềm an lạc đích thực. Niềm an lạc đích thực ở đây có nghĩa là sự thành tựu tới quả Bồ đề viên tròn.”

Hãy để từ bi tràn ngập khắp dòng tâmkhởi tâm nguyện như sau: “Mong nguyện hết thảy chúng sinh tích lũy viên mãn nhị tư tương, để viên mãn quả Bồ đề tâm tối thượng.”

Tiếp tới hãy khởi dòng tâm từ bi như sau: Mong nguyện tất thảy chúng sinh được tự do khỏi những khổ đau khôn cùng của ba cõi tử sinh.” Và “Mong nguyện họ biết tận trừ những nhân của luân  hồi, là những phiền nãotri kiến lầm sai.”

Tiếp tới hãy thiền quán những tia sáng rực rỡ theo hơi thở từ mũi phải của mình tuôn tràn tới mũi phải của tất thảy chúng sinh, hãy khởi dòng tư tưởng rằng tất cả khó khăn, chướng ngại của chúng sinh sẽ theo ánh sáng trở lại mũi phải của mình và nguyện: “Xin nhận mọi khó khăn, chướng ngại của chúng sinh và mong khổ đau của họ được tận trừ.” Tiếp tới hãy gửi tất cả những niềm an lạc theo hơi thở từ mũi trái trong hình thức ánh sáng rực rỡ lan tỏa tới tất thảy chúng sinh. Khởi dòng tư tưởng rằng: “Mình đang trao tặng mọi niềm an vui tới cho chúng sinh và họ đang thực sự được ân hưởng niềm an vui đó.” Khi biết thiền quán mình đang nhận thay những khó khăn, chướng ngại của chúng sinh, thực chất có nghĩa bạn đang ở trạng thái tâm hỷ lạc to lớn. Nếu người thực hành có thể viên mãn được tâm nguyện này, có nghĩa họ đang rèn luyện một cách trực tiếp nhất Bồ Đề tâm cao quý.

Sau khi thiền quán như vậy, hãy khởi nghĩ dòng tâm như sau: “Nương năng lực pháp thiền quán này, cùng tất thảy công đức tích lũy được, xin nguyện cho con và tất thảy hữu tình cùng thoát khởi bể khổ luân hồi và đạt tới quả vị Phật rốt ráo.”

Bản kinh văn này Những Khai thị tâm yếu về các giai tầng thiền quánDuyên Khởi được trước tác bởi ngài Khunkhen Pema Karpo, dựa theo các pháp bảo của thày tổ mình là ngài Pagmodrupa. Mong rằng những lời giáo pháp này được trải rộng, mang lại lợi ích giải thoát cho hữu tình.

  1. Chương trình tu học tại các tự viên Bhutan, Tạp chí nghiên cứu Phật học, tháng 07, 2020.
  2. i.e., Tsangpa Gyare Yeshe Dorje (gtsang pa rgya ras ye shes rdo rje), 1161–1211
  3. i.e., Pagmodrupa Dorje Gyalpo (phag mo gru pa rdo rje rgyal po), 1110–1170
  4. i.e., Mahāvairocanābhisabodhi-sūtra

Nguồn: Trích từ tuyển tập Pratyekabuddhayana, soạn giả Kyabgön Phakchok Rinpoche giảng về Chín thừa cao quý (Nine Yanas), Lotsawa House, 2016.c
(Tạp chí nghiên cứu Phật học số 1-20021)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 43844)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 42986)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 48963)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39766)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53745)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36778)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40751)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49666)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47241)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27646)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 25791)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 29837)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27083)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 24661)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 21238)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23171)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 23838)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22748)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 29519)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20579)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 34111)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 24592)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 29941)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20163)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20361)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15093)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 23812)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
(Xem: 34013)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 23945)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29121)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60039)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27539)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68635)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24467)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 26299)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 20735)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 19988)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27481)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46279)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 25502)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29174)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
(Xem: 188448)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
(Xem: 27326)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 31065)
Kinh Pháp Cú (Kinh Lời Vàng), The Path of Truth - Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu - Họa sĩ: Mr. P. Wickramanayaka (vẽ theo bản tiếng Anh mà HT Thích Minh Châu dịch) - Vi tính: Tâm Tịnh
(Xem: 33074)
Tích truyện Pháp Cú - Thiền viện Viên Chiếu - Nguyên tác: "Buddhist Legends", Eugène Watson Burlingame
(Xem: 23937)
Sau 45 năm thuyết pháp, những lời giảng daỵ của Đức Phật không những không bị quên lãng, thất lạc mà còn được lưu giữ, truyền bá mãi đến ngày nay...
(Xem: 25525)
Ta Bà là chốn tạm ở thôi Cửa không mau phải hồi đầu lại Hai sáu nguyện vương tiêu tai chướng Ba ngàn hoá Phật chứng lòng thành
(Xem: 26600)
Cuộc đối thoại đầy đạo vị hứng thú dĩ nhiên được truyền tụng khắp nơi trong giới Phật giáo cũng như ngoài nhân gian. Về sau, vào thế kỷ đầu sau Tây lịch, sợ để khẩu truyền lâu ngày
(Xem: 36530)
Ở phương Ðông cách đây hơn mười căn dà sa cõi Phậtmột thế giới tên là Tịnh Lưu Ly. Ðức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
(Xem: 27256)
Lúc Đức Phật Thích-ca chứng đắc, Chuyển bánh xe chánh pháp độ sanh, Kiều-trần-như được duyên lành, Năm anh em họ viên thành lý chân,
(Xem: 30308)
Phật Thùy Ban Niết Bàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh (Kinh Di Giáo) - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; HT. Thích Trí Quang dịch Việt
(Xem: 37206)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 23841)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Kỳ Thọ Cấp Cô Độc gần thành Xá Vệ, với đại chúng khất sĩ gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị. Hôm ấy vào giờ khất thực, Bụt mặc áo và ôm bát đi vào thành Xá Vệ.
(Xem: 36858)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
(Xem: 27543)
Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm Kinh - Năm trăm Danh Hiệu Phật và Bồ Tát Quán Thế Âm
(Xem: 28280)
Công Phu Khuya
(Xem: 24116)
Nói một cách vắn tắt, sự xuất hiện của Duy-ma-cật là xu hướng khẳng định vai trò tích cực của chúng đệ tử tại gia trong giáo pháp của Phật, về các mặt hành đạo cũng như hóa đạo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant