Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Công Đức Tắm Tượng

27 Tháng Năm 202215:00(Xem: 1815)
Kinh Công Đức Tắm Tượng

Kinh Công Đức Tắm Tượng [1]

Nước Đại Đường, Sa Môn Thích Nghĩa Tịnh  dịch.
Việt dịch: Quảng Minh.

 
abcd

Tôi nghe như vầy:  Một thời đức Bạc già phạm ở thành Vương xá, trong đỉnh Thứu phong, cùng chúng đại tỳ kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị đều đến tụ tập.  Lại có vô lượng vô biên chúng đại bồ tát, tám bộ thiên long, thảy đều đến tụ tập.
 
Bấy giờ bồ tát Thanh Tịnh Tuệ ngồi ở trong đại chúng, vì sự thôi thúc bởi lòng thương nghĩ các loài hữu tình, khởi lên suy nghĩ:  Chư Phật Như lai vì nhân duyên gì có được sắc thân thanh tịnh, tướng tốt đầy đủ ?  Lại khởi ý nghĩ:  Các loại chúng sanh được gặp Như lai, thân cận cúng dường thì thu hoạch phước báo vô lượng vô biên, còn bao nhiêu chúng sanh khác, sinh sau Như Lai nhập niết bàn thì nên cúng dường cách nào, tu tập công đức gì để thành tựu thiện căn, mau chứng vô thượng bồ đề ?  Khởi lên ý nghĩ như vậy xong, bồ tát Thanh Tịnh Tuệ tức thì từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch bày vai phải, đảnh lễ dưới chân đức Phật, quì thẳng chắp tay, thưa với đức Phật:  Bạch đức Thế tôn, con muốn thưa hỏi, cúi xin Thế tôn nghe nhận.  Đức Phật dạy:  Thiện nam tử, theo chỗ hỏi của ông, Như lai sẽ vì ông mà nói. 
 
Bấy giờ bồ tát Thanh Tịnh Tuệ thưa với đức Phật:  Chư Phật Như laiỨng cúng Chánh đẳng giác do nhân duyên gì mà được sắc thân thanh tịnh, tướng tốt đầy đủ ?  Và các chúng sanh được gặp Như lai, thân cận cúng dường thì thu hoạch phước báo vô lượng vô biên, còn bao nhiêu chúng sanh khác, sinh sau Như Lai nhập niết bàn thì nên cúng dường cách nào, tu tập công đức gì để thành tựu thiện căn, mau chứng vô thượng bồ đề ?
 
Bấy giờ đức Thế tôn dạy bồ tát Thanh Tịnh Tuệ:  Tốt lắm, ông có thể vì chúng sanh ở đời vị lai mà thưa hỏi Như lai như thế, nay ông hãy lắng nghe, khéo suy nghĩ và ghi nhớ, như lời dạy mà tu hànhNhư lai sẽ vì ông phân biệt giảng nói.  Bồ tát Thanh Tịnh Tuệ thưa:  Dạ vâng, đức Thế tôn, chúng con ưa vui muốn nghe. 
 
Đức Phật dạy bồ tát Thanh Tịnh Tuệ:  Thiện nam tử, ông nên biết sắc thân thanh tịnh của chư Phật Như lai là do khéo léo làm cho thanh tịnh bằng sự bố thítrì giớinhẫn nhụctinh tiếntĩnh lựtrí tuệtừ bi hỷ xảgiải thoátgiải thoát tri kiến, lực, vô úy, tất cả Phật phápnhất thiết chủng trí.  Nếu đối với chư Phật Như lai như thế mà dùng tâm thanh tịnh để cúng dường các thứ hương, hoa, anh lạc, phan cái, tọa cụ, trải ra trước Phật, hoặc đối trước tôn tượng chư Phật Như Lai mà trang hoàng nghiêm sức, dùng nước thơm thượng diệu mà tắm rửa tôn tượngđốt hương xông khắp, vận tâm pháp giới, lại lấy món ăn thức uống, trống nhạc, đàn ca (để cúng dường), ngâm khen công đức không cùng của Như lai, rồi phát nguyện thù thắnghồi hướng biển cả vô thượng nhất thiết trí, thì sẽ được vô lượng vô biên công đức, thẳng đến bồ đề không có gián đoạn.  Tại sao như vậy ?  Vì phước đức và trí tuệ của Như lai thì không thể nghĩ bàn, không có số lượng, không ai sánh bằng.
 
Thiện nam tử, chư Phật Thế tôn có đủ ba thân, đó là pháp thânthọ dụng thân và hóa thân.  Sau khi Như lai nhập niết bàn, nếu ai muốn cúng dường ba thân này thì nên cúng dường xá lợi.  Song xá lợi có hai loại: một là thân cốt xá lợi, hai là pháp tụng xá lợi
 
          Đức Phật liền nói một pháp tụng:
 
                   Các pháp theo duyên khởi
                   Như lai nói là nhân
                   Pháp kia nhân duyên hết
                   Là đại sa môn nói.
 
          Nếu người nam, người nữ, năm chúng tỳ kheo, ai muốn tạo tượng Phật mà không đủ khả năng, dẫu chỉ tạo một tượng Phật nhỏ như hạt lúa tẻ, tạo một ngôi tháp: hình như trái táo, cột trụ như cây kim, tán cái như mảnh trấu, rồi an trí trong tháp ấy một xá lợi nhỏ như hạt cải hay một pháp tụng được chép ra; những việc quí báu kỳ đặc như thế để làm sự cúng dường theo khả năng của mình, bằng lòng thành trân trọng thì không khác với sự cúng dường hiện thân của Như lai.
 
          Thiện nam tử, nếu có chúng sanh có thể làm ra sự cúng dường thù thắng như thế thì thành tựu mười lăm công đức thù thắng để tự trang nghiêm: 1. Luôn biết hổ thẹn; 2. Phát khởi tín tâm trong sạch; 3. Tâm tánh chất trực; 4. Gần gũi bạn lành; 5. Vào trí tuệ vô lậu; 6. Thường thấy chư Phật; 7. Thường nắm giữ chánh pháp; 8. Khả năng hành đúng lời dạy; 9. Tùy ý sinh về quốc độ thanh tịnh của Phật; 10. Nếu sinh trong  loài người thì sinh vào nhà dòng dõi tôn quí, được mọi người kính trọng và sinh lòng hoan hỷ; 11. Nếu sinh trong loài người thì tự nhiên nghĩ nhớ đến Phật; 12. Chúng ma quân không thể tổn hại gây rối; 13. Trong thời mạt pháp, có khả năng hộ trì chánh pháp; 14. Được mười phương chư Phật gia hộ; 15. Mau chóng thành tựu năm phần pháp thân.
 
Bấy giờ đức Thế tôn liền nói kệ tụng:
 
          Sau Như lai diệt độ
          Người cúng dường xá lợi
          Hoặc tạo các tháp miếu
          Và hình tượng Như lai
          Ở trước tháp tượng kia
          Quét tô mạn đà la
          Đem các thứ hương hoa
          Tung rải trên tháp tượng
          Lấy nước sạch diệu hương
          Mà rưới tắm thân tượng
          Các ẩm thực thượng vị
          Giữ sạch để cúng dường
          Khen ngợi công đức Phật
          Vô lượng khó nghĩ bàn
          Phương tiện tríthần thông
          Mau đến bờ bên kia
          Có được thân kim cương
          Đủ ba mươi hai tướng
          Và tám mươi vẻ đẹp
          Cứu vớt các chúng sanh.
 
Bấy giờ bồ tát Thanh Tịnh Tuệ nghe kệ tụng này rồi, thưa với đức PhậtChúng sanh đời vị lai tắm tượng như thế nào ? Đức Phật dạy bồ tát Thanh Tịnh Tuệ: Đối với Như lai các ông nên khởi chánh niệm ở nơi tâm trí, chớ dính mắc hai bên, mê trong cái không cái có; đối với các thiện phẩm thì khát ngưỡng không chán; đối với ba giải thoát môn thì khéo tu trí tuệ, thường cầu xuất ly, chớ trú ở sinh tử; đối với các chúng sanh thì khởi đại từ bi, nguyện mau chóng thành tựu ba loại thân.
 
          Thiện nam tửNhư lai đã vì các ông mà nói bốn chân đế, mười hai duyên sinhsáu ba la mật, nay lại vì các ông và các quốc vương, vương tử, đại thần, hoàng hậu, cung phithiên longnhân loại, quỉ loại mà nói phương pháp tắm tượng, là cách cúng dường đệ nhất trong các cách cúng dường, hơn cả việc bố thí vô số bảy báu.
 
     Nếu muốn tắm tượng, nên lấy ngưu đầu chiên đànbạch đàn, tử đàn, trầm thủy, huân lục, uất kim hương, long não hương, linh lăng, hoắc hương v.v…, ở trên tảng đá sạch mài hương liệu làm thành hương bột để pha chế nước thơm, và nước thơm phải đựng trong bình sạch.  Chọn một nơi thanh tịnh, khoảng đất tốt đẹp để làm đàn tràng, hoặc vuông hoặc tròn, lớn nhỏ xứng hợp, trên đàn đặt một bệ tắm, ở giữa bệ tôn trí tượng Phật.  Khi tắm tượng thì dùng nước ấm thơm tắm gội cho tượng trong sáng, sau đó lại rưới tắm tượng bằng nước sạch.  Nước dùng tắm tượng phải được lọc cho sạch sẽ, chớ làm tổn hại vi trùng.  Dùng hai ngón tay thấm lấy vài giọt nước vừa tắm tượng rồi chấm lên đỉnh đầu của mình, nước đó gọi là nước cát tường.  Nước tắm tượng được rưới trên đất sạch, chớ có giẫm chân lên nơi đó.  Dùng khăn mềm mại lau tượng cho sạch nước, xông đốt các danh hương thơm ngát quanh tượng, sau đó an trí tượng về chỗ cũ.
 
          Thiện nam tử, nhờ việc tắm tượng Phật như thế mà những người tắm tượng ở trong đại chúng trời người, hiện đời hưởng dụng sự giàu cóan lạc, không bịnh, sống lâu, chỗ nguyện cầu được toại ýquyến thuộc bạn bè thảy đều an ổn, từ giã tám nạn, ra khỏi gốc khổ, không thọ thân nữ, mau thành chánh giác.
 
          Sau khi an trí tượng Phật về chỗ cũ, nên đối trước tượng xông đốt hương thơm, chắp tay thành kính, tụng bài kệ sau:
 
                   Con nay tắm gội chư Như lai
                   Công đức trang nghiêm tịnh trí đầy
                   Chúng sanh năm trược rời dơ bẩn
                   Mau chứng Như lai tịnh pháp thân.
                    Giới, định, tuệ, giải, tri kiến hương
                   Khắp mười phương cõi thường thơm phức
                   Nguyện khói hương này cũng như vậy
                   Vô lượng vô biên làm việc Phật.
                   Nguyện ngưng dứt ba đường khổ nạn
                   Nóng bức trừ, thỏa thích thanh lương
                   Cùng phát tâm vô thượng bồ đề
                   Thoát sông ái vượt lên bờ kia.
 
          Khi đức Phật tuyên thuyết kinh này xong thì trong đại chúng có vô lượng vô biên bồ tát chứng đắc vô cấu tam muộivô lượng chư thiên được bất thoái trí, các chúng thanh văn phát nguyện cầu quả vị Phật, tám muôn bốn ngàn chúng sanh đều phát tâm vô thượng bồ đề
 
Bấy giờ bồ tát Thanh Tịnh Tuệ thưa với đức Phật:  Bạch đức Thế tônmay mắn thay bậc Thầy cao cả đã thương xót chúng con mà chỉ dạy phương pháp tắm tượng, từ nay con sẽ khuyến hóa quốc vương, đại thần, những người có tín tâm ưa thích tạo công đức, rằng hằng ngày có thể tắm gội tôn tượng thì có được lợi ích lớn lao.  Đại chúng ai cũng hoan hỷ, đem đỉnh đầu mà tiếp nhận và phụng hành.

 

 

Phật đản 2634, mồng 8 tháng tư năm Canh Dần

21.05.2010



[1] Kinh tập bộ, Đại tạng kinh số 698: Dục tượng công đức kinh

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12703)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11754)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11739)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12330)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12389)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19827)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11965)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11994)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16889)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12677)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15065)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16126)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12885)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12243)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11920)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11930)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13155)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16511)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13236)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12500)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11825)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19864)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11165)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11263)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10404)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11101)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10973)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10040)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11758)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
(Xem: 11638)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11965)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11117)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11350)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12069)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12564)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10769)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17987)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11729)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9951)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 11241)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 13176)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 16580)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 11854)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10905)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 11845)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 28811)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12381)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 53063)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35491)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 16091)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 12188)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12319)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 11405)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17197)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14981)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 14617)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13844)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11711)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15064)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 22883)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant