Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Quyển 1 đến 15

17 Tháng Chín 201417:07(Xem: 8182)
Quyển 1 đến 15

 

Đại Tạng No. 1451

CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ

- Mùla-Sarvàstivàda -

TỲ-NẠI-DA TẠP SỰ

- Mùla-Sarvàstivàda Vinaya Ksudraka Vastu -

(Cuộc đời đức Phật và các đệ tử)

Hán dịch: Tam Tạng Nghĩa Tịnh, đời Đường, Trung Quốc

Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh, PL 2542 - TL 1998

 Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da Tạp Sự

Quyển thứ nhất

 --- ooOoo ---

 

Bốn mươi quyển Tạp sự này có tám môn. Một tụng đại môn bao trùm cương lĩnh cả bộ. Có tám tụng tổng nhiếp cho tám môn, trong mỗi môn lại có biệt môn. Mỗi biệt môn có mười tụng. Tổng cộng là tám mươi chín tụng. Trong mỗi nhiếp tụng có ngàn hàng. Người nào thọ trì thông thuộc, có thể nắm được toàn bộ ý nghĩa cả bộ.

 

Tụng đại môn tổng nhiếp:

 

    Chuyên thạch cập ngưu mao,

    Tam y tinh thượng tòa,

    Xá lợi mãnh thú cân,

    Cấp đa ny trừ tháp.

 

Tụng tổng nhiếp biệt môn thứ nhất:

 

    Chuyên khai tiễn trảo bát,

    Cảnh sanh chi đạp y,

    Thủy la sinh đậu châu,

    Tẩy túc quần ưng kết.

 

Tụng nhiếp một trong biệt môn thứ nhất:

 

    Chuyên khai thạch tự thổ,

    Ngưu hoàng hương ích,

    Nhãn Đã trụ đẳng chư tuyến,

    Anh lạc ấn ưng tri.

 

* Một thời, đức Thế Tôngiảng đường Cao Các, bên bờ hồ Di Hầu, thành Quảng Nghiêm.

 

Vào sáng sớm, Lục chúng Bí-sô mặc y mang bát sắp vào thành Quảng Nghiêm để khất thực. Cách thành không xa, có vườn của Lật Cô Tỳ Tử, phong cảnh thanh nhàn, hoa trái xum xuê, suối mát chảy quanh, chim đẹp đua hót như trong vườn Hoan Hỷ của trời Đế Thích. Trong vườn lại có các dụng cụ giải lao, những nhạc khí với âm thanh tuyệt hảo, cùng các vật để tắm rửa, hương thơm để thoa.

 

Lục chúng bàn nhau:

 

- Này Nan Đà, Ô Ba Nan Đà, từng nghe vườn này rất khả ái. Thế Tôn cũng thường tán thán như cõi trời Ba mươi ba. Chúng ta thử vào xem có những gì đặc biệt không.

 

Sau khi bàn bạc, Lục chúng vào vườn, thấy các loại chày gỗ dài ngắn, các vồ to nhỏ và các cục đá lớn bé. Những vật này phục vụ cho việc vui đùa, làm cho thân thể được vận động, máu huyết lưu thông, trừ bệnh, làm tiêu hoá ăn uống. Họ lại thấy các loại nhạc cụ đặc biệt như sáo, đàn, trống ...

 

Lại có các loại bột tắm thơm, các loại gạch nổi nhẹ, tháo đậu, cỏ thơm, dư cam (hạt dư cam có ở Quảng Châu dùng để gội tóc, phương Tây gọi là trái Am-ma-lạc-ca) dùng kỳ cọ thân thể và xức tóc, có thể làm cho tóc trắng trở thành đen.

 

Lục chúng thấy vậy, bàn với nhau:

 

- Các nhạc cụ này diễn tả được đủ các tình cảm, chúng ta cố gắng xử dụng cho hết; vậy nên ca múa hay tắm rửa trước?

 

Một người bảo:

 

- Đã lâu chúng ta chưa tắm, vậy nên tắm trước.

 

Sau khi bàn luận, họ cùng nhau xuống ao, cầm gạch nổi để kỳ cọ thân thể. Lục chúng có nhiều kỹ xảo, biết hết các kỹ thuật, khi tắm rửa dùng gạch nổi kỳ cọ thân thể làm vang ra âm thanh của năm loại nhạc, như người có kỹ thuật thổi kèn gẩy đàn vỗ tay. Những người đi qua nơi này, ngờ nơi đây có tấu nhạc nên cùng lắng tai nghe. Họ nói với nhau:

 

- Vườn Lật Cô Tỳ có biểu diễn ca vũ, chúng ta hãy dừng lại xem.

 

Mọi người hưởng ứng đồng ýchen nhau vào vườn.

 

Khi mọi người vào vườn thì Lục chúng lại đi ra. Họ hỏi Lục chúng:

 

- Thánh giả, người tấu âm nhạc ở đâu?

 

Đáp:

 

- Các người là kẻ ngu, có tai nghe tiếng mà tâm không biết hay dở. Làm gì có nhạc sĩ nào tấu được những âm thanh kỳ diệu như vậy.

 

Hỏi:

 

- Thánh giả, vậy âm thanh vừa rồi là của ai tấu?

 

Đáp:

 

- Hiền thủ, âm thanh các người nghe là khi chúng ta tắm rửa, dùng gạch kỳ cọ thân thể phát ra âm điệu ấy.

 

Những người kia nói:

 

- Sa-môn quý ngài còn có năm dục não loạn thân tâm hay sao?

 

Đáp:

 

- Này kẻ ngu si, chúng ta không não loạn người khác, tự hưởng thụ dục lạc nhưng không bỏ phế việc tu tập thì có lỗi gì? Ngươi có phải là thầy ta đâu mà nói ra những lời chê bai này, hãy im lặng đi chớ rước lấy tai họa.

 

Những người kia nghe nói, sợ hãi, im lặng bỏ đi. Họ vào thành Quảng Nghiêm, đến ngã tư đường bàn luận chê bai. Các Bí-sô nghe vậy, bạch Phật:

 

Phật suy nghĩ: "Bí-sô tắm rửa dùng gạch kỳ cọ thân thể, có những lỗi như vậy". Vì vậy, Ngài dạy:

 

- Khi tắm rửa, các Bí-sô không nên dùng gạch kỳ cọ thân thể , ai dùng gạch kỳ cọ thân thể, bị tội vượt pháp.

 

Sau khi Phật không cho phép dùng gạch kỳ cọ thân thể, chân các Bí-sô có cấu bẩn nên bị nứt. Khi họ đi khất thực, mọi người trông thấy, hỏi:

 

- Thánh giả! Chân ngài bị nứt có nhiều cấu bẩn, tại sao không kỳ cọ sạch sẽ mà để bẩn thỉu như vậy?

 

Đáp:

 

- Thế Tôn không cho phép.

 

Họ nói:

 

- Thân quý ngài nhơ bẩn, sao gọi là thanh tịnh?

 

Bí-sô im lặng, sau khi nhận thực phẩm, trở về trú xứ, đem sự việc bạch Phật. Phật bảo các Bí-sô:

 

- Trước đây chế định, nay tùy khai. Ta cho phép các Bí-sô dùng gạch kỳ cọ chân, nhưng không kỳ cọ nơi khác trên thân. Ai kỳ cọ chỗ khác bị tội vượt pháp.

 

Khi ấy, Lục chúng thấy Phật không cho dùng gạch, nên dùng đá nổi.

 

Phật dạy:

 

- Cũng bị tội vượt pháp.

 

* Duyên xứ như trước. Vào sáng sớm, các Bí-sô mặc y mang bát vào thành khất thực. Họ thấy các vị Bàlamôn dùng tay vạch ba vạch bằng đất trắng hay tro trắng lên trán, nên cầu xin gì cũng được tốt đẹp. Thấy vậy, Lục chúng nói với nhau:

 

- Đây là phương pháp tốt, chúng ta nên làm theo.

 

Hôm khác, họ vạch ba vạch trên trán rồi vào thành khất thực. Những người không tin, cười nói:

 

- Ta xin bái lạy.

 

Lục chúng bảo:

 

- Này kẻ ngu không hiểu biết lễ nghi, ai hợp với quỳ lạy, ai đáng được kính lễ?

 

Họ đáp:

 

- Chúng tôi chỉ biết thấy bà la môn già thì nói quỳ lạy, thấy Bí-sô nên thưa lễ kính.

 

Lục chúng nói:

 

- Như vậy, tại sao các ngươi thấy ta là Bí-sô lại không lễ kính mà nói quỳ lạy?

 

Đáp:

 

- Thánh giả! Tôi thấy mặt quý ngài có ba vạch, vậy là Bàlamôn nào phải Bí-sô. Chúng tôi không biết là Bí-sô, xin thứ lỗi.

 

Lục chúng đành im lặng. Các Bí-sô nghe sự việc, bạch Phật. Phật suy nghĩ: "Nếu Bí-sô vẽ ba vạch trên mặt sẽ có những lỗi lầm như vậy". Do đó, Ngài quy định:

 

- Bí-sô nào vẽ ba vạch như vậy, bị tội vượt pháp.

 

Phật dạy:

 

- Bí-sô không được dùng đất trắng vẽ ba vạch trên mặt như vậy.

 

Có Bí-sô bệnh, y sĩ cho đơn thuốc dùng đất trắng bôi lên thân. Bí-sô không dám, đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Trước là chế định, nay là tùy khai. Nếu y sĩ bảo bôi đất trên thân, được làm theo, không phạm.

 

Phật ở thành Thất La Phiệt. Vào sáng sớm, Lục chúng mặc y mang bát vào thành khất thực, thấy các vị Bàlamôn bôi ngưu hoàng trên trán nên mong cầu những thức ăn ngon; đều đạt được. Thấy vậy, Lục chúng nói với nhau:

 

- Đây là phương pháp tốt, chúng ta nên làm theo.

 

Hôm khác, họ bôi ngưu hoàng trên trán, đi khất thực. Những người không tin, thấy dấu trên trán, khinh thường cười nói:

 

- Ta xin quỳ bái ... như đoạn trên ... Tôi thấy quý vị trang sức trên mặt bằng ngưu hoàng, đó là Bàlamôn chứ nào phải Bí-sô. Chúng tôi không biết, xin thứ lỗi.

 

Lục chúng đành im lặng. Các Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật nghĩ: "Nếu Bí-sô trang sức trên trán bằng ngưu hoàng, nên sẽ gây ra lỗi như vậy". Do đó, Ngài quy định:

 

- Bí-sô không được bôi ngưu hoàng trên trán. Ai vi phạm bị tội vượt pháp.

 

Sau khi Phật chế không được bôi ngưu hoàng trên trán, có Bí-sô bị mụt dữ trên trán, đến hỏi y sĩ:

 

- Hiền thủ, hãy trị bệnh cho tôi.

 

Y sĩ nói:

 

- Thánh giả hãy dùng ngưu hoàng bôi quanh mụt ghẻ thì sẽ hết bệnh.

 

Bí-sô nói:

 

- Thế Tôn chế giới không được dùng ngưu hoàng bôi trên trán.

 

Y sĩ nói:

 

- Thánh giả! Thầy ngài đại từ bi, nếu có bệnh tất cho phép.

 

Họ đem việc này bạch Phật. Phật bảo các Bí-sô:

 

- Trước đây chế định, nay tùy khai, trừ trường hợp bệnh và y sĩ bảo làm được phép dùng ngưu hoàng. Không bệnh, cố ý dùng, bị tội vượt pháp.

 

* Duyên xứ như trước. Lục chúng Bí-sô thoa chất thơm, đi vào trong nhóm thanh thiếu niên, bảo với họ:

 

- Các ngươi hãy ngửi mùi thơm của ta xem thế nào?

 

Những người kia đáp:

 

- Lẽ nào Thượng tọa thoa chất thơm?

 

Đáp:

 

- Đúng vậy.

 

Họ nói:

 

- Thoa mùi thơm là trang sức thế tục, nào hợp với Thượng tọa.

 

Đáp:

 

- Hợp hay không, ta cũng đã làm.

 

Họ cùng nhau bất mãn khinh khi. Các Bí-sô đem việc này bạch Phật. Phật nghĩ: "Bí-sô thoa mùi thơm, có lỗi lầm như vậy". Do đó, Ngài chế:

 

- Bí-sô không được thoa mùi thơm. Ai vi phạm bị tội vượt pháp.

 

Như Phật đã chế không được thoa chất thơm, có Bí-sô bị bệnh, đến gặp y sĩ, hỏi:

 

- Xin khám bệnh cho tôi và điều trị.

 

- Thánh giả, hãy thoa chất thơm thì hết bệnh ngay.

 

Đáp:

 

- Hiền thủ, lẽ nào bảo tôi ưa thích dục lạc hay sao?

 

- Thánh giả! Đấy là thuốc trị bệnh, dùng loại khác không hết được.

 

Bí-sô bạch Phật .

 

Phật dạy:

 

- Nay Ta cho phép nếu y sĩ cho toa như vậy, thoa chất thơm không phạm.

 

Khi Bí-sô thoa chất thơm vào ngồi trong chúng, thuyết pháp cho các Bàlamôn cư sĩ, hoặc vào nhà thế tục, mọi người biết vậy nên chê bai. Các Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Ta sẽ quy định những pháp cho Bí-sô thoa mùi thơm. Những Bí-sô nào thoa mùi thơm không được vào ngồi giữa mọi người, cũng không được thuyết pháp cho Bà-la-môn cư sĩ, không được đi đến nhà thế tục. Sau khi hết bệnh, Bí-sô phải tắm sạch hết mùi, mới được tùy ý vào giữa mọi người và được thuyết pháp cho mọi người. Ai không làm theo pháp này, bị tội vượt pháp.

 

Khi ấy, có tín tâm Bà-la-môn cư sĩ đem hương thoa đến cúng dường các Bí-sô.

 

Bí-sô không nhận, các cư sĩ nói:

 

- Thánh giả! Khi Phật chưa ra đời, chúng con nhờ vào ngoại đạo để làm phước. Nay, Phật ra đời, chúng con lấy các Ngài làm phước điền lớn. Vì sao không nhận vật cúng dường của các con mang đến? Lẽ nào làm cho chúng con không có hành trang tốt đẹp để đi qua đời sau? Xin từ bi nhận của cúng dường nhỏ mọn của chúng con.

 

Bí-sô đáp:

 

- Hãy chờ tôi thưa hỏi Phật .

 

Các Bí-sô đem sự việc bạch Phật.Phật dạy:

 

- Nên nhận.

 

Sau khi nhận, Bí-sô vứt ngay xuống đất trước người cho.

 

Thí chủ nói:

 

- Thánh giả! Chúng con mua vật quý giá đem đến, vì sao vứt bỏ đi.

 

Các Bí-sô đem sự việc bạch Phật.Phật dạy:

 

- Nhận xong, không nên xem thường vứt bỏ trước thí chủ, nên đem thoa trên đất trước tháp Phật đề cúng dường.

 

Như lời Phật dạy:

 

- Nên thoa hương trên đất trước tháp Phật để cúng dường.

 

Các Bí-sô sau khi nhận hương ấy, dùng tay bôi trước tháp tóc móng tay của Phật để cúng dường. Thấy vậy, thí chủ nói:

 

- Thánh giả! Con không biết có tháp để cúng dường hay sao? Ý chúng con là cúng cho các ngài. Trước tháp Phật, chúng con đã cúng dường rồi.

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Nhận được chất thơm nên thoa trong phòng.

 

Bí-sô được hương thơm, bôi lên cánh cửa phòng. Những người khác cho là điện Phật nên lễ bái.

 

Phật dạy:

 

- Không nên làm vậy, nên bôi lên cửa ngoài ... họ lại bị lỗi như trước.

 

Phật dạy:

 

- Nên thoa trên đầu, bờ của tường vách, mũi luôn được ngửi. Khi ngửi vật thơm, làm cho mắt sáng, chớ nghi ngại.

 

* Một thời, Thế Tôn ở vườn Thi-Lộc, rừng Khủng Úy, núi Thất Thu Ma La. Vương tử Bồ Đề xây cất lầu Điểu Minh vừa xong nên tổ chức khánh thành, thỉnh Phật và Tăng đến để cúng dường. Thế Tôn đến nơi, cùng chúng Tăng an tọa dưới lầu thọ trai. Trong khi thọ trai, Ô Ba Nan Đà lấy tay đánh vào trụ lầu, làm cho lầu bị chấn động. Người cúng dường báo:

 

- Thánh giả! Vương tử Bồ Đề mới tạo lầu này, dùng cả trăm màu sắc để tô vẽ điêu khắc, ý gì mà ngài muốn phá hoại?

 

Ô Ba Nan Đà đáp:

 

- Kẻ bần hàn Bồ Đề có tâm tham ái nơi này, sau khi chết sẽ đọa vào nơi nào? Ngươi cũng có tâm tham ái nơi này, sau khi chết sẽ đọa vào loài quỷ bứu to.

 

Người kia nghe xong, rất bất mãn chê trách. Các Bí-sô đem sự việc bạch Phật .Phật suy nghĩ: "Bí-sô đánh vào cột, có những lỗi như vậy".

 

Ngài chế:

 

- Bí-sô không được lấy tay đánh vào cột, ai vi phạm bị tội vượt pháp.

 

Sau khi Phật chế không được dùng tay đánh vào cột, Lục chúng Bí-sô dùng đấm tay, vai, lưng, gối và gạch đá đánh làm lay động ... lại gây bất mãn chê trách bị lỗi như trước.

 

Phật dạy:

 

- Không được đánh bằng bất kỳ vật gì?

 

Khi ấy, Lục chúng đánh vào tường, vào đất. Phật dạy:

 

- Không được đánh vật khác, ai vi phạm bị tội vượt pháp.

 

* Duyên xứ như trước... Vào sáng sớm, Lục chúng Bí-sô mặc y mang bát vào thành khất thực, thấy các Bàlamôn mang dây phạm tuyến nên khất thực được nhiều thức ăn ngon. Họ bàn nhau:

 

- Nan Đà, Ô Ba Nan Đà! Ta có phương pháp tốt là mang dây phạm tuyến.

 

Vào ngày khác, họ mang dây này vào thành khất thực. Có những người không tin thấy dây phạm tuyến, nên khinh khi nói:

 

- Ta xin quỳ bái ... hỏi đáp như trước ... cho đến các Bí-sô đem sự việc bạch Phật.

 

Phật suy nghĩ: "Bí-sô mang dây phạm tuyến có những lỗi như vậy". Do đó, Ngài chế:

 

- Bí-sô không được mang dây, ai vi phạm bị tội vượt pháp.

 

* Duyên xứ như trước... Lục chúng khất thực thấy các Bàlamôn dùng hoa thơm đẹp trang sức thân thể, tay đeo dây ngũ sắc, được nhiều thức ăn no đủ, sau khi ăn no thân hình sung mãn đi ra khỏi nhà.

 

Lục chúng bảo nhau:

 

- Nan Đà, Ô Ba Nan Đà! Đây là phương pháp tốt, chúng ta nên làm theo.

 

Vào ngày khác, họ cột dây ngũ sắc trên tay, đi vào thành khất thực. Các Bà-la-môn thấy vậy nên khinh thường, nói:- Ta xin quỳ bái. Lục chúng nổi lên bất mãn.. nói rộng như trước ... cho đến các Bí-sô bạch Phật. Phật suy nghĩ: "Bí-sô mang dây ngũ sắc có những lỗi lầm như vậy". Do đó, Ngài chế:

 

- Bí-sô không được mang dây ngũ sắc nơi tay, ai vi phạm bị tội vượt pháp.

 

Sau khi Phật không cho mang dây ngũ sắc nơi tay, có Bí-sô bị bệnh, đến gặp y sĩ hỏi:

 

- Hiền thủ! Tôi bị bệnh xin ngài điều trị.

 

Đáp:

 

- Thánh giả! Ngài dùng dây ngũ sắc, chú nguyện mang nơi tay thì hết bệnh.

 

- Thế Tôn không cho phép làm.

 

Y sĩ nói:

 

- Đại sư của ngài lấy từ bi làm gốc, bị bệnh tất cho phép không ngờ gì cả.

 

Các Bí-sô bạch Phật .Phật dạy:

 

- Nay Ta cho phép các Bí-sô vì bệnh, y sĩ bảo làm, mang dây không phạm.

 

Sau khi Phật cho cột dây nơi tay, Bí-sô lại mang dây trước khuỷu tay phải, lại bị chê có lỗi. Phật dạy:

 

- Không được.

 

Họ lại mang sau khuỷu. Phật dạy:

 

- Không được.

 

Họ lại mang trước khuỷu tay trái.Phật dạy:

 

- Không được.

 

Họ lại mang sau khuỷu tay trái.

 

Bí-sô nhờ mang dây được hết bệnh, sau đó vứt bỏ dây ấy bừa bãi. Phi nhân thấy vậy nên hiềm khích, nói:

 

- Thánh giả! Dây này do có kết tên họ của tôi, nhờ chú ấy nên làm cho hết bệnh, nay ngài lại khinh thường.

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Không được vứt bỏ bừa bãi. Ai chưa hết bệnh thì cột nơi góc y, khi bình phục rồi nên an trí nơi hốc tường cột.

 

* Duyên xứ như trước... Lục chúng khất thực, thấy những người thế tục trang sức bằng các loại chuỗi anh lạc, nên dùng vòng anh lạc đeo tay chân trang sức nơi thân, rồi nói với nhau rằng trang sức đẹp không. Những người thế tục nói đùa:

 

- Thánh giả, trên đầu tóc cạo sạch , dưới nách lông dài, có chỗ nào trang sức cho đẹp đâu, chẳng phải là các vị bị dục nhiễm trói buộc hay sao?

 

Lục chúng đành im lặng. Bí-sô bạch Phật.Phật suy nghĩ: "Bí-sô mang anh lạc có những lỗi như vậy". Do đó, Ngài chế:

 

- Bí-sô không được dùng chuỗi anh lạc trang sức nơi tay chân, ai cố ý mang bị tội vượt pháp.

 

* Duyên xứ như trước... Có giặc đến, trộm kho tàng của Tăng và các vật riêng tư. Vì không ghi chép chính xác nên Bí-sô không biết mất vật vào lúc nào. Phật dạy:

 

- Bí-sô nên làm con dấu.

 

Lục chúng Bí-sô dùng vàng bạc lưu ly thủy tinh ngọc thạch mà làm con dấu, trang sức bằng vật quý trên nhẫn (con dấu) đeo tay . Khi gặp mgười thế tục, họ xòe tay ra khoe nhẫn quý và chú nguyện: "Mong quý vị không bệnh sống lâu".

 

Người thế tục hỏi:

 

- Trên nhẫn có gì vậy?

 

Đáp:

 

- Hiền thủ, đây là nhẫn con dấu, Phật cho phép dùng.

 

Người đời chê bai cười nói:

 

- Sa-môn Thích tử còn làm việc kiêu mạn, dùng các vật báu trang sức để làm nhẫn con dấu, chẳng phải thật Sa-môn, cũng chẳng phải Bà-la-môn.

 

Các Bí-sô nghe vậy, bạch Phật . Phật dạy:

 

- Bí-sô không nên mang nhẫn và vật trang sức quý báu, nên dùng năm loại là thâu thạch, đồng đỏ, đồng trắng, ngà và sừng để làm con dấu.

 

Trên con dấu của Lục chúng lại khắc hình tượng nam nữ làm việc phi pháp. Những người thế tục thấy vậy chê:

 

- Quý vị là Sa-môn còn có tâm ô nhiễm hay sao?

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Con dấu có hai loại, một cho đại chúng, một cho cá nhân. Nếu con dấu của đại chúng, nên khắc tượng chuyển pháp luân, hai bên bố trí hình nai quỳ chầu vào , bên dưới ghi căn nguyên làm chùa, tên họ thí chủ. Nếu là con dấu cá nhân, nên khắc tượng bộ xương, hoặc hình đầu lâu, để khi nhìn thấy sinh tâm nhàm chán.

 

 

 

Nhiếp tụng thứ hai trong biệt môn thứ nhất

 

    Tiễn qua phát khai quang,

    Xuân thời thực tiểu quả,

    Khát thính ngũ chủng dược,

    Quảng thuyết Hỏa Sinh duyên.

 

* Duyên xứ như trước... Trưởng giả Cấp Cô Độc xây dựng trú xứ Thệ Đa Lâm cúng dường cho Phật và Tăng.

 

Một hôm, trưởng giả bảo người thợ cạo:

 

- Người hãy đến rừng Thệ Đa, cạo râu tóc cho Thánh chúng.

 

Người kia vâng lệnh, đi đến chùa. Khi ấy, Lục chúng Bí-sô tụ tập trước cửa chùa nhìn ngắm không ngừng. Ô Ba Nan Đà đang kinh hành qua lại trước chùa, thấy người thợ cạo đến, bảo:

 

- Xin chào, hiền thủ đến đây! Cũng như trăng đầu tháng thật khó gặp được.

 

Người thợ nói:

 

- Trưởng giả sai tôi đến cạo tóc cho chúng Tăng.

 

Hỏi:

 

- Người biết cắt móng tay không?

 

Đáp:

 

- Thánh giả! Đấy là nghề của tôi.

 

- Người hãy đến đây, thử trổ nghề giỏi xem!

 

Người thợ ra trước, Tôn giả xoè tay ra.

 

Người thợ nói:

 

- Thánh giả muốn cắt như thế nào?

 

- Hiền thủ! Hãy cắt như hình hạt lúa.

 

Thợ cạo làm đúng theo yêu cầu. Sau đó, Ô Ba Nan Đà lại bảo cắt hình đầu người, rồi hình dao cạo, hình lưỡi búa, hình bán nguyệt ... người kia vẫn làm đúng theo. Cuối cùng, Tôn giả bảo:

 

- Người là kẻ ngu si, nói dối có nghề giỏi, mà chẳng biết gì cả, hãy cắt bằng hết, mau bỏ hình cũ đi.

 

Mãi đến chiều , Tôn giả mới cho người thợ về.

 

Chiều tối, người thợ mới về chỗ Trưởng giả. Trưởng giả hỏi:

 

- Người đã cạo râu tóc cho bao nhiêu vị?

 

Đáp:

 

- Tôi nào có rảnh để cạo tóc cho đại chúng, quan trưởng Bí-sô Ô Ba Nan Đà sai tôi cắt móng tay với các loại hình dạng ... nói đủ như trước ... cho đến chiều mới cho về, còn muốn làm gì nữa!

 

Trưởng giả nghe nói, có ý chê trách:

 

- Tuy đã xuất gia trong pháp luật thiện thuyết mà tâm không tịch tịnh.

 

Bí-sô nghe nói, bạch Phật. Phật suy nghĩ: "Bí-sô cắt móng tay có những lỗi như vậy". Do đó, Ngài chế:

 

- Bí-sô không nên cắt móng tay, ai vi phạm bị tội vượt pháp.

 

Sau khi Phật không cho cắt móng tay, các Bí-sô để móng tay dài.

 

Người thế tục thấy vậy hỏi:

 

- Tại sao móng tay dài vậy?

 

Đáp:

 

- Thế Tôn không cho cắt.

 

- Để móng tay chân dài vậy là sạch hay sao?

 

Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Trước là quy định, nay tùy khai. Để móng tay có hai cách: một như hình dao cạo, hai như lưỡi búa.

 

* Duyên xứ như trước... Trưởng giả Cấp cô độc sai thợ cạo vào chùa cạo râu tóc cho chúng Tăng ... như trước ... cho đến hỏi:

 

- Ngươi hiểu cách đánh móng tay chân không?

 

Đáp:

 

- Thánh giả, đấy là nghề của tôi.

 

- Ngươi hãy đến đây làm thử xem .

 

Bí-sô sai họ làm màu vàng trước, rồi đến màu đỏ, màu trắng, màu vàng kim ... Họ đều làm theo lời sai bảo. Bí-sô lại bảo họ:

 

- Ngươi là kẻ ngu si, dối nói có nghề giỏi nhưng không biết gì cả, hãy chùi cho bình thường bỏ hết cái cũ đi. Khi người kia về gặp Trưởng giả ... cho đến ... còn muốn làm gì nữa. Trưởng giả nghe nói nên có ý hiềm trách nói như trước. Bí-sô nghe vậy, bạch Phật.

 

Phật nghĩ: "Bí-sô đánh móng tay có những lỗi như vậy ". Do đó, Ngài chế:

 

- Bí-sô không được chùi móng tay, ai vi phạm, bị tội vượt pháp.

 

Sau khi Phật không cho Bí-sô chùi móng tay, Bí-sô nhuộm y hay đốt bát, móng tay bị cấu bẩn màu sắc nhớp nhúa. Khi họ mang bát khất thực, người thế tục hỏi:

 

- Thánh giả, vì sao móng tay ngài bẩn vậy?

 

Bí-sô trình bày sự việc.

 

- Tại sao thánh giả không chùi sạch?

 

Đáp:

 

- Thế Tôn không cho phép.

 

- Vậy mang đất trên móng tay là thanh tịnh hay sao?

 

Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Khi chùi cấu bẩn, có thể lau móng tay, không nên vì đẹp mà chùi cho sáng bóng.

 

* Phật ở thành Vương Xá. Vua Ảnh Thắng suy nghĩ: "Khi thời tiết thay đổi đến Xuân Thu, có lúa mới và trái đầu mùa nên đem dâng lên Phật và các Thánh chúng, sau đó mới dùng riêng". Khi ấy, có đại thần dâng trái Am-một-la mới chín lên vua (trái này lớn như trái đào, sống chín khó biết, có bốn loại khác nhau không đồng. Am-ma-lạc-ca lớn như trái táo chua, chỉ dùng làm thuốc). Nhà vua bảo:

 

- Hãy mang quả này dâng lên Phật và Tăng.

 

Vị đại thần cười mỉm. Vua nói:

 

- Vì sao khanh cười?

 

Đáp:

 

- Đại vương cho rằng thần chưa dâng lên Phật và Tăng, nhưng thần đã dâng lên trước rồi.

 

Vua nói:

 

- Sợ khanh không biết việc này, vì vậy, ta dâng lên Thánh chúng vườn cây ăn trái có ngàn gốc.

 

Đại thần tâu:

 

- Đây thật là việc tốt, thần rất tùy hỷ.

 

Nhà vua liền đem vườn cây ăn trái có ngàn gốc dâng lên tứ phương Thánh tăng, và tổ chức đại hội khánh tạ phước điền. Trước đây, rừng cây này kết trái rất nhiều, giả sử nhân dân nước Ma yết đà tụ họp lại hết cũng đủ trái để ăn. Sau khi nhà vua dâng khu rừng này cho Tăng già, các Bí-sô thấy trái còn nhỏ nhưng đã thơm ngon nên cùng hái ăn cho đến hết sạch. Có vua nước khác cần loại trái này, sai sứ giả đến gặp vua Ảnh Thắng xin trái Am-một-la.

 

Nhà vua nói:

 

- Rừng trái cây này, ta đã cúng Tăng chúng rồi. Người hãy đến đó xin với chúng Tăng. Sứ giả đến vườn Trúc lâm.

 

Khi ấy, Lục chúng đang tụ tập trước chùa trông ngóng chẳng sót việc gì. Ô Ba Nan Đà đang kinh hành trước chùa. Sứ giả đến nơi lạy sát chân Tôn giả, bạch:

 

- Thánh giả! Con là sứ giả của quốc vương ... ngài sai con đến đây cầu xin trái Am-một-la. Nếu quý ngài có, xin chia cho. Ô Ba Nan Đà bảo sứ giả:

 

- Người hãy đến rừng trái, tùy ý muốn, lấy nhiều ít đem đi.

 

Sứ giả đến vườn, quan sát khắp nơi, chỉ thấy cành không chẳng có trái nào cả, nên trở về thưa lại là rừng trống không có trái. Ô Ba Nan Đà cùng sứ giả đi vào vườn, sau khi quan sát, bảo:

 

- Người hãy leo lên cây cao này. Sứ giả liền leo lên nhưng vẫn không thấy trái. Ô Ba Nan Đà lại bảo:

 

- Hãy leo lên cành phía Đông.

 

Cho đến bảo leo lên cánh phía Nam, Tây, Bắc. Người kia leo khắp nhưng chẳng được gì nên tụt xuống khỏi cây, hỏi:

 

- Thánh giả, hay là năm nay rừng cây này chẳng có trái?

 

Đáp:

 

- Hiền thủ, năm nay cũng kết trái như năm trước.

 

- Như vậy, hay là năm nay bị gió mưa nên trái rụng phải không?

 

Đáp:

 

- Không phải.

 

- Vì sao không có trái nào?

 

Đáp:

 

- Chúng tôi đã ăn hết khi trái còn nhỏ.

 

Sứ giả trở lại tâu sự việc lên vua. Vua phán:

 

- Lành thay! Tâm nguyện của ta là muốn cho Thánh chúng được ăn.

 

Sứ giả buồn bã trở về nước mình. Khi ấy, nước Ma-yết-đà có đại hội, mọi người đều tụ tập. Họ hỏi Bí-sô:

 

- Thánh giả! Vì sao năm nay cả rừng cây không kết trái?

 

Đáp:

 

- Hiền thủ! Chẳng phải không kết trái chỉ vì chúng tôi đã ăn hết.

 

- Thánh giả! Tính ra, khi rừng trái cây này chín, nhân dân cả nước Ma-yết-đà ăn cũng đủ, chỉ vì các vị ăn hết khi chúng còn nhỏ, nên không còn trái nào cả, đây thật không tốt.

 

Bí-sô đáp:

 

- Rừng trái này, nhà vua không cho những người trong nước, chỉ cúng Tăng chúng.Vậy chúng ta cùng ăn, có lỗi gì?

 

Khi mọi người nghe nói vậy, cùng nhau không vừa lòng chê trách:

 

- Sa-môn Thích tử còn không biết tri túc, huống chi bọn thế tục chúng ta.

 

Bí-sô bạch Phật. Phật suy nghĩ: "Do ăn trái ấy còn nhỏ nên có lỗi như vậy". Do đó, Ngài chế:

 

- Các Bí-sô không được ăn trái ấy còn nhỏ, ai ăn bị tội vượt pháp.

 

Như Phật chế, không được ăn trái ấy, có Trưởng giả với tín tâm đem trái Am-một-la nhỏ nhưng thơm ngon dâng lên Bí-sô. Bí-sô nói:

 

- Phật không cho ăn. Các Trưởng giả nói:

 

- Khi Phật chưa ra đời, những người chúng con đều lấy ngoại đạo làm phước điền ... như trên ... cho đến từ bi nhận vật cúng dường nhỏ mọn của con.

 

Các Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Khi chúng có hạt ăn không phạm.

 

Lại có Trưởng giả với tín tâm đem trái Am-một-la-chín dâng lên Bí-sô ... như trước ... cho đến nhận vật cúng nhỏ mọn của con. Các Bí-sô không dám nhận, đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Sau khi có hạt cho đến khi chín đều được ăn, chớ nghi ngại.

 

* Duyên khởi ở thành Thất la phiệt. Có Bí-sô bị bệnh, đến y sĩ nói:

 

- Tôi có bệnh như vậy, xin điều trị. Y sĩ nói:

 

- Nên dùng bơ cho thân thể nhuận tốt, tôi sẽ cho thuốc xổ.

 

Vị ấy dùng bơ, lại sinh bệnh tiêu khát. Y sĩ đến hỏi:

 

- Thánh giả khoẻ không?

 

Đáp:

 

- Hiền thủ, tôi lại sinh bệnh khát.

 

Y sĩ nói:

 

- Hãy cầm lấy dư cam tử.

 

Bí-sô giữ mãi dư cam tử nơi tay, y sĩ thấy hỏi:

 

- Ngài đã hết khát chưa?

 

Đáp:

 

- Chưa hết.

 

Y sĩ nói:

 

- Thánh giả, hay là ngài không cầm đến dư cam tử?

 

Đáp:

 

- Đang cầm trong tay.

 

Y sĩ:

 

- Nên cho vào miệng.

 

Bí-sô ngậm vào miệng. Ngày khác, y sĩ đến hỏi:

 

- Ngài hết khát chưa?

 

Đáp:

 

- Vẫn chưa hết khát.

 

Y sĩ:

 

- Hay là ngài không ngậm dư cam tử trong miệng?

 

Đáp:

 

- Đang ngậm trong miệng.

 

- Hãy nhai đi.

 

Đáp:

 

- Thế Tôn không cho.

 

Y sĩ nói:

 

- Thế Tôn đại từ bi chắc chắn cho phép.

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Nên nhai.

 

Sau khi nhai, lại nhả ra ngoài, không dám nuốt xuống, nên không hết bệnh khát.Y sĩ nói:

 

- Tại sao không nuốt?

 

Đáp:

 

- Thế Tôn không cho ăn phi thời.

 

Bí-sô đem sự việc bạch Phật . Phật dạy:

 

- Nay Ta cho phép, có năm loại trái, bệnh hay không bệnh, thời hay phi thời đều được ăn, không phạm.

 

Như Phật dạy có năm loại trái cây, bệnh hay không bệnh, thời hay phi thời đều được ăn, không phạm, Bí-sô không biết năm loại nào. Phật dạy:

 

    - Đó là dư cam tử (Phạn ngữ Am-ma-lạc-ca, dịch là Dư cam tử cùng với Am-một-la ở trên khác nhau, chỉ giống về tiếng gọi, mọi người nhầm lẫn nên chú ra; đây đã trực tiếp xem rõ) Ha-lê-lặc, Tỳ-ê-lặc, Tất-bát-lê, Hồ-tiêu. Năm loại thuốc này, có bệnh không bệnh, thời hay phi thời, tùy ý ăn, chớ ngại.

 

CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ

TỲ NẠI DA TẠP SỰ.

 

Quyển thứ nhất hết.

 

--- o0o ---

 

 

Quyển thứ hai

 

--- ooOoo ---

 

(Phần tiếp theo của nhiếp tụng thứ hai trong biệt môn thứ nhất - nói về chuyện Trưởng giả Hỏa Sinh)

 

* Một thời, Phật ở vườn Trúc Lâm, thành Vương Xá.

 

Trong thành có một trưởng giả tên Thiện Hiền, nhiều tài sản hưởng thụ sung túc, rất tín ngưỡng ngoại đạo lõa hình, kết hôn chưa bao lâu, vợ đã có thai.Vào sáng sớm, Thế Tôn mặc y mang bát, vào thành Xá vệ, theo thứ lớp khất thực, lần lượt đến nhà Thiện Hiền. Trưởng giả thấy Thế Tôn đến nhà, liền đưa vợ ra gặp Thế Tôn, thưa thỉnh:

 

- Bạch đức Bạc-già-phạm, vợ con có thai sẽ sinh nam hay nữ?

 

Phật nói:

 

- Trưởng giả, chắc chắn sẽ là nam, làm hưng thịnh rạng rỡ gia tộc, có đầy đủ diệu tướng của chư Thiên, xuất gia tu tập trong giáo pháp của Ta, diệt hết các hoặc, đắc quả A-la-hán.

 

Trưởng giả nghe xong, đem thức ăn tinh khiết thơm ngon đặt đầy bát, dâng lên Thế Tôn. Sau khi chú nguyện Trưởng giả khỏe mạnh, Thế Tôn ra khỏi nhà.

 

Cách đó không xa, có ngoại đạo lõa hình vừa thấy Thế Tôn, liền suy nghĩ: "Ta chỉ có nhà này thường cúng dường thức ăn, nay cũng bị Sa-môn Kiều Đáp Ma khuyến dụ. Ta thử đến gặp họ hỏi lý do, được thọ ký gì". Sau khi đến nơi, ngoại đạo hỏi Trưởng giảû:

 

- Sa-môn Kiều Đáp Ma có từng đến đây không?

 

Đáp:

 

- Có đến.

 

- Hãy kể lại cho ta nghe được không?

 

Đáp:

 

- Thánh giả, vợ con có thai, nên hỏi vị ấy về việc sinh đẻ. Vị ấy báo trước là sinh con trai, làm rạng rỡ gia tộc, có đầy đủ diệu tướng của chư Thiên, xuất gia tu tập trong pháp luật vị ấy, đoạn trừ hết hoặc, đắc quả A-la-hán.

 

Vị ngoại đạo này tinh thông lịch số, liền quán sát tính toán âm dương thì đúng như lời Phật nói, nên suy nghĩ: "Nếu ta tùy thuận khen ngợi sự thật thì gia chủ càng tôn kính ông ta. Vậy ta nên che dấu sự thật, nói khác đi". Sau khi suy nghĩ, ngoại đạo liền chống tay vào mặt ra dáng suy nghĩ. Thấy vậy, Trưởng giả hỏi:

 

- Thánh giả, vì sao chống tay vào mặt?

 

Đáp:

 

- Lời nói của Sa-môn nữa thật nữa hư.

 

Trưởng giả hỏi:

 

- Thật hư như thế nào?

 

Đáp:

 

- Sinh con trai là thật, làm rạng rỡ gia tộc thì không đúng. Nói rạng rỡ là tên khác của lửa, đây là con vô phước, vừa sinh xong đốt cháy gia tộc. Nói có đầy đủ diệu tướng của chư Thiênnói dối. Này Trưởng giả! Có bao giờ thấy ai sinh trong loài người mà có đầy đủ diệu tướng của chư Thiên không. Xuất gia tu tập trong giáo pháp vị ấy cũng có thật, vì sau khi sinh bị nghèo cùng đói lạnh, thiếu ăn thiếu mặc, tự nhiên phải gia nhập vào trong pháp của Sa-môn. Đoạn trừ hết hoặc, chứng quả A-la-hán, cũng là dối trá vì Sa-môn Kiều Đáp Ma cũng chưa diệt hết phiền não chứng quả A-la-hán, huống chi các đệ tử khác.

 

Trưởng giả Thiện Hiền nghe nói như vậy nên rất buồn khổ, thưa:

 

- Thánh giả, con phải làm thế nào đây?

 

Ngoại đạo nói:

 

- Này trưởng giả! Ta là người xuất gia, thọ trì giới cấm, không tùy tiện nói dối, hư thật thế nào sau này tự người sẽ rõ.

 

Nói xong, ngoại đạo từ giã.

 

Thiện Hiền suy nghĩ: "Hãy giết bỏ cái thai trong bụng kia đi". Thiện Hiền liền đưa cho vợ uống thuốc phá thai, nhưng người con này mang thân cuối cùng, tuy bị thuốc độc nhưng biến thành thuốc lành. Trưởng giả liền đạp vào bên hông trái, cái thai nằm qua bên phải; đạp hông bên phải, thai chuyển qua bên trái. Người mang thân cuối cùng các lậu chưa hết thì không thể bị chết nữa chừng. Trải qua nhiều tháng, khi người phụ nữ kia bị bóp bụng đau đớn thì kêu lớn.

 

Người chung quanh nghe tiếng kêu, vội chạy đến hỏi Trưởng giả:

 

- Tại sao vợ ngài kêu lớn như vậy?

 

Trưởng giả đáp:

 

- Vợ tôi đau bụng sắp sinh.

 

Người chung quanh nghe vậy nên bỏ về.Trưởng giả suy nghĩ: "Ta không thể phá cái thai trong bụng, vậy nên đem người mẹ đến nơi rừng vắng không người, giết đi". Trưởng giả đưa vợ cùng đi, thi hành độc kế giết chết, rồi lén mang trở về nhà, bảo với thân thuộc và hàng xóm: "Vợ tôi gặp nạn thình lình qua đời". Thân thuộc đều buồn rầu thương tiếc, đem lụa năm màu bọc thi thể, đưa đến rừng lạnh nơi hỏa thiêu. Ngoại đạo nghe vậy, rất vui mừng, vì quá phấn khởi nên dựng cờ phướng, đi vào thành vua, khắp các phố phường đường xá, lớn tiếng rao lên:

 

- Này tất cả mọi người, hãy cùng nhau xét lại lời báo trước của Sa-môn Kiều Đáp Ma. Vợ Trưởng giả Thiện Hiền sinh con trai, làm vẻ vang gia tộc, có đầy đủ diệu tướng của chư Thiên, xuất gia tu tập trong giáo pháp của Ta, trừ hết các hoặc, chứng quả A-la-hán. Nay, vợ trưởng giả đã chết, bỏ thây ra rừng lạnh, như cây đại thọ không có gốc rễ cành lá hoa quả, việc này làm sao chấp nhận được?

 

Pháp nhĩ của Thế Tôn là trong tất cả mọi lúc quán sát nghe thấy biết rõ tất cả chúng sinh, thường có tâm đại bi làm lợi ích tất cả, đứng đầu trong việc cứu hộ, đại hùng lực không nói hai lời, y vào định tuệ hiển phát ba minh, tu tập trọn vẹn ba học, điều phục hoàn toàn ba nghiệp, vượt bốn bạo lưu, ở yên nơi bốn thần túc, luôn luôn tu tập bốn nhiếp hạnh, xả trừ năm triền cái, viễn ly năm chi, thoát khỏi năm đường, đầy đủ sáu căn, viên mãn sáu độ, bố thí khắp bằng bảy thánh tài, nở hoa bảy giác ngộ, xa lìa tám nạn, tu tập bát chánh đạo, vĩnh viễn đoạn trừ chín kết, thông suốt chín định, đầy đủ mười lực, tiếng khen khắp mười phương, rất thù thắng trong các tự tại, được pháp vô úy chiến thắng ma oán, nổi lên tiếng sấm lớn, rống lên tiếng sư tử, ngày đêm sáu thời luôn luôn dùng mắt Phật quán sát thế gian: "Ai tăng thiện căn, ai giảm thiện căn, ai gặp khổ nạn, ai hướng đến nẻo ác, ai bị chìm trong bùn dục, ai có thể hóa độ, làm phương tiện nào để cứu hộ họ thoát ra, làm cho người không có thánh tài được thánh tài, dùng thuốc trí tuệ An-thiện-na phá tan mạc mắt vô minh, làm cho người không có thiện căn trồng được thiện căn, người có thiện căn làm cho phát triển, đưa nhân loại lên đường Trời, an ổn không bị trở ngại đến thành Niết bàn".

 

Như có bài tụng:

 

    Giả sử đại hải triều,

    Có khi trễ kỳ hạn,

    Phật với kẻ đáng độ,

    Cứu ngay không bỏ qua,

    Phật đối các hữu tình,

    Luôn từ bi thương tưởng.

    Nghĩ cứu khổ cho họ

    Như trâu mẹ giữ nghé.

 

Đang đi kinh hành, Thế Tôn mỉm cười, miệng phóng ra hào quang vi diệu năm sắc, chiếu xuống đất, rọi lên trời. Ánh sáng chiếu xuống địa ngục Vô gián và các ngục khác. Nơi đang bị nóng bức liền được mát mẻ, nơi chìm trong nước lạnh thì được ấm áp.

 

Các loài hữu tình ở đó đều được an lạc, cùng suy nghĩ: "Ta cùng các ngươi đã chết khỏi địa ngục sinh đến đây hay sao?" Khi Thế Tôn làm cho chúng hữu tình ấy phát lòng tin rồi, lại hiện tướng khác. Hữu tình thấy tướng khác, lại suy nghĩ: "Chúng ta không phải chết ở đây mà sinh đến nơi khác, chắc chắn chúng ta nhờ vào sức uy đức của bậc Vô thượng Đại thánh, làm cho thân tâm chúng ta đang được hưởng thụ an lạc". Sau khi họ sinh tâm kính tín thì các khổ không còn nữa, được thọ thân tốt đẹp trong trời người, sẽ là bậc pháp khí thấy lý chân đế.Ánh sáng hướng lên, rọi tận cõi trời Sắc cứu cánh. Trong hào quang này diễn thuyết các pháp khổ, không, vô thường, vô ngã, và thuyết hai bài kệ:

 

    Ngươi hãy cầu xuất ly,

    Siêng tu trong Phật giáo,

    Chiến thắng quân sinh tử,

    Như voi xô nhà cỏ.

    Ngay trong pháp luật này,

    Thường sống không phóng dật,

    Tát cạn biển phiền não,

    Chấm dứt cảnh giới khổ.

 

Bấy giờ, hào quang ấy chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới, xoay quanh trở lại chỗ Phật. Nếu Phật Thế Tôn thuyết giảng việc quá khứ thì hào quang đi vào lưng, nếu thuyết giảng việc vị lai thì hào quang đi vào ngực, nếu thuyết giảng về địa ngục thì hào quang đi vào dưới chân, nếu thuyết giảng về bàng sinh thì hào quang đi vào gót chân, nếu thuyết giảng về ngạ quỷ thì hào quang đi vào ngón chân, nếu thuyết giảng về loài người thì hào quang đi vào đầu gối, nếu thuyết giảng về việc lực luân vương thì hào quang đi vào bàn tay trái, nếu thuyết giảng về việc chuyển luân vương thì hào quang đi vào bàn tay phải, nếu thuyết giảng về việc trời thì hào quang đi vào rốn, nếu thuyết pháp Thanh văn thì hào quang đi vào miệng, nếu thuyết pháp Độc giác thì hào quang đi vào giữa lông mày, nếu thuyết về Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì hào quang đi vào đảnh. Hào quang này xoay quanh đức Phật ba vòng rồi đi vào miệng Phật. Cụ thọ A Nan Đà chắp tay cung kính bạch Phật:

 

- Thế Tôn! Đức Như lai Ứng cúng Chánh đẳng giác tự nhiên mỉm cười chẳng phải không có nhân duyên.

 

Tôn giả nói kệ thỉnh Phật:

 

    Miệng phóng các hào quang vi diệu,

    Chiếu khắp đại thiên nhiều hình tướng,

    Bao trùm các quốc độ mười phương,

    Như mặt trời sáng khắp hư không,

    Phật là nhân tốt cho chúng sinh,

    Hay trừ kiêu mạn và buồn khổ,

    Có duyên nên từ kim khẩu Phật,

    Mỉm cười chắc giảng việc hy hữu,

    Thế Tôn biết các việc tường tận

    Xin Ngài dạy cho người muốn nghe,

    Như vua sư tử rống sấm lớn,

    Nguyện Ngài giải nghi cho chúng con,

    Như Diệu sơn vương trong biển lớn,

    Nếu không nhân duyên không lay động,

    Đấng Từ bi tự tại mỉm cười,

    Xin Ngài nói rõ nhân duyên ấy.

 

Thế Tôn bảo A Nan Đà:

 

- Đúng vậy! Đúng vậy! Này A Nan Đà, chẳng phải không nhân duyênđức Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác thị hiện mỉm cười. Ông hãy báo cho các Bí-sô, đức Như Lai sắp đi đến nơi Thi Lâm, cụ thọ nào muốn đi theo hãy mặc y.

 

Tôn giả A Nan vâng lời Phật dạy, bảo các Bí-sô:

 

- Cụ thọ nào muốn đi theo Phật đến nơi Thi Lâm, hãy mặc y.

 

Bấy giờ, các Bí-sô cùng đến chỗ Phật . Khi ấy đức Đại sư tự điều phục nên sự điều phục vây quanh; tự tịch tịnh nên tịch tịnh vây quanh, giải thoát nên giải thoát vây quanh, an ổn nên an ổn vây quanh, thiện thuận nên thiện thuận vây quanh, A-la-hán nên A-la-hán vây quanh, ly dục nên ly dục vây quanh, đoan chính nên đoan chính vây quanh, như rừng chiên đàn nên chiên đàn vây quanh, như voi chúa nên các voi vây quanh, như vua sư tử các sư tử vây quanh, như trâu chúa lớn các trâu vây quanh, như vua nhạn các nhạn vây quanh, như Bà-la-môn có học trò vây quanh, như thầy thuốc giỏi có bệnh nhân vây quanh, như đại tướng quân có binh sĩ vây quanh, như bậc thầy dẫn đường giỏi người lữ hành vây quanh, như quốc vương lớn quần thần vây quanh, như chuyển Luân vương ngàn người con vây quanh, như mặt trăng sáng các sao vây quanh, như vầng mặt trời ngàn ánh sáng vây quanh, như Trì quốc thiên vương có chúng Càn thát bà vây quanh, như Tăng trưởng Thiên vương có chúng Cưu bàn trà vây quanh, như Quảng mục thiên vương có chúng rồng vây quanh, như Đa văn thiên vương có chúng Dược xoa vây quanh, như Tịnh diệu vương có chúng A tu la vây quanh, như Đế Thíchchư thiên trời Ba mươi ba vây quanh, như đại Phạm vương có chúng phạm vây quanh, như biển lớn sâu trong suốt yên lặng, như đám mây lớn giăng mù khắp nơi, như voi chúa chấm dứt cơn say cuồng, điều phục các căn uy nghi tịch tịnh, trang nghiêm với ba mươi tướng, tám mươi vẻ đẹp trang sức tự thân, ánh sáng chiếu tròn một tầm rực rỡ hơn ngàn mặt trời, bước đi ổn định chậm rãi như núi báu di chuyển, có đủ mười lực, bốn vô úy đại bi, ba niệm trụ, vô biên phước trí đều đã tu tập, vô lượng công đức đều viên mãn. Lại có Tôn giả A Thận Nhã Kiều Trần Như , Tôn giả Mã Thắng, Tôn giả Bà Sáp Ba, Tôn giả Đại Danh, Tôn giả Vô-Diệt, Tôn giả Xá Lợi Tử, Tôn giả Đại Mục Liên, Tôn giả Ca Nhiếp Ba, Tôn giả A Nan Đà, Tôn giả Hiệt Ly Phạt Để. Có vô số các vị đại Thanh văn và các Bí-sô cùng vô số ức trời người như thế, cung kính vây quanh Thế Tôn, muốn đến Thi Lâm.

 

Du hành theo Phật có mười tám lợi ích thù thắng:

 

    1.- Không sợ vua chúa.

    2.- Không sợ kẻ làm hại.

    3.- Không sợ nước.

    4.- Không sợ lửa.

    5.- Không sợ nước địch.

    6.- Không sợ sư tử hổ lang ác thú.

    7.- Không sợ bị đóng cửa.

    8.- Không sợ thuế bến đò.

    9.- Không sợ thiếu sự che chở.

    10.- Không sợ người.

    11.- Không sợ phi nhân.

    12.- Luôn luôn được thấy chư thiên.

    13.- Được nghe tiếng chư thiên.

    14.- Được thấy ánh sáng lớn.

    15.- Nghe âm thanh thọ ký.

    16.- Cùng nhau lĩnh thọ diệu pháp.

    17.- Cùng hưởng thụ thực phẩm.

    18.- Thân không bệnh khổ.

 

Khi chư thiên cùng đại chúng theo đức Phật đến Thi Lâm, có gió mát thổi ở bốn mặt rừng. Bấy giờ, trong thành Vương xá có hai đồng tử, một thuộc dòng Sát đế lợi, một thuộc dòng Bà-la-môn, đi du ngoạn với nhau. Đồng tử Sát đế lợi rất có tín tâm, đồng tử Bà-la-môn không có kính tín. Đồng tử Bà-la-môn nói với đồng tử Sát đế lợi:

 

- Bạn biết không, đức Như Lai thầy của bạn báo trước vợ trưởng giả Thiện Hiền sinh con trai, làm rạng rỡ gia tộc, có đầy đủ diệu tướng chư Thiên, xuất gia tu tập trong giáo pháp của vị ấy, đoạn trừ các hoặc chứng quả A-la-hán. Nay vợ ông ta đã chết, bỏ thây trong Thi Lâm, chẳng phải lời nói của Thế Tôn không đúng hay sao?

 

Đồng tử Sát đế lợi nói kệ:

 

    Giả sử trăng sao đều rơi rụng,

    Đất núi rừng cây bay lên không.

    Sóng lớn nước biển khô cạn sạch,

    Lời nói Thế Tôn không hư vọng .

 

Đồng tử Bà-la-môn nói:

 

- Nếu như vậy, chúng ta hãy cùng đi đến nơi thiêu thây chết ở Thi Lâm, xét nghiệm hư thật.

 

Đáp:

 

- Ta cùng đi.

 

Khi đồng từ Sát đế lợi trông thấy Thế Tôn, nên nói kệ:

 

    Mâu Ny uy nghi không đùa giỡn,

    Trời người đại chúng đều vân tập,

    Ngài sẽ rống lên tiếng sư tư,

    Chiến thắng lời kẻ khác, không ngại,

    Đại sư đang đến trong Thi Lâm.

    Gió mát thổi khắp nơi hoang dã,

    Vô lượng chúng sinh đều chiêm ngưỡng,

    Mừng nhìn Điều Ngự hiện thần thông.

 

Vua Ảnh Thắng nghe sự việc này: "Thế Tôn dự báo vợ Trưởng giả Thiện Hiền sinh con trai, làm vẻ vang gia tộc, có đầy đủ diệu tướng của chư Thiên, xuất gia tu tập trong giáo pháp của Phật, đoạn trừ các hoặc chứng quả A-la-hán. Nay vợ ông ấy đã chết, bỏ thây nơi Thi Lâm. Đại sư Như Lai và các Thanh văn, đại chúng gần xa cùng đến nơi tống táng".

 

Nhà vua lại suy nghĩ: "Không thể vô cớThế Tôn đi đến Thi Lâm, chắc vì việc của vợ Thiện Hiền, nhân đó điều phục những chúng sinh có duyên. Ta nên đến đó cùng xem việc này". Nhà vua ra lệnh quân đội với nghi vệ, cùng thái tử hậu phi trong cung ... và các tùy tùng đồng ra khỏi thành . Khi đồng tử Sát đế lợi thấy vua Ảnh Thắng, nên nói kệ:

 

     Hãy xem quốc vương ra khỏi thành,

    Cùng với quân đội theo hộ vệ,

    Tôi suy nghĩ rằng đại chúng này:

    Chắc chắn được nhờ lợi ích tốt.

 

Khi thấy đức Thế Tôn, đại chúng liền mở đường phía trước ra. Thế Tôn mỉm cười đi vào trong đại chúng. Nhóm lõa hình đều suy nghĩ: "Kiều Đáp Ma mỉm cười đang đi vào trong chúng, chả lẽ đứa nhỏ này không chết?". Họ bảo trưởng giả:

 

- Đấy là chúng sinh làm hết phước nên thân mạng chưa chết.

 

Đáp:

 

- Thánh giả, nay gặp tai họa này, phải làm sao đây?

 

- Trưởng giả, ta là người xuất gia, giữ gìn giới cấm, chỉ biết niệm thiện, sau này ngươi tự biết.

 

Khi ấy, trưởng giả đưa thây vợ lên giàn củi, châm lửa hỏa thiêu, ngọn lửa rực rỡ đốt cháy toàn thân nhưng chung quanh vùng bụng không bị thương tổn. Ngay trong bụng người mẹ, liền nứt ra mọc lên một hoa sen xanh. Trong hoa sen có một đứa bé thân hình xinh đẹp, an nhiên ngồi yên trông thật đáng yêu. Đại chúng thấy sự việc này rất kinh ngạc thật chưa từng có. Ngoại đạo đều mất hết nhuệ khí, dẹp hết ngã mạn. Đấng Đại sư bảo Trưởng giả Thiện Hiền:

 

- Ông hãy bồng đứa bé trong lửa ra.

 

Trưởng giả vẫn nhìn sang mặt ngoại đạo. Họ bảo trưởng giả:

 

- Ngài vào trong lửa, chắc chắn phải chết.

 

Trưởng giả nghe vậy, run sợ nên không dám vào bồng con. Thế Tôn bảo Thị Phược Ca:

 

- Ông hãy vào lửa bồng đứa trẻ ra.

 

Thị Phược Ca suy nghĩ: "Thế Tôn không sai ta làm việc phi xứ phi thời, ta hãy vào lửa bồng đứa trẻ". Với tâm không sợ, Thị Phược Ca vào bồng đứa bé đang ở trong lửa ra. Chư thiên nói kệ:

 

    Phật dạy vị ấy vào trong lửa,

    Bồng đứa bé ra, không sợ hãi,

    Nhờ thần lực tự tại của Phật,

    Làm cho lửa nóng thành ao mát.

 

Thế Tôn bảo Thị Phược Ca:

 

- Vừa rồi, ông vào lửa, thân có bị thương tổn, cháy phỏng không?

 

- Bạch Thế Tôn! Con sinh ra trong vương cung, lớn lên trong cung, từng thoa thân thể bằng hương ngưu đầu chiên đàn, nhưng chưa có cảm giác mát mẻ như hôm nay.

 

Phật bảo Trưởng giả Thiện Hiền:

 

- Bây giờ, ông hãy bồng con về.

 

Khi ấy, Trưởng giả bị ác kiến che mất tâm trí, nên vẫn không tin, quay lại nhìn ngoại đạo. Bọn tà kiến cùng nói:

 

- Này Trưởng giả, đứa bé này rất ít phước, bẩm tánh hung bạo, lửa có thể ăn tất cả mà không đốt nó được, chứng minh cho biết nó chính là chúng sinh ác độc đầy tội khổ, thấy rõ trước mắt chẳng cần nói nhiều. Nếu mang nó về nhà tất bị tai họa, tánh mạng của ngài chắc chắn bị hại chết.

 

Người trong đời không thương yêu gì hơn thân mạng, Trưởng giả nghe có tai họa liền tránh xa ngay.Khi ấy, Thế Tôn bảo vua Ảnh Thắng:

 

- Đại vương nên nhận lấy đứa bé này.

 

Nhà vua vội vã đưa tay nhận lấy đứa bé, chăm chú nhìn khắp rồi thưa với Thế Tôn:

 

- Nên đặt tên đứa bé này là gì?

 

Phật bảo nhà vua:

 

- Đứa bé này sinh ra từ lửa, vậy đặt tên là Hỏa Sinh.

 

Sau đó, đức Phật tuỳ theo căn cơ sở thích mọi ngườithuyết pháp. Trong chúng có vô lượng vạn ức chúng sinh được hạnh thù thắng, hoặc đắc quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, hoặc xuất gia đoạn trừ các hoặc chứng quả A-la-hán, hoặc đắc noãn đảnh nhẫn thiện căn, hoặc phát tâm thanh văn bồ đề, hoặc phát tâm độc giác bồ đề, hoặc phát tâm vô thượng bồ đề, hoặc quy y Tam bảo, hoặc thọ trì giới cấm, có lòng tin sâu xa. Vua Ảnh Thắng giao đứa bé cho tám bà nhũ mẫu nuôi dưỡng ... nói rộng như chỗ khác.Khi ấy, người cậu lớn của đồng tử Hoả Sinh trước đây đem tài vật mậu dịch ở phương khác, nghe em gái mình có thai, nên rất vui mừng, lại được nghe Thế Tôn dự báo sẽ sinh con trai, làm rạng rỡ cho gia tộc ... v.v ... cho đến ... chứng quả. Ông ta liền bán hàng hóa của mình, thu thập các vật khác rồi trở về thành Vương xá, nghe em gái đã chết nên suy nghĩ: "Thế Tôn thọ ký em ta sinh con trai sẽ được chứng quả, lẽ nào là dối trá không thật?". Ông ta tìm hỏi người lân cận:

 

- Em gái tôi mang thai được Phật thọ ký, nên vui mừng chưa lâu, nay nghe bị chết thật trái với hy vọng trước đây, không thể nào lời Thế Tôn không thật?

 

Người lân cận nói:

 

- Đúng vậy, lời nói của đức Phật đại sư không hư vọng, chỉ vì người chồng tin theo lời ngoại đạo, nên giết cô ấy chết oan uổng. Đứa con sinh ra có uy thần lớn, ở trong lửa cháy nhưng không sao cả, nay đang được nuôi dưỡng trong cung vua.

 

Người cậu nghe như vậy, đi đến gặp Trưởng giả Thiện Hiền, sau khi chào hỏi, nói:

 

- Này trưởng giả, người làm việc phi lý.

 

Đáp:

 

- Tôi đã làm gì?

 

- Người nghe lời ác kiến của kẻ ngoại đạo, em ta có thai, giết cho chết oan, đứa bé được sinh ra có uy thần lớn ở giữa lửa cháy vẫn không bị hại, hiện nay đang được nuôi dưỡng trong cung vua.Việc này đã như vậy, thôi không cần nói nữa, nếu mang đứa bé về đây, ta sẽ dung thứ. Nếu ngươi không làm như vậy, ta sẽ tập họp thân tộc làng xóm xua đuổi ngươi với số thẻ biểu quyết đồng ý mà ngươi không biết hết được, truyền rao tiếng xấu của ngươi khắp các nẻo đường: em ta không có lỗi bị Thiện Hiền giết chết oan uổng. Kẻ giết phụ nữ không được nói chuyện với ai cả, bị pháp luật xử tội hành hình.

 

Trưởng giả nghe vậy, rất đau khổ, suy nghĩ: "Theo lời vừa nói, chắc chắn ông ta không tha cho ta". Trưởng giả đến gặp vua Ảnh Thắng và tâu lên sự việc như vậy ... cho đến bị tội gia hình, cầu mong ngài ban ân cho đồng tử lại. Nhà vua nói:

 

- Ta không nhận đồng tử của ngươi, chính đức Phật Thế Tôn trực tiếp giao cho ta. Nếu ngươi cần nó thì hãy đến hỏi đức Phật.

 

Trưởng giả liền đến gặp đức Phật, lạy sát dưới chân, thưa:

 

- Bạch Thế Tôn! Con bị thân thuộc oán trách rất đau khổ ... nói rộng như việc ở trước ... cho đến bị tội gia hình, cầu Phật từ bi cho con xin đồng tử lại. Thế Tôn suy nghĩ: "Nếu trưởng giả này không nhận được đứa bé, tất trào máu nóng mà chết". Thế Tôn bảo cụ thọ A Nan:

 

- Ông hãy đi cùng trưởng giả đến gặp vua Ảnh Thắng, chuyển lời Ta chúc sức khỏe nhà vua, và nói xin đại vương trả đồng tử Hỏa Sinh lại cho Trưởng giả. Nếu Trưởng giả không nhận được đồng tử tất bị trào máu nóng mà chết.

 

Tôn giả A Nan Đà đến gặp nhà vua trình bày lại hết lời Phật dạy. Nhà vua nói:

 

- Tôn giả là bậc Trẫm tin ngưỡng mộ, kề cận Thế Tôn, con sẽ phụng hành lời Phật dạy.

 

Sau khi chúc sức khỏe nhà vua, Tôn giả A Nan Đà từ giã ra về. Nhà vua bảo Trưởng giả:

 

- Ta vâng lệnh Phật nuôi dưỡng đứa bé này, rất thương yêu nó, nên phải giao ước sau đó ta mới trả lại là cứ ba ngày phải mang lại gặp ta, được vậy thì mang đi tùy ý.

 

Trưởng giả đáp:

 

- Thần không dám trái lệnh.

 

Nhà vua ra lệnh cho mặc thượng y, trang sức đầy đủ với anh lạc, đặt lên voi lớn hộ tống em bé về nhà. Thông thường ở thế gian, khi cha còn sống, danh tiếng của con không rực rỡ, sau khi cha qua đời, đồng tử Hoả Sinh tự quản lý gia nghiệp, rất tín ngưỡng Tam bảo, ngay tại chỗ đất cha hại mẹ ngày trước, xây dựng chùa Tăng trang bị đầy đủ dụng cụ sinh hoạt, cúng dường cho tứ phương Tăng, gọi là Nhu Phúc Lâm. Thế nên trong kinh nói: "Phật ở thành Vương xá, vườn Nhu Phúc Lâm".Trước đây, Thiện Hiền trưởng giả từng sai thương nhân đi buôn bán ở phương khác. Họ nghe Trưởng giả đã qua đời, đồng tử Hỏa Sinh thay cha quản lýù gia nghiệp, có lòng kính tín rộng lớn với Tam bảo. Thương nhân được nhiều bát ngưu đầu chiên đàn thượng diệu, liền mang một bát đựng đầy trân bảo, sai sứ đến dâng cho Hỏa Sinh. Sau khi nhận được, Hỏa Sinh bố trí bát này trên phướn cao, thông báo khắp nơi:

 

- Người nào không dùng thang, bậc cấp, hoặc Sa-môn, Bà-la-môn có uy lực lớn thần thông tự tại lấy được thì tôi tặng bát cho người ấy.

 

Bấy giờ, vào sáng sớm các ngoại đạo đi tắm rửa, thấy ngọn phướn cao nên nói với trưởng giả:

 

- Đấy là vật gì?

 

Trưởng giả liền trình bày hết sự việc. Ngoại đạo đáp:

 

- Trưởng giả xưa nay kính Thích ca tử, ông ta sẽ lấy được không?

 

Ngoại đạo nói xong bỏ đi. Có nhiều vị Bí-sô kỳ túc vào thành khất thực, thấy phướn cao này, đều hỏi trưởng giả:

 

- Đấy là vật gì?

 

Ông ta nói rõ. Bí-sô nói:

 

- Lẽ nào ta vì bát mà khoe tài mình hay sao ?

 

Như Phật dạy:

 

- Che dấu điều thiện phát lộ việc ác , là hạnh người xuất gia.

 

Nói xong, họ bỏ đi. Cụ thọ Thập lực Ca Nhiếp Ba đi ngang qua đó, cũng hỏi trưởng giả:

 

- Đâáy là vật gì?

 

Ông ta cũng nói rõ. Tôn giả suy nghĩ: "Ta sinh tử từ vô thỉ đến nay, đối với phiền não oan gia đã có nuôi dưỡng, ta đều chuyển đổi vứt bỏ không còn gì. Nay ta nên nhận lấy nhân duyên của trưởng giả đã thỉnh mời, làm cho ông ta mãn nguyện. Tôn giả liền đưa tay như vòi voi lớn đến trên ngọn phướn lấy cái bát chiên đàn, mang về trú xứ.Bí-sô thấy hỏi:

 

- Tôn giả được cái bát ngưu đầu chiên đàn thù thắng này ở đâu.

 

Tôn giả kể lại sự việc trên cho các Bí-sô nghe.Các Bí-sô nói:

 

- Chẳng lẽ Tôn giả vì cái bát gỗ này mà hiện thần thông?

 

Đáp:

 

- Đúng hay sai, tôi cũng đã làm rồi, nay biết làm sao?

 

Các Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Bí-sô không được hiện thần lực trước người thế tục. Ai vi phạm bị tội vượt pháp. Nhưng bát có bốn loại là làm bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê. Lại có bốn loại bát là bằng thâu thạch, đồng đỏ, đồng trắng, các loại gỗ. Bốn loại bát trước, nếu trước không có thì không được nhận; nếu đã có sẵn thì phải vứt bỏ. Bốn loại bát sau, nếu trước không có thì không được nhận ; nếu đã có sẵn thì tùy lúc nhận dùng làm tô đựng thuốc. Cần phải biết, bát xử dụng hợp pháp có hai loại là bằng sắt và bằng đất.

 

Về sau, nơi đồng tử Hỏa Sinh xuất hiện đầy đủ diệu tướng của thiên nhân. Từ thành Chiêm Ba đến thành Vương xá, ở giữa có trạm thu thuế. Người thuế quan qua đời sinh vào loài Dược xoa, ban đêm báo mộng với con mình:

 

- Sau khi cha qua đời sinh vào loài Dược xoa.

 

Ngay tại chỗ thu thuế, lập cho cha miếu thờ thần Dược xoa, trước cửa treo một cái chuông rung. Khi có những người nào mang vật đi ngang qua, mà không nộp thuế, chuông rung liền vang lên, thì gọi họ trở lại, lấy thuế rồi cho đi. Vào ngày nọ, người con nói với thân tộc về giấc mộng của mình, rồi cùng nhau xem xét chỗ cần thiết, an trí miếu thần, treo chuông rung bên ngoài. Tại thành Chiêm ba có vợ người Bà-la-môn. Bà ta suy nghĩ: "Bà-la-môn này nhờ vào sự hoạt động, có những tài vật thu thập được, ta thường lấy xử dụng, nay lại ăn không ngồi rồi không làm gì mưu sinh cả, việc này thật không nên". Nghĩ vậy, bà ta vào chợ mua sợi kiếp bối về làm thành sợi mịn, mang đến thợ dệt bảo họ dệt thật đẹp, được hai tấm vải giá trị ngàn đồng tiền vàng, rồi nói với chồng:

 

- Xấp vải này giá trị ngàn đồng tiền, chàng hãy mang ra chợ bán lấy tiền. Nếu có người mua thì tốt, bằng không ai hỏi, nên rao lên: - Trên chợ không người; để đi đến chỗ khác.

 

Người chồng mang xấp vải bán, rao giá ngàn tiền vàng nhưng không ai trả đến giá ấy, nên rao lên rằng chợ không có người. Sau đó, ông ta cuộn xấp vải ấy đặt trong cán lọng tre, rồi cùng đoàn buôn đi đến thành Vương xá. Họ đi dần đến nơi miếu thờ thần Dược xoa. Đợi mọi người đóng thuế xong, người ấy vừa muốn lên đường thì chuông lại rung vang lên. Thuế quan nghe tiếng chuông, bảo nhau:

 

- Chuông đã kêu lên, chắc còn vật chưa nộp thuế, hãy kiểm soát lại chớ cho thất thoát.

 

Họ giữ đoàn buôn lại và kiểm soát kỹ nhưng không có vật nào chưa đóng thuế cả, nên cho đoàn buôn lên đường. Chuông kêu vang nữa. Họ lại kiểm soát kỹ đến lần thứ ba. Đoàn buôn lấy làm lạ và sinh bất mãn tức giận , báo với thuế quan:

 

- Các người muốn chèn ép ta nên bày chuyện giữ lại.

 

Khi ấy, thuế quan phân đoàn buôn làm hai nhóm. Họ giải quyết cho nhóm không có người Bà-la-môn được lên đường thì chuông không kêu. Khi nhóm còn lại lên đường thì chuông lại kêu. Họ lại phân làm hai nhóm như trước để cho đi và giữ lại. Sau đó, đoàn thương nhân đi hết, chỉ còn lại người Bà-la-môn. Bị thuế quan giữ lại không cho lên đường, Bà-la-môn nói:

 

- Hãy xét kỹ bên người tôi có vật gì thì cứ lấy. Sau khi xét kỹ không có vật gì, nên ông ta được đi. Chuông lại kêu, ông ta bị giữ lại nữa. Họ bảo Bà-la-môn:

 

- Dù ông có tài vật, chúng tôi cũng không lấy nữa, hãy nói thật đi, đừng dối với thần linh. Ta muốn nêu cho biết thần minh là Thánh.

 

Bà la môn nói:

 

- Nếu người không dối trá, ta sẽ nói thật.

 

Ông ta lấy trong cán lọng ra hai tấm vải. Thấy vậy, thuế quan rất kinh ngạc, khen việc lạ:

 

- Lành thay thần minh báo việc không sai. Thuế quan lấy ra một tấm khoác lên cho thần. Bà-la-môn nói:

 

- Các ngài đã nói rõ là không lấy thuế , nay xem hình như muốn lấy hết của tôi.

 

Đáp:

 

- Đừng sợ, ta không lấy vật, chỉ muốn biểu dương lời nói của đại thần không hư vọng, nên tạm thời đem một tấm để báo ân thần rồi sẽ trả lại để người mang đi.

 

Sau khi nhận lại xấp vải, Bà-la-môn cuộn để vào cán lọng rồi lên đường, đến thành Vương xá, đi vào chợ, trương xấp vải lên đòi giá ngàn đồng tiền vàng, nhưng cuối cùng không có ai đến trả đúng giá, nên ở giữa chợ rao lên:

 

- Đây không có chợ.

 

Khi đồng tử Hỏa Sinh ra khỏi vương cung, cỡi voi vào phố chợ, muốn đi về nhà, nghe tiếng rao nên hỏi:

 

- Người ấy vì sao mà rao lên không có chợ, hãy gọi ông ta lại cho ta hỏi.

 

Bà-la-môn đến, Hỏa Sinh hỏi:

 

- Tại sao người nói trong thành không có chợ.

 

Đáp:

 

- Tôi có hai tấm vải, trị giá đến ngàn tiền vàng, nhưng không có ai trả giá.

 

- Hãy mang lại đây cho ta xem thử.

 

Ông ta mang đến trình ra. Hỏa Sinh bảo:

 

- Một tấm còn mới, một tấm đã mặc rồi, ta trả giá tấm đã mặc hai trăm năm mươi tiền vàng, tấm chưa mặc năm trăm tiền.

 

Người Bà la môn nói:

 

- Ý gì mà nói vậy, cả hai tấm đều chưa dùng.

 

Hỏa Sinh nói:

 

- Hãy cho người xem để nghiệm rõ hư thật, lấy tấm chưa dùng mở ra tung lên không trung thì nó trụ lại như cái lọng rơi xuống từ từ, còn cái đã dùng thì rơi ngay xuống đất.

 

Người chủ thấy vậy cho là việc ít có, nói:

 

- Trưởng giả, ngài có trí lớn thần tuệ siêu quần.

 

Hỏa Sinh lại bảo:

 

- Tấm chưa dùng để trên gai, mũi nhọn không xuyên qua được. Tấm đã dùng rồi tất bị mũi gai châm vào.

 

Sự thật đúng như lời nói. Người Bà la môn lại cho là hy hữu, nói:

 

- Trưởng giả thông minh trí thức, thật chưa từng có, theo giá đã trả, ngài hãy lấy xấp vải đem về.

 

Hỏa Sinh nói:

 

- Ngài là người khách buôn, xin trả hết cho không bớt giá làm gì.

 

Nhận đủ cả ngàn đồng tiền, Bà-la-môn vui mừng ra đi.

 

Khi ấy trưởng giả đưa xấp vải đã xử dụng cho gia nhân mặc, và dùng xấp chưa mặc là áo tắm.

 

Một hôm, vua Ảnh Thắng cùng các đại thần lên lầu cao. Y phục vừa giặt xong của Hỏa Sinh phơi ở góc lầu bị gió thổi bay đến trước mặt vua. Vua nói:

 

- Y phục này của chư Thiên dùng, ở đâu bay lại đây?

 

Đại thần tâu:

 

- Thần từng nghe, ngày xưa có vị vua tên Mạn đà la, trời mưa vàng vật báu trong bảy ngày. Nay, có y rơi xuống cho vua, chắc không lâu vàng sẽ đến.

 

Nhà vua nói:

 

- Ta nghe trưởng giả Hỏa Sinh được Phật thọ ký có đầy đủ diệu tướng của trời người. Y trời tốt đẹp này từ trên không trung rơi xuống. Chờ trưởng giả đến, ta sẽ tặng.

 

Khi Hỏa Sinh đến, vua bảo:

 

- Thế Tôn thọ ký khanh có tướng tốt của trời người. Y trời này từ không trung bay xuống, khanh hãy lấy mặc.

 

Sau khi đưa tay nhận lấy y của vua, Hỏa Sinh xem kỹ, biết là vật của mình, nên mỉm cười, tâu:

 

- Đại vương, ngài đã tiếp xúc với vật này chưa?

 

Đáp:

 

- Rồi.

 

- Ngài đã cầm y phục bẩn xin hãy rửa tay. Đây không phải là y phục của trời, mà là khăn tắm của hạ thần.

 

Vua hỏi:

 

- Làm sao biết được?

 

Đáp:

 

- Ngoài ra còn một tấm nữa cho gia nhân mặc giống như cái này, ngài có thể nghiệm được.

 

Nhà vua thấy vậy rất làm kỳ lạ, bảo với đồng tử:

 

- Hiện nay, diệu tướng của trời đã xuất hiện nơi khanh hay chưa?

 

Đáp:

 

- Đã xuất hiện.

 

- Như vậy, tại sao không mời ta đến nhà khanh?

 

Đáp:

 

- Nếu đại vương cho phép, hôm nay thần xin thỉnh ngài.

 

Vua nói:

 

- Khanh hãy về nhà chuẩn bị thức ăn uống.

 

- Đại vương, nếu người có tướng đẹp của trời xuất hiện thì họ tự nhiên không phải làm lụng lao nhọc, ngay bây giờ xin cung thỉnh ngài đến dự tiệc tại nhà.

 

Đến cổng nhà của trưởng giả, vừa thấy người tớ gái, nhà vua liền nhìn xuống đất. Trưởng giả thưa:

 

- Vì sao ngài nhìn xuống đất?

 

Vua đáp:

 

- Ta tránh vợ khanh.

 

Đáp:

 

- Đó là người giúp việc ở ngoài, không phải vợ của thần.

 

Vua nói:

 

- Thật hiếm có!

 

Sau đó lại thấy phụ nữ trong nhà, vua cũng nhìn xuống. Trưởng giả lại hỏi, vua đáp như trước.

 

- Đó cũng là người phục vụ, không phải vợ thần.

 

Nhà vua nghe nói lấy làm kỳ dị. Khi vào cửa trong, thấy nền đất lưu ly trong suốt như ao nước trong, ngay trên cửa có bố trí cá máy, bóng hiện trong đất, vua cho là ao nước, nên tháo giầy ra.

 

Hỏa Sinh thưa:

 

- Vì sao đại vương tháo giầy?

 

Vua đáp:

 

- Sắp đi qua nước, nên sợ ướt giầy.

 

Hỏa Sinh thưa:

 

- Đây là mặt đất lưu ly, không phải là nước.

 

Vua hỏi:

 

- Vì sao có cá bơi lội?

 

Đáp:

 

- Không phải cá thật, chỉ là bóng cá máy.

 

Vua không tin, liền tháo chiếc nhẫn ném xuống đất. Nhẫn chạm đất vang tiếng kêu và lăn sang một bên. Nhà vua lại trầm trồ mãi và lên tòa sư tử. Khi ấy, những người trong nhà đều ra bái yết vua. Chưa kịp đứng lên thì những người nữ đều chảy nước mắt. Vua hỏi Hỏa Sinh:

 

- Vì sao những người trong nhà thấy ta thì rơi nước mắt?

 

Đáp:

 

- Không phải họ khóc! Vì y phục của vua được xông ướp bằng khói hương chiên đàn trầm thủy, mùi khói này làm hại con ngươi họ làm cho chảy nước mắt.

 

Khi ấy, vua Ảnh Thắng hưởng thụ diệu lạc thù thắng khó tưởng được như cõi trời, nên thích thú không chán, chẳng chịu về cung, bỏ phế tất cả việc triều chính . Các đại thần tâu với thái tử Vị Sinh Oán:

 

- Đại vương nước ta vào nhà trưởng giả Hỏa Sinh, tham đắm dục lạc không chịu về triều. Cầu xin thái tử đến đó thỉnh đại vương trở về.

 

Vị Sinh Oán đến gặp nhà vua tâu:

 

- Đại vương, vì sao ngài ở đây không nhìn lại cơ đồ?

 

Nhà vua bảo thái tử:

 

- Chẳng lẽ khanh không thể đảm đương được việc nước trong một ngày hay sao?

 

Thái tử tâu:

 

- Đại vương nói chỉ có một ngày hay sao! Ngài xuất cung đến nay đã bảy ngày.

 

Nghe nói vậy, vua nhìn vào mặt Hoả Sinh, nói:

 

- Thật đã bảy ngày à!

 

Đáp:

 

- Tâu đại vương, đúng vậy.

 

Vua nói:

 

- Như vậy, làm sao phân biệt được ngày đêm?

 

Hỏa Sinh tâu:

 

- Đại vương, nhờ thấy hoa nở và khép, ngọc báu sáng và không sáng, chim có hót hay không nên biết đó là ngày hay đêm.

 

Vua nói:

 

- Nhưng ta vẫn chưa biết.

 

Đáp:

 

- Có loại hoa đêm nở ngày khép, loại đêm khép ngày nở. Có loại ngọc đêm tối ngày sáng, loại đêm sáng ngày tối. Có loại chim hót về đêm, loại hót về ban ngày.

 

Nhà vua nghe nói rất lấy làm kỳ dị, nói với đồng tử:

 

- Lời của Đại sư Thế Tôn thật không hư dối, đúng như những điều Ngài báo trước, nay khanh đều có hưởng thụ cả.

 

CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ

TỲ NẠI DA TẠP SỰ.

 

Quyển thứ hai hết.

 

--- o0o ---

Quyển thứ ba

 

--- ooOoo ---

 

Thái tử Vị Sanh Oán đi vào nhà Trưởng giả Hỏa Sinh, thấy ngọc báu đẹp nên lén lấy đưa cho tùy tùng, khi vào trong nhà bảo họ:

 

- Hãy đưa châu báu lúc nãy cho ta.

 

Tùy tùng mở tay ra chỉ thấy tay không, nên đáp:

 

- Không biết châu báu đi đâu mất!

 

Thái tử giận đánh người tùy tùng. Hỏa Sinh nói:

 

- Họ bị giận đánh vì tội gì vậy?

 

Đáp:

 

- Ta là giặc nhỏ, nó là giặc lớn. Ta lén lấy bảo châu trong nhà khanh, bị kẻ tiểu nhân này trộm lại.

 

Hỏa Sinh nói:

 

- Không phải thái tử trộm cũng chẳng phải kẻ kia cắp. Sau khi thái tử lấy, vật ấy lại trở về chỗ cũ. Thưa thái tử! tài sản trong nhà thần là vật của thái tử, cần bao nhiêu tùy ý lấy mang đi, vì sao lén lấy?

 

Thái tử im lặng suy nghĩ: "Sau khi cha ta qua đời, ta sẽ lấy tất cả".

 

Khi Vị Sanh Oán bị bạn ác là Đề Bà Đạt Đa xúi giục, phản nghịch giết hại phụ vương, tự xưng là quán đảnh đại vương, làm chủ nước Ma kiệt đà, bảo với Hỏa Sinh:

 

- Khanh là em ta, hãy cùng nhau phân chia tài sản.

 

Hỏa Sinh suy nghĩ: "Kẻ giết người cha anh minh của mình để tự lên ngôi, lẽ nào lại dung thứ cho ta! Nay ác vương này muốn đoạt nhà cửa của ta, nên đồng ý trước". Suy nghĩ xong, Hỏa Sinh bảo:

 

- Đại vương, trước đây thần đã có ý dâng hết nhà cửa tài sản cho ngài, vậy còn phân làm gì, cầu xin đại vương đến ở trong nhà của thần, thần đi đến vương cung, mong ngài chấp nhận.

 

Vua phán:

 

- Lành thay! làm theo ý khanh.

 

Nhà vua chuyển Hoả Sinh vào vương cung, những vật tốt đẹp đều chuyển theo vào trong cung. Di chuyển qua lại như vậy đến bảy lần, vật tốt vẫn theo Hỏa Sinh, vật xấu theo sau nhà vua.

 

Bấy giờ, vua Vị Sanh Oán suy nghĩ: "Ta không thể lấy được vật báu của Hỏa Sinh, hãy làm thủ thuật khác để lấy cho được".

 

Nhà vua bảo kẻ trộm:

 

- Ngươi hãy vào nhà Hỏa Sinh lấy trộm bảo châu.

 

Người kia nghe lời, làm móc sắt trèo lên tường muốn vào nhà. Người nhà trông thấy, gọi lớn: "Có trộm có trộm." Hoả Sinh nghe nói, ý không muốn cho trộm đi, nên bảo:

 

- Hãy giữ trộm lại.

 

Tên trộm bị dính chặt trên đầu tường, không thể leo xuống được. Đến sáng, mọi người cùng lại xem, hỏi:

 

- Vì sao ngươi đến đây?

 

Đáp:

 

- Nhà vua sai tôi đến trộm vật báu của Hỏa Sinh.

 

Mọi người đều tức giận, cho rằng:

 

- Đấy chính là kẻ ác, đã giết oan vua pháp vô tội, nay còn sai trộm đến đoạt ngang tài sản của người. Tội lỗi này quá sâu, làm sao tha thứ được.

 

Nhà vua nghe sự việc như vậy, sai sứ giả đến gặp Hỏa Sinh nói:

 

- Hãy thả người ấy ra không được làm hại.

 

Khi Hỏa Sinh muốn thả nên bảo tên giặc hãy đi đi. Tên ấy liền được thoát. Hỏa Sinh suy nghĩ: "Kẻ kia có thể giết cha mình, thật không có chuyện không hại ta, lẽ nào vì tài sản mà bỏ mạng hay sao? Vã lại trước đây ta đã được Thế Tôn thọ ký xuất gia tu tập trong giáo pháp của Ngài, đoạn trừ các hoặc, chứng quả A-la-hán. Vậy ta nên bỏ tục xuất gia, đem tất cả tài bảo trong nhà bố thí hết cho người cô độc đi xin, làm những người nghèo khổ đều được sung túc". Sau khi từ giã thân bằng quyến thuộc bạn bè xong, trưởng giả Hỏa Sinh đến gặp đức Phật, lạy sát chân Ngài, ngồi qua một bên chắp tay cung kính bạch:

 

- Thế Tôn, xin Ngài cho phép con được xuất gia trong pháp luật thiện thuyết và thọ cận viên thành tựu tánh Bí-sô, tịnh tu phạm hạnh phụng sự Thế Tôn.

 

Phật thấy như vậy, bảo:

 

- Này Bí-sô hãy đến đây tu tập phạm hạnh.

 

Hỏa Sinh nghe như vậy xong, râu tóc tự rụng như đã cắt bỏ được bảy ngày, thân mặc pháp y, bình bát có nơi tay, uy nghi đầy đủ như Bí-sô một trăm tuổi hạ. Có bài tụng:

 

    Thế Tôn gọi con đến .

    Tóc rụng, mặc pháp y,

    Các căn được thanh tịnh.

    Theo Phật, ý thành tựu.

 

Được Thế Tôn tùy căn cơ dạy bảo, Tôn giả tinh tấn cần tu quán sát năm đường sinh tử luân hồi di chuyển không ngừng, các hành hữu vi đều không bền vững, là pháp đáng chán, thường bị phá hoại, hoan lạc tạm thời, chịu khổ lâu dài, tuy có quả báo cõi trời cuối cùng cũng tan rã, quán sát thấy rõ như vậy nên đoạn trừ các hoặc nghiệp, đắc quả A-la-hán ba minh sáu thông, đủ tám giải thoát, biết rõ như thật:

 

- Ta sinh đã hết, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không còn đời sau. Tâm không còn chướng ngại như tay quơ trong khoảng không, bị dao cắt không giận, được thoa hương không tham đắm, xem vàng và đất như nhau, không còn vương vấn danh lợi, Thích Phạm chư thiên đều cung kính.

 

Khi ấy, các Bí-sô đều sinh phân vân, nói với nhau:

 

- Chỉ có đức Phật Thế Tôn mới phá được lưới nghi ngờ, chúng ta hãy cùng hỏi.

 

Họ cùng đến gặp Phật thưa:

 

- Thế Tôn, trước đây trưởng giả Hỏa Sinh tạo nghiệp gì, do quả báo của nghiệp ấy được sinh vào nhà giàu có hưởng thụ đầy đủ; lại vì nghiệp gì mà bị lửa đốt với mẹ trong một lần; nhờ nghiệp gì mà sinh trong loài người lại được hưởng thụ diệu tướng cõi trời; lại do nghiệp nào được xuất gia tu tập trong Phật pháp, đoạn trừ phiền não chứng quả A-la-hán?

 

Thế Tôn dạy:

 

- Này các Bí-sô hãy lắng nghe, những nghiệp đồng tử Hỏa Sinh đã tạo, được hưởng thụ như nói rõ ở trên. Các thầy nên biết, về quá khứ cách đây 91 kiếp có Phật ra đời hiệu Tỳ Bát Thi Như Lai, Ưùng cúng, Chánh đẳng giác, đầy đ? mười hiệu, cùng đại chúng Bí-sô sáu mươi hai ngàn vị, lần lượt du hành đến một thành tên Thân Tuệ, vua hiệu Hữu Thân. Cách đó không xa có rừng Thân Tuệ, đức Phật và các Bí-sô trú ở đó.

 

Nhà vua có phước đức lớn, đất nước an ninh, nhân dân phồn thịnh không có chiến tranh, là vị đại pháp vương như trên đã nói.Trong thành có một Trưởng giả tên Thiên Phận rất giàu nhiều tài sản hưởng thụ sung túc có thể sánh với Tỳ sa môn thiên vương. Trưởng giả suy nghĩ: "Tuy ta thường thỉnh Phật Tỳ Bát Thi và các thánh chúng thọ trai phạn thơm ngon, nhưng chưa bao giờ cúng dường bốn vật dụng trong ba tháng an cư. Nay ta nên thỉnh Phật và Tăng, cúng dường tất cả những nhu cầu sinh hoạt cần thiết trong ba tháng an cư". Sau khi suy nghĩ, Trưởng giả đến gặp Phật lạy sát chân Ngài, ngồi qua một bên. Đức Phật dùng các phương tiện giảng thuyết pháp yếu, chỉ dạy làm cho lợi ích hoan hỷ. Sau khi thuyết pháp, đức Phật yên lặng.

 

Khi ấy Thiên Phận rời khỏi chỗ ngồi, bạch Phật:

 

- Thế Tôn! Cầu xin Ngài từ bi thương xót nhận cho con được cúng dường ẩm thực, y phục, ngọa cụ, y dược trong ba tháng an cư.

 

Đức Phật im lặng nhận lời thỉnh của ông ta.

 

Thấy Phật đã nhận lời, Trưởng giả lạy sát chân Phật từ giã. Quốc vương Hữu thân nghe đức Tỳ bát thi Như Lai cùng đại chúng đến nước mình đang ở trong rừng, nên suy nghĩ: "Ta tuy thường thỉnh Phật và tăng vào cung cúng dường, nhưng chưa cúng dường tứ sự trong ba tháng an cư. Nay ta muốn thỉnh Phật và tăng cúng dường ba tháng". Nhà vua đến gặp đức Phật, lạy sát chân Ngài, ngồi qua một bên. Đức Phật thuyết pháp vi diệu cho nhà vua, làm cho lợi ích hoan hỷ, sau đó im lặng. Nhà vua đứng dậy, chắp tay cung kính bạch Phật:

 

- Con tuy thường thỉnh Phật và Tăng vào cung thọ trai, nhưng chưa cúng dường tứ sự trong ba tháng an cư. Cầu mong Thế Tôn và các đại chúng thương xót nhận lời con được cúng dường đầy đủ tứ sự trong ba tháng.

 

Phật dạy:

 

- Đại vương! Ta đã nhận lời thỉnh cúng dường ba tháng của trưởng giả Thiên Phận.

 

Vua nói:

 

- Nếu Phật không nhận lời vì thọ sự cúng dường của Thiên Phận, con xin bàn bạc lại, chắc ông ta đồng ý.

 

Phật dạy:

 

- Nếu ông ta đồng ý, Ta sẽ thọ thỉnh.

 

Vua nghe Phật dạy, lạy sát chân từ giã. Sau khi về cung, nhà vua liền sai sứ giả đến triệu Trưởng giả Thiên Phận. Khi trưởng giả đến, nhà vua bảo:

 

- Trưởng giả! Ông biết không, ta muốn thỉnh Phật và Tăng để chính mình cúng dường trước, ông sẽ cúng lần sau; việc này cũng không muộn.

 

Đáp:

 

- Đại vương, thần đã thỉnh Phật và Tăng trước rồi, đã có ý này xin nguyện được phép không làm trái lại.

 

Vua nói:

 

- Trưởng giả, tuy là như vậy, nhưng ông là người trong nước của ta, đem lý ra cân nhắc thì nên nhường ta trước.

 

Trưởng giả tâu:

 

- Đại vương, tuy thần là người của vua, nhưng xét cạn lý thì thần thỉnh trước, nếu vua cố ép thì trái với đạo nghĩa.

 

Vua nói:

 

- Trưởng giả! Không do ham muốn nên được toại ý, nhưng trẫm cùng trưởng giả thiết cúng cách nhật, nếu người nào làm thức ăn ngon hơn thì họ tùy ý được thỉnh nữa.

 

Trưởng giả thưa:

 

- Xin vâng.

 

Ngay đêm ấy, trưởng giả liền chuẩn bị các món ăn uống thượng hạng thơm ngon đặc biệt.Vào buổi sáng, tại nơi thiết trai, Trưởng giả dùng bình lớn chứa nhiều nước sạch, sai người đến bạch Phật:

 

- Thức ăn đã dọn xong, xin Ngài biết thời gian.

 

Vào sáng sớm, đức Phật Tỳ Bát Thi mặc y mang bát cùng Tăng chúng tùy tùng đến nhà trưởng giả Thiên Phận, an tọa vào nơi dọn tiệc trai. Sau khi thấy đức Phật an tọa, Trưởng giả tự tay dâng các loại cúng dường lên Phật và chúng Tăng, ân cần tiếp đãi như vậy, khi biết mọi người đã no đủ, dâng tăm xỉa răng, nước súc miệng và thu xếp bát xong, đặt một chiếu nhỏ ngồi trước Phật để nghe pháp. Thế Tôn tùy theo căn cơ, thuyết pháp vi diệu làm cho Trưởng giả được lợi ích hoan hỷ, sau đó từ giã. Đến lượt nhà vua thiết cúng, cũng bày biện các món cúng dường như trước ... cho đến từ giã. Như vậy, họ luân phiên cúng dường không có ai hơn kém cả. Nhà vua thấy sự việc như vậy nên chống tay lên mặt buồn rầu. Thấy sắc diện vua ưu buồn, các đại thần tâu:

 

- Vì sao đại vương có sắc buồn như vậy?

 

Đáp:

 

- Hiện nay làm sao ta không buồn được, người khách trong nước của ta cúng dường Phật và Tăng mà ta không hơn được nên lo buồn.

 

Đại thần tâu:

 

- Nhà của Trưởng giả Thiên Phận không có củi, phải mua để nấu ăn. Vậy ta không cho người bán củi bán cho họ thì làm sao họ nấu thức ăn được.

 

Nhà vua ra lệnh:

 

- Những người trong nước không được bán củi cỏ. Ai vi phạm bị đưa ra khỏi nước.

 

Đến ngày cúng dường tìm không có củi để nấu thức ăn, Trưởng giả liền dùng gỗ thơm chiên đàn trong nhà để thổi lửa bếp, lại dùng dầu thơm thoa lên vải để nấu thức ăn, do đó, mùi thơm bay khắp cả thành.

 

Nhà vua lấy làm lạ hỏi:

 

- Vì sao hôm nay có mùi thơm tỏa khắp khác với ngày thường, từ đâu bay đến vậy?

 

Mọi người đem sự việc tâu lên vua.

 

Nhà vua nói:

 

- Ta không thể bỏ việc này .

 

Đại thần can gián:

 

- Đại vương vì sao phải làm như vậy, Trưởng giả không có con, sau khi qua đời tài vật đều thuộc về ngài, được như vậy tùy ý xử dụng. Nay nhà vua nên thu hồi lệnh cấm bán củi, cho phép họ bán lại.

 

Trưởng giả nghe nhà vua cho phép bán củi, nên tức giận nói ra lời ác:

 

- Theo số gỗ thơm hiện có trong nhà ta, khiến cho thiêu đốt vua cùng mẹ trong một chỗ.

 

Sau đó vào ngày khác, vua lại ưu sầu, quần thần thưa hỏi, vua đáp như trước.Quần thần tâu:

 

- Xin chớ lo buồn, thần sẽ có cách làm cho Trưởng giả cúng dường không bằng đại vương.

 

Vào ngày vua tổ chức cúng dường, trong nội thành, các đại thần liền dọn sạch gạch đá, quét dọn các nẻo đường, rưới nước thơm, xông hương thơm, treo tràng phan cờ lọng khắp nơi, rãi các loại hoa đẹp trên đất, trang trí rất hài lòng như ở vườn Hoan hỷ, thứ đến làm nhà ăn to lớn tráng lệ, bố trí chỗ ngồi ăn với nghi vệ quý báu trang nghiêm, treo tua vải rực rỡ che trên chỗ ngồi, thoa dầu thơm bột thơm vào chỗ đã lau chùi, dọn thức ăn mềm mại như cam lộ cõi trời, các loại mỹ vị thơm ngon hơn cả trân tu ở thế gian, để cung kính dâng lên cúng Phật và tăng. Khi ấy, các đại thần cùng tâu lên vua:

 

- Chúng thần cùng nhau hết sức trang hoàng thành phố, dọn thức ăn thịnh soạn như vậy, đại vương nên phát tâm vui mừng.

 

Sau khi đích thân xem xét, vua cho là rất hiếm có, liền sai sứ đến gặp Thế Tôn, bạch:

 

- Bữa ăn đã dọn xong, xin Phật định liệu.

 

Đức Phật và các Tỳ kheo mặc y mang bát đi đến vương cung, vào chỗ trai diên an tọa. Nhà vua ra lệnh cho voi lớn quán đảnh cầm lọng có trăm nan che trên đức Phật Thế Tôn. Ngoài ra, các voi khác đều cầm từng lọng che trên Bí-sô. Đại phu nhân của nước cầm quạt báu quạt mát cho Phật. Những người trong cung quạt cho các Bí-sô. Đích thân vua và đại thần bưng các thứ cúng dường dâng lên Phật và Tăng ... như nói ở trên. Khi ấy, Trưởng giả Thiên Phận sai gia nhân:

 

- Ngươi hãy đến chỗ nhà vua thiết cúng, lén xem thức ăn uống ngon dỡ thế nào.

 

Sứ giả đến thấy sự thịnh soạn của bữa tiệc nên quên cả về. Sứ giả thứ hai, thứ ba cũng vậy.Bấy giờ, Trưởng giả đích thân đến xem, thấy sự thịnh soạn của bữa tiệc nên lấy làm hy hữu, suy nghĩ: "những thức cúng dường thơm ngon này, sức ta có thể làm được, nhưng voi và cung nhân thì ta làm sao có được!" Sau khi suy nghĩ, Trưởng giả về nhà, bảo người giữ cửa:

 

- Nếu thấy người ăn xin nào đến, cần gì thì giúp nhưng không cho vào nhà. Trưởng giả vào phòng, ưu sầu buồn bã. Khi ấy, Thiên Đế Thích thường dùng thiên nhãn quán sát thế gian, thấy Trưởng giả Thiên Phận đang ưu sầu ở trong phòng, xét biết tâm niệm ông ta nên suy nghĩ: "Đức Phật là ruộng phước số một trong thế gian, Thiên Phận là đại thí chủ đứng đầu, ta nên tương trợ cho ông ấy". Đế Thích hóa ra một vị Bà-la-môn, đến nhà Trưởng giả, bảo người giữ cửa:

 

- Ngươi hãy đi báo với Trưởng giả, có đại Bà-la-môn giòng Kiều Thi Ca đang ở ngoài cửa cần gặp trưởng giả.

 

Người giữ cửa bảo:

 

- Trưởng giả bảo tôi canh giữ cửa này, thấy người đến xin, cần gì thì cho nhưng không cho vào; cần gì tôi sẽ cho, tùy ý mang đi, phiền gì phải gặp cho được trưởng giả?

 

Người kia đáp:

 

- Tôi không xin gì cả nhưng có chuyện cần phải gặp Trưởng giả.

 

Sứ giả vào thưa:

 

- Bên ngoài có đại Bà-la-môn giòng Kiều Thi Ca nói, không xin gì cả chỉ cần gặp Trưởng giả.

 

Trưởng giả nói:

 

- Hãy bảo người ấy muốn gì thì tùy ý cho mang đi, cần gì phải cố gặp ta?

 

Thưa:

 

- Đúng như lời ngài đã dạy, con đã bảo họ rồi, nhưng họ nói có việc cần thiết muốn gặp Trưởng giả.

 

- Nếu vậy, hãy cho họ vào.

 

Sau khi được người giữ cửa đưa vào, Bà-la-môn thấy Trưởng giả ưu sầu nên hỏi:

 

- Vì sao ngài chống tay lên má dáng điệu ưu sầu như vậy?

 

Trưởng giả nghe hỏi, nói kệ đáp:

 

    Ai giải tỏa được buồn,

    Mới nói chuyện với họ

    Họ không xóa hết buồn

    Nói với họ làm gì?

 

Thiên Đế Thích hỏi:

 

- Trưởng giả có việc gì buồn, tôi có phương pháp giải buồn được.

 

Trưởng giả liền kể lại sự việc xảy ra, Thiên Đế Thích hiện lại nguyên hình, bảo Trưởng giả:

 

- Ta sai Xảo Diệu Thiên ở trên đến đây giúp đỡ.

 

Nói xong,Thiên Đế Thích biến mất. Về đến thiên cung, Thiên đế bảo Xảo Diệu Thiên:

 

- Ông hãy đến Thiệm Bộ Châu, giúp đỡ cho Trưởng giả Thiên Phận.

 

Đáp:

 

- Lành thay!

 

Vào sáng sớm, Xảo Diệu Thiên đến thành ấy, tùy ý biến hóa trang hoàng đường sá với sự kỳ lạ siêu tuyệt, các loại trang sức hơn cả của vua, nhà ăn tọa cụ khéo léo đẹp như cõi trời, thức ăn uống đều nấu từ bếp trời, sai voi lớn cầm lọng có trăm nan che hầu đức Phật Tỳ Bát Thi, các voi khác cầm lọng hầu các Bí-sô, trong nhà thiên nữ cầm quạt mát đức Phật, các thiên nữ khác cầm quạt hầu chúng Bí-sô. Nhà vua cũng sai sứ giả lén đến quan sát, xem Trưởng giả cúng dường như thế nào. Sứ giả đến thấy sự việc kỳ lạ đặc biệt như vậy nên quên cả về. Vua sai đại thần, rồi cũng như vậy. Đến lượt thái tử cũng không trở về. Nhà vua quái lạ việc này nên tự đến cửa nhà Trưởng giả. Thế Tôn thấy vua đến, bảo với Trưởng giả:

 

- Đây là vị vua đã thấy chân đế, ông đã nói lời thô ác với vị ấy. Vua đang ở ngoài cửa, ông hãy ra xin lỗi.

 

Trưởng giả liền ra ngoài xin lỗi vua, tâu:

 

- Đại vương, xin thỉnh ngài tạm vào nhà, tự tay cúng dường.

 

Vua vào nhà, thấy bếp trời nấu món thượng diệu nên rất lấy làm hy hữu, bảo với Trưởng giả:

 

- Từ nay ngài có thể cúng Phật và Tăng hằng ngày, chẳng phải là việc mong cầu của trẫm.

 

Sau khi cúng dường Phật và Tăng với các thức ăn thịnh soạn như vậy, Trưởng giả đảnh lễ sát chân Phậtphát nguyện:

 

- Con cúng dường phước điền tối thượng, nguyện nhờ thắng duyên này, trong đời tương lai con thường được sinh vào nhà đại phú quý, tài sản sung túc hưởng thụ diệu tướng cõi trời, nhận được pháp thù thắng, thoát khỏi triền cái. Con sẽ thừa sự bậc Đại sư Như thị, tâm không nhàm chán.

 

- Này các Bí-sô chớ có ý hoang mang, trưởng giả Thiên Phận thời ấy, nay chính là Hỏa Sinh. Do nói lời thô ác với nhà vua kia: "Đem lửa chiên đàn đốt cả mẹ con", với sức nghiệp này nên bị đốt chung với mẹ trong năm trăm đời. Nhờ thiện nghiệp cúng dường lên Phật Tỳ Bát Thi và phát nguyện nên thường được sinh trong nhà đại phúù quý, tài sản vô số, các diệu tướng cõi trời tự nhiên xuất hiện, xuất gia tu tập trong giáo pháp của Ta, đoạn trừ hết phiền não, chứng quả A-la-hán.

 

- Này các Bí-sô, thần thông đạo lực của Ta cùng với Phật Tỳ-Bát-Thi bình đẳng nhau. Ai đối với Ta cúng dường thừa sự với tâm ân cần, tất đạt được kết quả thù thắng. Như vậy nên biết rằng, nếu gây nghiệp hoàn toàn đen thì bị quả báo thuần đen ... rộng như nói ở trên.

 

Các Bí-sô nghe lời Phật dạy, tín thọ phụng hành.

 

 

 

Nhiếp tụng thứ ba trong biệt môn thứ nhất:

 

    Chuyết bát súc tư cụ

    Đao tử cập châm đồng

    Tinh y trinh hữu tam

    Thị đại tiên khai hứa.

 

* Một thời Phật ở thành Thất La Phiệt. Bát bị nứt, Bí-sô đem đến thợ thiết, bảo:

 

- Hiền thủ, bát tôi bị nứt, xin vá lại cho tôi.

 

Người thợ thiết suy nghĩ: "Những đệ tử của Thích Ca đều ở không, chẳng trả tiền chỉ muốn sai làm giùm. Nếu ta làm, thì họ lại tiếp tục đến nữa, làm cho họ mãi, tất công việc của ta bị bỏ bê, chẳng biết lúc nào xong,vậy ta hãy kéo dài thời gian". Nghĩ vậy, người thợ nói:

 

- Thánh giả, tôi đang bận, ngày mai hãy đến.

 

Ngày mai Bí-sô đến, thợ lại bảo ngày sau, hoặc sáng hoặc chiều ... ngày nào cũng như vậy, cố ý dối trá để kéo dài thời gian làm cho Bí-sô mệt nhọc. Có Bí-sô bạn thấy vậy hỏi:

 

- Cụ thọ, hằng ngày thấy thầy đến nhà này, có phải họ là môn đồ hay quen thân với thầy không?

 

Đáp:

 

- Đại đức! Nhà này không phải là môn đồ hay là người quen thân của tôi. Tôi có bát nứt nhờ họ sửa chữa, họ tìm cách gạt tôi, nên phải thường đến đây.

 

Đáp:

 

- Cụ thọ, thầy không nghe lời tục nói hay sao,thợ trẻ giỏi khéo, khó nói lời thật. Nhưng tôi biết làm, nếu Phật cho phép tôi sẽ vá lại cho ngài.

 

Họ đem việc này bạch Phật. Phật dạy:

 

- Bí-sô nào biết làm, nên vá bát vị ấy ở chỗ khuất, nếu có người thấy cũng không sinh hiềm khích.

 

Khi Bí-sô ấy được Phật cho phép liền tìm đến gặp Bí-sô biết làm kia, nói:

 

- Đại đức, Thế Tôn đã cho phép được tự vá bát, xin thầy hãy làm cho tôi.

 

Vị kia đáp:

 

- Cụ thọ, chẳng lẽ dùng ngón tay tôi vá bát hay sao, hãy chờ tôi làm dụng cụ rồi mới vá. Họ đem sự việc bạch Phật.

 

Phật dạy:

 

- Vì việc này, từ nay Ta cho phép tăng già được chứa sắt để làm dụng cụ. Ai cần, có thể mượn lấy dùng, làm xong trả lại.

 

* Duyên khởi ở thành Thất La Phiệt. Các Bí-sô muốn may ba y, dùng tay xé nên vải may y bị hư, họ đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Không nên dùng tay xé vải, hãy cắt bằng dao nhỏ. Sau khi Phật cho phép, có những Bí-sô muốn cắt y, đến nhà thế tục bảo cư sĩ:

 

- Tôi cần dao nhỏ để cắt y.

 

Đáp:

 

- Xin mang đi. Sau khi dùng xong, Bí-sô trả lại chủ cũ.

 

Họ bảo:

 

- Vật này đã cúng cho ngài.

 

Đáp:

 

- Thế Tôn chưa cho phép nhận.

 

Họ đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Ta cho phép Bí-sô được nhận cất dao nhỏ.

 

Thấy Phật đã cho phép, lục chúng Bí-sô liền dùng vàng bạc lưu ly pha lê các báu vật với nhiều màu sắc, nhiều loại trân kỳ để trang sức cán dao. Những người thế tục thấy vậy hỏi:

 

- Thánh giả, đây là vật gì?

 

Đáp:

 

- Thế Tôn cho giữ dao nhỏ.

 

Họ nói:

 

- Quý vị còn có sự tham muốn trói buộc tâm hay sao?

 

Các Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Bí-sô không được dùng vàng bạc pha lê các báu vật nhiều màu sắc, những loại trân kỳ để trang sức cán dao. Ai cần dao nhỏ chỉ được dùng cán sắt.

 

Họ liền làm dao dài lớn. Người tục lại hỏi:

 

- Đây là vật gì?

 

Đáp:

 

- Đây là dao nhỏ, Thế Tôn cho phép dùng.

 

- Thánh giả, đây là dao lớn, không phải dao nhỏ.

 

Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Bí-sô không được giữ dao dài.

 

Họ lại làm dao quá nhỏ không thể cắt được vật. Phật dạy:

 

- Các ông nên biết, có ba loại dao là lớn trung nhỏ. Loại lớn dài sáu ngón tay; loại nhỏ dài bốn ngón, loại trung giữa hai loại trên. Hình dáng có hai:

 

    Một: Cong như lông quạ;

    Hai: Như lông cánh gà, không nên làm mũi nhọn.

 

* Duyên khởi tại thành Thất La Phiệt. Khi các Bí-sô may ba y, dùng trúc hay cuống lông chim để xỏ, nên y bị hư rách. Phật dạy:

 

- Nên dùng kim. Lục chúng dùng vàng bạc lưu ly pha lê các loại quý báu để làm kim. Người thế tục thấy vậy hỏi:

 

- Đây là vật gì?

 

Đáp:

 

- Phật cho phép giữ kim. Họ nói: "Sa môn Thích tử bị tham muốn trói tâm". Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Bí-sô không nên dùng vàng ... để làm kim. Kim có bốn loại là đồng, sắt, thâu thạch và đồng đỏ. Bí-sô dùng kim tùy theo chỗ để, bị sét.

 

Phật dạy:

 

- Nên dùng ống đựng kim. Bí-sô không hiểu phải dùng ống như thế nào. Phật dạy:

 

- Có hai loại ống kim. Một là ống rút ra được; Hai là ống trúc. Ở đây cho phép dùng ống, đối với hai loại dao trên nếu sợ sét thì đặt vào ống cũng được.

 

* Duyên xứ ở thành Thất La Phiệt, Phật cho phép Bí-sô làm Tăng-già-chi. Các Bí-sô trải nhiều vải trên đất, phần nhiều bị thức ăn của côn trùng làm dơ bẩn; đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Không nên để trên đất, hãy làm trụ phơi y.

 

Bí-sô không biết làm trụ như thế nào, bạch Phật. Phật dạy:

 

- Có hai loại trụ là gỗ hay tre, giăng y ở trên.

 

Kéo qua lại, tre làm rách y. Phật dạy:

 

- Trước hết khoan lỗ, sau đó xỏ dây cột giăng vào bên trên. Như Phật dạy có ba loại y là: Thượng, trung, hạ. Y thượng đặt vừa trên trụ cao, hai y trung hạ không tương xứng. Phật dạy:

 

- Nên làm ba loại trụ, lớn nhỏ tùy theo y.

 

 

 

Nhiếp tụng thứ tư trong biệt môn thứ nhất:

 

    Chiếu cảnh tinh giám thủy

    Bất ưng dụng sơ loát

    Đảnh thượng lưu trường phát

    Dục thất lật cô tỳ.

 

* Tại thành Thất La Phiệt. Sáng sớm, Lục chúng Bí-sô mặc y mang bát vào thành khất thực. Những người thế tục đang bày những vật để trang điểm trong rương ra. Thấy vậy, Lục chúng liền lấy gương để soi mặt. Nan-đà, Ô Ba Nan Đà bảo nhau: "Ta thật đẹp trai". Người thế tục thấy vậy, không vừa ý, nói:

 

- Thánh giả trên đầu không tóc dưới nách lông dài, vậy đẹp ở chỗ nào?

 

Họ đành im lặng, Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Bí-sô không nên soi gương. Ai vi phạm bị tội vượt pháp.

 

Như Phật dạy không nên soi gương, họ soi vào nước, cũng bị chê cười. Phật dạy:

 

- Không nên dùng nước để soi mặt.

 

Khi Bí-sô xem trùng trong nước, thấy mặt mình nên có tâm xấu hổ. Phật dạy:

 

- Xem xét nước thấy mặt không phạm, chớ nghi ngại. Nếu xem mụt ghẻ, hay xem hình dáng già trẻ so với trước đây, soi gương không có lỗi.

 

* Duyên xứ như trước, Lục chúng khất thực, thấy dụng cụ trang sức trong nhà thế tục, liền lấy lược chải tóc trên đầu, hỏi nhau có đẹp không. Người thế tục thấy vậy, chê cười như trước. Họ đành im lặng; đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Bí-sô không nên chải đầu, ai vi phạm bị tội vượt pháp.

 

Bí-sô dùng bàn chải cũng bị lỗi như trước. Phật dạy:

 

- Ai dùng bị tội vượt pháp.

 

Bí-sô dùng cả lược và bàn chải. Phật dạy:

 

- Bị tội như trước.

 

* Duyên xứ như trước. Sau khi trải vàng để mua rừng Thệ-đa dâng lên Phật và Tăng, một hôm Trưởng giả Cấp Cô Độc sai thợ cạo đến chùa cạo tóc cho chư Tăng. Thấy người ấy đến, Lục chúng hỏi:

 

- Ngươi có thể cạo tóc nhưng chừa lại một phần trên đầu không?

 

Đáp:

 

- Đó là nghề của con.

 

Lục chúng bảo để lại phần tóc lớn, lại bảo cạo bớt một phần, rồi hai, ba, bốn, năm, cho đến tám phần, sau đó lại nói:

 

- Này kẻ ngu si, chẳng hiểu gì cả, hãy cạo sạch hết đi, rồi cho ngươi về.

 

Chiều tối, thấy người ấy mới về, Trưởng giả hỏi:

 

- Ngươi cạo tóc được bao nhiêu người?

 

Đáp:

 

- Không có rảnh để cạo, Ô Ba Nan Đà bảo làm vòng tóc trên đầu.v.v ... mãi đến chiều tối mới cho về.

 

Trưởng giả nghe vậy, không vừa ý chê trách.Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Bí-sô không nên mang vòng tóc trên đầu. Ai vi phạm bị tội vượt pháp.

 

* Duyên xứ như trước, cụ thọ Ngưu Ngọa ở trong hang Trư Khảm, vườn vua Xuất Quang, núi Thủy Lâm, nước Kiêu-Thiểm Tỳ. Sau đó, trong tháng mùa xuân, rừng cây tươi tốt, các loại chim như ngỗng, nhạn, uyên ương, oanh vũ, xá lị, công ... hót hay vang lừng trong các vườn rừng, nên vua Xuất Quang ra lệnh người giữ vườn:

 

- Ngươi hãy sửa sang cây cỏ trong núi Thủy Lâm, dọn dẹp gạch ngói, bố trí nhiều nước sạch,cắt người hộ vệ, ta muốn đến rừng du ngoạn một lúc.

 

Người kia tuân theo lệnh vua, làm hết các việc, sau đó trở lại tâu lên cho vua:

 

- Thần đã làm hoàn tất theo lệnh của đại vương, xin ngài biết thời gian.

 

Nhà vua liền đưa những người trong cung làm tùy tùng, đi đến rừng du ngoạn đến lúc mệt nhọc, nằm ngủ. Những người trong cung tính ưa thích hoa quả, nên đi tìm khắp nơi trong rừng. Khi ấy, Bí-sô Ngưu Ngọa râu tóc quá dài, y trên rách nát, y dưới dơ bẩn, đang ngồi kiết già dưới gốc cây. Vừa thấy Tôn giả, các cung nhân đều kinh hoàng. kêu lớn: "Có quỷ! có quỷ!". Nghe vậy, Bí-sô liền vào trong hang. Nghe tiếng kêu, nhà vua giật mình thức dậy, rút kiếm chạy tới, hỏi cung nhân:

 

- Quỷ ở đâu?

 

Đáp:

 

- Đã chạy vào hang Trư Khảm .

 

Nghe xong nhà vua đi đến hang, cầm kiếm, hỏi:

 

- Ngươi là vật gì?

 

Đáp:

 

- Tôi là Sa-môn.

 

Vua hỏi:

 

- Là Sa-môn gì?

 

Đáp:

 

- Đệ tử đức Thích Ca.

 

Hỏi:

 

- Người đã chứng A-la-hán phải không?

 

Đáp:

 

- Chưa đắc.

 

- Người đắc Bất-hoàn, Nhất-lai, Dự lưu quả phải không?

 

Đáp:

 

- Không đắc.

 

- Hãy gác việc ấy lại. Người đã đắc định thứ nhất đến định thứ tư?

 

Đáp:

 

- Chưa đắc.

 

Nghe xong, nhà vua rất tức giận, bảo với đại thần:

 

- Đây là kẻ phàm tục xâm phạm cung nữ của ta. Hãy đem kiến bỏ đầy hang để chúng cắn thân hắn.

 

Khi ấy, có Thiên thần cựu trú ở gần hang, nghe vậy, nên suy nghĩ: "Đây là thiện Sa-môn đến đây nhờ ta, ngài không vi phạm gì cả, chỉ sống thiểu dục, vua ác phi pháp muốn gây hại một cách oan uổng. Ta hãy tạo điều kiện giúp đỡ". Thiên thần liền biến thành một con heo lớn, từ trong hang chạy ra. Thấy heo, nhà vua bảo đại thần:

 

- Hãy dắt ngựa và mang cung tên lại đây.

 

Đại thần vâng lệnh giao cho vua.

 

Khi con heo chạy nhanh ra ngoài khu vườn, nhà vua vội chạy theo sau. Bấy giờ, có cung nữ kia bảo Bí-sô:

 

- Thánh giả hãy đi đi, nhà vua rất bạo ác, có thể hại ngài.

 

Bí-sô ấy vội mang y bát đi nhanh đến thành Thất La Phạt. Khi các Bí-sô khác trông thấy, chào hỏi:

 

- Kính chào cụ thọ, lâu đã không gặp, ngài từ đâu đến?

 

Đáp:

 

- Tôi trú ở Kiêu Thiểm Tỳ đến đây.

 

- Ngài sống có an lạc không?

 

Đáp:

 

- Nào có an lạc gì, sắp bị quốc vương giết hại.

 

Hỏi:

 

- Vì sao vậy?

 

Vị này kể lại sự việc vừa rồi. Các Bí-sô đem sự việc bạch phật. Phật bảo một Bí-sô:

 

- Thầy hãy đến gặp Bí-sô Ngưu Ngọa và bảo: - Thế Tôn gọi thầy.

 

Vâng lệnh Phật, vị này đến gặp Ngưu Ngọa, truyền lệnh Phật. Nghe lệnh, vị này đến gặp Phật, sau khi lễ kính đứng qua một bên. Thế Tôn bảo:

 

- Này Bí-sô có phải thầy đã làm hình dáng xấu xa phi pháp như vậy phải không?

 

Đáp:

 

- Bạch Đại đức, đúng vậy.

 

- Ngươi thật là người ngu nên bị tâm tham luyến yêu thích trói buộc vào chỗ hang kia.

 

Phật bảo các Bí-sô:

 

- Để tóc dài có những lỗi như vậy, nên các ông không được để tóc dài, ai không cắt tóc bị tội vượt pháp.

 

Như lời Phật dạy Bí-sô không được để tóc dài, có Bí-sô sống ở A Lan Nhã không có người cắt tóc, nên vứt bỏ hết ngọa cụ, đến sống gần tụ lạc. Đức Phật biết vậy nên hỏi A-Nan-Đà:

 

- Vì sao lan nhã Bí-sô bỏ trú xứ kia để đến sống gần tụ lạc?

 

A Nan Đà bạch Phật:

 

- Như Phật chế định, Bí-sô không nên để tóc dài.

 

Phật dạy:

 

- Nay Ta khai cho, lan nhã Bí-sô được để tóc dài bằng hai lóng tay; người sống ở làng xóm thì để tóc ngắn hơn.

 

* Duyên xứ như trước, có Bí-sô bị bệnh, đến gặp y sĩ, nói:

 

- Hiền thủ, tôi có bệnh xin ngài điều trị.

 

Đáp:

 

- Thánh giả, nên làm phòng tắm, tắm rửa thân hình sạch sẽ thì bình phục.

 

- Này hiền thủ, lẽ nào tôi lại hưởng thụ dục lạc như thế tục hay sao?

 

Đáp:

 

- Thánh giả, ngoài cách này ra, không thuốc nào chữa được.

 

Các Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Nếu y sĩ bảo cần làm phòng tắm để trừ bệnh ấy, không còn cách khác, thì Ta khai cho phép vào phòng tắm.

 

Phật cho phép làm phòng tắm, Bí-sô trở lại nói với y sĩ:

 

- Phòng tắm trừ bệnh có hình thức thế nào?

 

Y sĩ đáp:

 

- Tôi từng đọc phương thuốc của Luân vương, trong ấy dạy phòng tắm có thể trừ được bệnh ấy, tôi không biết hình thức nó thế nào. Nhưng Đại sư của thầy đủ Nhất thiết trí, hãy đến hỏi Ngài và làm theo.

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Nên làm như phòng tắm.

 

Họ làm phòng tắm trong chật ngoài rộng. Phật dạy:

 

- Không được làm như vậy, cách làm phòng tắm là trong rộng ngoài hẹp, hình như trái bầu.

 

Bên trong bị khói mịt mù không thoát được. Phật dạy:

 

- Nên làm cửa sổ để khói thoát ra.

 

Họ làm cửa sổ quá thấp gần, nên khói vẫn không thoát ra. Phật dạy:

 

- Không nên làm quá thấp.

 

Họ lại làm quá cao nên ít ánh sáng. Phật dạy:

 

- Không nên làm quá cao hay quá thấp, nên làm vừa ở giữa.

 

Có chim, quạ tu hú, bồ câu bay vào phòng. Phật dạy:

 

- Nên làm song ngăn cách, khi bị gió mưa tạt vào nên làm cánh cửa. Gió thổi bật cửa, nên làm chốt cửa. Nếu khó mở đóng, nên làm cây chống như móng chân dê để đóng mở.

 

Phòng không có cửa, Phật dạy:

 

- Nên lắp cửa, làm chốt ngang và khóa.

 

Trong phòng tắm, bình nước để dưới đất làm nước bị lạnh không thể dùng được, Phật dạy:

 

- Trong phòng tắm, hai bên nên bố trí kệ, đặt bình nước lên trên, không quá cao không quá thấp, vừa bằng đến gối.

 

Đốt lửa trên đất làm tổn hại đất, Phật dạy:

 

- Không nên đốt trên đất, nên lót gạch đá trên đất.

 

Khi lửa đang cháy rực, Bí-sô vào phòng, bị ngất, Phật dạy:

 

- Khi lửa đang cháy rực, không nên vào, đợi lửa bớt cháy rồi hãy vào tùy ý.

 

Họ phân tán lửa ra, làm lửa mau tắt, Phật dạy:

 

- Nên gom lại một chỗ.

 

Họ không biết lấy vật gì gom lửa lại, Phật dạy:

 

- Nên dùng xẻng sắt.

 

Khi Bí-sô trúng lửa bị ngất, nên dùng ít dầu man thanh tử trộn lương khô bỏ vào lửa, thì tỉnh dậy. Có mùi hôi, Phật dạy:

 

- Nên đốt hương.

 

Bị chảy nước mắt, Phật dạy:

 

- Dùng cục lương khô chặm. Vẫn không hết, dùng vụn dư cam tử thấm ướt làm viên nhỏ để chặm nước mắt.

 

Trong phòng không có phản để ngồi, mỗi người tự mang lại bị dầu làm nhơ bẩn, Phật dạy:

 

- Dùng cỏ lót vào.

 

Chân đi trên đất bị bùn làm dơ nhớp, Phật dạy:

 

- Nên trải cỏ.

 

Họ dùng cỏ khô nên bị cháy, Phật dạy:

 

- Nên trải cỏ xanh.

 

Cỏ xanh khó tìm, Phật dạy:

 

- Nên nhúng cỏ khô cho ướt.

 

Bí-sô thoa dầu toàn thân nên bị lác, dùng gạch đá móng tay gải làm trầy da, Phật dạy:

 

- Bị lác không được dùng móng tay cào, nên dùng đá nổi.

 

Họ dùng đá nổi bén nên bị lỗi như trước, Phật dạy:

 

- Nên mài mất chỗ bén, sau đó mới dùng.

 

Họ dùng rồi vứt bừa bãi nên bị thất lạc, Phật dạy:

 

- Không được vứt bừa bãi làm mất, nên dùng dây treo móc lên ngà voi hay trên cọc .

 

Đá nổi dính mồ hôi dầu nhớp nên phải thường tẩy bằng nước. Phật dạy:

 

- Không nên tẩy bằng nước, nên bỏ vào lửa.

 

Nhiều người ra vào làm cho phòng bị trống lạnh, Phật dạy:

 

- Ra vào phải đóng cửa, nên sai một Bí-sô giữ cửa.

 

Các Bí-sô nói chuyện phiếm trong nhà tắm, Phật dạy:

 

- Không nên nói chuyện phiếm trong nhà tắm. Khi tắm giặt có hai nghi thức: Một nói đúng pháp; Hai im lặng như bậc Thánh.

 

Bí-sô tắm giặt trong phòng làm đọng bùn ẩm thấp, Phật dạy:

 

- Không nên dùng nước tắm giặt trong phòng, nên làm phòng tắm giặt riêng.

 

Trong phòng tắm lại có bùn,  Phật dạy:

 

- Dùng vật lát lên.

 

(Đây là chế độ phòng tắm ở phương Tây, dùng gạch xếp thành, hình dạng như chất lương thực, trên hẹp dưới rộng, chính giữa cao chừng một trượng, bên dưới rộng bảy tám thước Tàu, có mở cánh cửa một bên, trét tro bùn trong ngoài dày kín. Mặt sau bố trí một khám nhỏ, trong khám để tượng đá hay tượng đồng, sau khi tắm tượng xong, bưng để nơi khác. Sau đó người khác vào chí tâm cúng dường phát nguyện việc thường làm; sở phí không nhiều được phước vô cùng. Giữa để lò đất sâu chừng một thước. Khi tắm, đốt than hay củi trong lò này, xem lạnh ấm cho hợp thời tiết. Trong phòng đốt đèn, khói thông cửa sổ ra ngoài. Theo phép phương Tây đều tắm trước khi ăn, không giống ở phương này đói rửa, no tắm. Khi muốn tắm thì mặc quần tắm, vào phòng ngồi xổm một bên. Một lúc ra mồ hôi, lấy dầu thoa khắp thân, bảo người lau kỳ cọ, có thể trừ được các bệnh nặng cảm cúm bệnh lạnh bệnh gió, không cần dùng thuốc khác, chứ không phải chỉ dùng nước nóng để tắm cho sạch cáu bẩn thôi đâu. Sau đó, đi vào phòng riêng, dùng nước thuốc để tắm thân thể, đây là phép tắm theo Đế Thích. Phật dạy Bí-sô việc lạ chưa biết, sợ người xem không hiểu nên nhân đây chú thích ra, nếu không bệnh nên bỏ bớt, tùy lúc mà làm. Nhưng ở Trung Thiên Trúc nóng nên ít làm như vậy, những xứ lạnh ở phương Bắc đều làm.)

 

Bí-sô không biết dùng vật gì để lát, Phật dạy:

 

- Nên dùng gạch lát, hoặc rãi bằng cát.

 

Bị đọng nước. Phật dạy:

 

- Nên làm mương thoát nước.

 

Khi rót nước vào, người rót nước ở dưới, người tắm ở trên, nước văng làm bẩn y, Phật dạy:

 

- Không nên như vậy, nên bảo người tắm ở dưới, người rót nước ở trên, khi tắm giặt nên dùng xỉ-mộc và tháo-đậu, phân bò, đất vụn.

 

Họ lấy ở nơi khác, Phật dạy:

 

- Nên dự trữ các vật này trong nhà tắm, không nên đi xa lấy.

 

Sau khi tắm rửa, thân thể bị suy nhược, Phật dạy:

 

- Nên ăn chút ít.

 

Tay dính dầu mồ hôi khó rửa sạch liền, nếu kéo dài thời gian rửa, sợ bị lỗi, Phật dạy:

 

- Nên dùng muỗng để ăn. Gặp cháo nóng cũng nên dùng muỗng.

 

Khi ăn cần muối, không có lá để nhận, Phật dạy:

 

- Nên chứa mâm đựng muối.

 

Phật bảo làm phòng tắm, không biết sai người nào làm; Phật dạy:

 

- Nên sai đệ tử môn nhân cùng làm, nếu có thí chủ cũng nên nhờ làm.

 

Khi tắm rửa,lau chùi thân thể cho nhau, Phật dạy:

 

- Khi vào phòng tắm nên đưa đệ tử vào, bảo họ lau chùi thân.

 

(Mâm đựng muối, phép ăn ở phương Tây, trước đưa muối dưới có gừng lát. Đây là Thánh giáo và phương này không giống nhau. Mâm vốn là để muối, hoặc để xem nước, nguyên vì không muốn ăn thịt chúng sinh (trùng). Luật dạy: - Ăn xong không đòi hỏi nữa.

 

Tăng tự cho rằng phải dùng mâm để lưu lại một phần lớn thức ăn, đem thí chúng sinh, giúp đỡ cho khỏi đói. Đây chỉ do sự sai lầm của người truyền)

 

CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ

TỲ-NẠI-DA TẠP SỰ.

 

Quyển thứ ba hết.

 

--- o0o ---

Quyển thứ tư

 

--- ooOoo ---

 

(Tiếp theo nhiếp tụng thứ tư trong biệt môn thứ nhất)

 

* Một thời, đức Phật ở thành Quảng Nghiêm.Trong thành này có Lật Cô Tỳ Tử (Licchavi) tên Thiện-Hiền, tánh tình chân thật, hành động chất trực, hằng ngày đều đến kính lễ Thế Tôn. Vào một lúc nọ, ông ta đang đi đến gặp Phật. Trong lúc giữa Bí-sô Thật Lực Tử và hai Bí-sô Hữu và Địa thường có oán đối nhiều đời. Hai Bí-sô Hữu và Địa du lịch trong nhân gian đi đến thành Quảng Nghiêm, trên đường bổng gặp Hiền Thiện, hỏi:

 

- Này Hiền Thiện, người đi đâu vậy?

 

Đáp:

 

- Thánh giả, tôi muốn đến lễ Phật.

 

Hai người kia nói:

 

- Đến gặp Thế Tôn, phải nói lời cúng dường. Vậy người có lời nói thắng diệu nào để dâng lên Ngài không?

 

Đáp:

 

- Tôi chưa có.

 

- Này Thiện Hiền, người đến gặp đức Phật nên nói thế này: "Bí-sô Thật Lực Tử không biết xấu hổ, hành động phi pháp, hành dâm cùng vợ của con, làm việc bất tịnh hạnh phạm Ba-la-thị-ca". Thế Tôn nghe như vậy chắc chắn rất hoan hỷ.

 

Thiện Hiền nghe nói xong, đến gặp Thế Tôn, lạy sát chân Phật, đứng qua một bên, bạch:

 

- Thế Tôn, Bí-sô Thật Lực Tử không có tàm quý, hành động phi pháp, cùng với vợ của con hành động dâm dục, làm việc phi tịnh hạnh, phạm Ba-la-thị-ca.

 

Sau khi nói như vậy, Thiện Hiền từ giã. Phật bảo các Bí-sô:

 

- Lật-cô-tỳ-tử kia nói lời phỉ báng dối trá, hãy làm yết ma phú bát cho ông ta. Nếu có những trường hợp như vậy, cũng làm theo trình tự: - Trải tòa, đánh kiền chùy tuyên cáo, sau đó đại chúng tập họp, sai một Bí-sô tác pháp yết ma đơn bạch: "Đại đức Tăng già lắng nghe, Lật-cô-tỳ-tử Thiện-Hiền, dùng pháp Ba La Thị Ca không căn cứ vu báng Bí-sô thanh tịnh Thật Lực Tử. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng đồng ý, nay Tăng tác yết ma phú bát cho Thiện Hiền". Đây là lời tác bạch. Tăng tác yết ma phú bát xong, Bí-sô không được đến nhà người ấy, nếu có đến cũng không được ngồi vào chỗ, không được ăn uống, không được thuyết pháp cho họ.

 

Phật bảo A Nan Đà:

 

- Thầy hãy đến chỗ ở của Thiện Hiền, bảo rằng Tăng già đã tác yết ma phú bát cho ông ấy.

 

Tôn giả A Nan Đà vâng lệnh Phật đến chỗ Thiện Hiền, gặp lúc không có ông ta ở nhà, nên hỏi người vợ:

 

- Ông Thiện Hiền đang ở đâu?

 

Đáp:

 

- Thánh giả! Ông ấy có việc đi ra ngoài. Ngài cần gặp Thiện Hiền có việc gì?

 

- Nên biết rằng Tăng già đã tác yết ma phú bát cho gia đình bà.

 

Hỏi:

 

- Đại đức, yết ma phú bát là gì?

 

Đáp:

 

- Nếu gia đình người nào bị Tăng già tác yết ma phú bát thì các Bí-sô không được đến nhà người ấy, nếu có đến cũng không được ngồi, không được nhận thức ăn uống không được thuyết pháp.

 

Người phụ nữ nói:

 

- Đại đức! Căn cứ theo đây thì các Thánh chúng phát thẻ lập quy chế không được đi lại với chúng con. Con có lỗi gì mà bị phú bát?

 

Đáp:

 

- Đến gặp Phật, Thiện Hiền chồng bà đã nói: Bí-sô Thật Lực Tử không có xấu hổ, hành động phi pháp, cùng với vợ con hành động dâm dục, làm việc bất tịnh hạnh phạm Ba-la-thi-ca.

 

Người vợ nghe xong liền trở vào phòng, Tôn giả trở về.Sau khi xong việc, Thiện Hiền trở về nhà. Người vợ nói:

 

- Chàng có biết không, Thánh chúng đã tác yết ma phú bát cho chàng.

 

Đáp:

 

- Lành thay phú bát! Rất tốt phú bát!.

 

Người vợ hỏi:

 

- Chàng có biết phú bát là gì không?

 

Đáp:

 

- Không hiểu.

 

Người vợ nói:

 

- Ai bị Thánh chúng phú bát thì các Bí-sô không đến nhà người ấy, nếu đến cũng không được ngồi, không được ăn uống, không được nói pháp. Có phải chàng đã từng thấy Bí-sô Thật Lực Tử cùng với em làm việc phi pháp ở chỗ khuất phải không?

 

Đáp:

 

- Không thấy.

 

- Chàng hãy đến sám hối với Đại sư. Nếu bậc Đại từ tôn dung thứ cho thì tốt, như không dung thứ thì đừng bước vào nhà nữa.

 

Nghe xong, Thiện Hiền xấu hổ sợ hãi, đi ngay đến gặp Phật, lạy sát chân Ngài, chắp tay rạp sát đất bạch:

 

- Thế Tôn! Theo thường nguyện của con mỗi buổi sáng sau khi tắm rửa, đi đến lễ Đại sư, giữa đường con gặp hai Bí-sô Hữu và Địa. Họ hỏi con: - Ông đi đâu vậy? Con đáp: -Muốn đến gặp Phật để lễ kính. Họ hỏi con đến gặp Phật có lời tốt đẹp nào dâng lên Phật không, con đáp không có. Họ dạy con đến gặp Phật nên nói như thế này:- Thế Tôn, Bí-sô Thật Lực Tử không biết xấu hổ, có hành động phi pháp cùng vợ của con hành động dâm dục, làm việc phi phạm hạnh, phạm Ba-la-thị-ca. Lời nói ấy do hai vị kia dạy con nói, chẳng phải lỗi do con.

 

Khi ấy, Thế Tôn bảo các Bí-sô:

 

- Thiện Hiền phỉ báng nhưng vốn không phải do ý mình, vậy nên tác pháp ngưỡng bát yết ma cho ông ta. Nếu có trường hợp như vậy, nên tiến hành:- Trải tòa, đánh kiền chùy, báo cho cả chúng biết. Sau khi tăng tập họp, bảo Thiện Hiền đến trước Thượng tọa, ngồi xổm chắp tay thưa như sau: "Đại đức Tăng già lắng nghe, con là Thiện Hiền bị ác tri thức làm cho sai lầm nên đem việc không thật vu báng cho Thật Lực Tử .Vì vậy, Tăng già đã tác yết ma phú bát cho con. Nay con cầu xin Tăng già tác yết ma ngưỡng bát . Cầu xin đại đức Tăng già cho con pháp ngưỡng bát, xin từ mẫn con". (nói ba lần như vậy).

 

Sau đó đưa Thiện Hiền đến chỗ thấy nhưng không nghe chắp tay đứng, và sai một Bí-sô tác pháp đơn bạch yết ma: "Đại đức tăng già lắng nghe. Lật Cô Tỳ Tử Thiện Hiền kia bị ác tri thức làm cho sai lầm nên đem việc không thật vu báng cho cụ thọ Thật Lực Tử. Tăng già đã tác yết ma phú bát cho ông ta. Nay Thiện Hiền ấy cầu xin Tăng già tác yết ma ngưỡng bát". Đây là lời tác bạch.

 

Nếu Tăng già đã tác yết ma ngưỡng bát rồi, khi các Bí-sô đến nhà họ, được phép ngồi, nhận thức ăn và thuyết pháp.

 

 

 

Nhiếp tụng thứ năm trong biệt môn thứ nhất.

 

    Sinh chi diện như cảnh

    Bất vi ca vũ nhạc

    Hứa tác ca vịnh thanh

    Dụng bát hữu tứ chủng.

 

* Duyên xứ ở thành Thất La Phạt, có một Bí-sô chuyên tu tịch định nhưng khi đang ngồi kiết già sinh chi vẫn cương lên. Vào lúc khác,vị này theo thứ lớp khất thực, sau khi thọ trai thu xếp y bát, rửa sạch chân, dưới một gốc cây ngồi thẳng tư duy, đặt niệm trước mặt thì sinh chi cương lên. Bị dục làm phiền não nên vị này nổi sân, lấy sinh chi của mình đặt trên đá, rồi dùng đá đập nát. Quá đau đớn không thể chịu đựng được, vị này suy nghĩ: "Ta bị khổ não thiêu đốt tâm ý, Thế Tôn từ bi sao không thương tưởng đến? ".Khi ấy, từ xa biết rõ sự khổ não này, đi đến bên cạnh, đấng Chánh Biến Giác hỏi:

 

- Này Bí-sô thầy đã làm gì?

 

Vị này thưa lại đầy đủ. Phật dạy:

 

- Thầy há không nghe Ta dạy, khi Bí-sô sinh ý dục nhiễm nên quán bất tịnh thì ngăn chận dâm tình, vì sao thầy lại làm kẻ ngu si, cần đánh đập cái này lại đánh cái khác.

 

Bí-sô nghe như vậy, tàm quý im lặng. Nhân việc này, Phật dạy các Bí-sô:

 

- Chẳng phải trước đây Ta đã không dạy cho các thầy, khi tâm dục nhiễm phát sinh thì tu quán bất tịnh, khi tâm sân hận phát sinh thì tu quán từ bi, khi tâm ngu si phát sinh thì tu quán mười hai nhân duyên. Ai không tu tập pháp phải tu tập, không đánh điều cần phải đánh mà lại đánh đập điều khác thì bị tội vượt pháp.

 

Trong thành này có một Trưởng giả, cưới vợ chưa bao lâu, sinh được một con trai hình dung tuấn tú mọi người đều yêu mến, nuôi dưỡng thương yêu dần dần trưởng thành, xuất gia trong pháp luật của Phật. Vị này có duyên sự nên đi khỏi rừng Thệ Đa du hành trong nhân gian. Chẳng may trên mặt mọc mụt ghẻ, đi chữa trị gặp phải thầy thuốc không lành nghề dùng kim châm nên miệng vị này bị méo lệch. Khi du hành xong, trở về vườn Cấp cô độc, không được các vị quen biết cũ chào đón thăm hỏi, nên vị này hỏi:

 

- Đại đức, không biết tôi hay sao?

 

Đáp:

 

- Cụ thọ, tôi không nhớ có quen, thầy là ai?

 

Vị kia kể lại các việc trước kia, tôi tên là ... Người kia kinh ngạc nói:

 

- Ngày trước mặt mày Thầy đoan chính, nay vì sao bị méo lệch.

 

Vị kia trình bày lại sự việc. Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Nên giữ mặt như giữ gương sáng, không nên vô ý để thầy thuốc không giỏi châm chích. Ai vi phạm bị tội vượt pháp.

 

Như Phật dạy:

 

- Không được để cho thầy thuốc dở trị bệnh, có Bí-sô đầu mặt bị nóng sốt, muốn chích bớt máu nóng trên trán nhưng không thể tìm được thầy thuốc bậc thượng.

 

Phật dạy:

 

- Nếu không có thầy thuốc bậc thượng thì nhờ thầy thuốc bậc trung lể máu ra.

 

Trong thành này có hai nhóm người kết bạn nhau, một nhóm thuộc hạng giao dịch, một nhóm là Bà-la-môn. Nhóm giao dịch giỏi ca múa hơn nhóm Bà-la-môn nhưng thua về chiến đấu.Vào một lúc nọ, nhóm Bà-la-môn bảo nhau:

 

- Nhóm giao dịch ca múa hay hơn chúng ta nhưng về chiến đấu ta hơn bọn ấy, bằng cách nào để chúng ta ca múa hơn bọn họ?

 

Có người bàn bạc:

 

- Nếu muốn thắng họ, chúng ta nên tập ca múa.

 

Họ lại bàn tiếp:

 

- Việc này thật hay, nhưng chúng ta nên học ca múa với ai?

 

Lại có người bàn:

 

- Nhóm Thánh giả sáu vị giỏi âm nhạc, về ca múa lại vượt hơn người khác. Chúng ta nên đến đó học nghề với họ, các vị ấy tham lam, tánh thích tài sản, nên cần gì thì chúng ta cung cấp.

 

Sau khi bàn luận, họ cùng nhau đến gặp Lục chúng, đảnh lễ sát chân thưa:

 

- Đại đức xin rũ lòng từ bi, dạy chúng tôi ca múa.

 

Lục chúng đáp:

 

- Nếu có cung cấp bánh trái thì ta sẽ dạy ngươi.

 

Họ nghe nói vậy nên thường cung cấp bánh, được Lục chúng dạy ca múa. Sau khi học giỏi, trong lúc hội hè, họ chiến đấu thắng nhóm kia. Nhóm giao dịch trổ tài ca múa cũng bị họ thắng luôn, nên nói:

 

- Xưa nay chúng ta ca múa hơn các vị, các vị chiến đấu thắng bọn ta, vì sao hôm nay các vị mạnh cả hai; việc này như thế nào?

 

Đáp:

 

- Vì chúng ta cố công học tập ca múa.

 

Hỏi:

 

- Ai dạy cho các vị?

 

Đáp:

 

- Thánh giả Lục chúng từ bi dạy cho chúng tôi.

 

Những người Bà-la-môn nghe vậy đều sinh tâm bất mãn khinh khi:

 

- Sa-môn Thích tử hành pháp trạo cử, ca múa đùa giỡn còn dạy cho người đời.

 

Các Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Do ca múa có những lỗi như vậy, cho nên Bí-sô không được học tập ca múa. Ai vi phạm bị tội vượt pháp.

 

Khi Thế Tôn đã không cho phép học tập ca múa, có Bà-la-môn bị quên âm nhạc của họ, đến gặp Lục chúng cầu xin ôn lại cho họ. Lục chúng đáp:

 

- Thế Tôn chế giới không được ca múa.

 

Bà la môn bạch:

 

- Nếu như vậy, có thể lược bớt.

 

Lục chúng đáp:

 

- Ta sẽ lược bớt cho ngươi.

 

Đến chỗ những Bà-la-môn, họ lại dạy thay đổi lược bớt những phần có dụng cụ ca múa . Sau đó, khi hội họp phần trình diễn ca múa của Bà-la-môn không bằng bạn họ. Các Bà-la-môn đều sinh bất mãn chê bai:

 

- Sa-môn Thích tử ngầm gây sự tổn hại làm cho chúng ta bị thua.

 

Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Bí-sô không được thay thế giảm bớt dụng cụ ca múa của người khác. Ai thay thế, bị tội vượt pháp.

 

Vào lúc khác, Bà-la-môn đến gặp Lục chúng, thưa:

 

- Xin dạy tôi nhạc hài hước.

 

Lục chúng không dạy. Họ thưa:

 

- Thánh giả! Nếu không thể dạy, chỉ xin ngài tạm có mặt nơi đó thì chúng tôi được thắng.

 

Đến nơi, khi Lục chúng xuất hiện, những người trình diễn quen họ trông thấy liền xấu hổ không thể chơi nhạc được, nên bất mãn chê trách:

 

- Sa-môn Thích tử lại tới lui có mặt nơi ca múa.

 

Phật dạy:

 

- Bí-sô không được cố ý đến xuất hiện ở những nơi ca múa. Bí-sô nào tự mình ca múa, ngâm vịnh, dạy cho người, hoặc giúp đỡ hoặc tự mình xuất hiện đều bị tội vượt pháp.

 

(Sau đây là nhân duyên của Tôn Giả Thiện Hòa)

 

* Tại Kiêu Thiểm Tỳ có một trưởng giả tên là Đại Thiện, bẩm tánh nhu hòa, vợ đang có thai. Tôn giả Xá Lợi Phất biết sau này bào thai kia sẽ được hóa độ chứng quả thắng thượng, nên Ngài đến nhà. Khi ấy, Trưởng giả vốn có tín tâm, cầu quy y thọ giới. Từ đó, Tôn giả thường đến nhà ấy. Một hôm, Ngài đi một mình không có thị giả đến nhà Trưởng giả. Hỏi:

 

- Đại đức! Vì sao đi một mình không có thị giả?

 

Đáp:

 

- Hiền thủ! Làm sao tôi ở trong rừng cỏ mà tìm có thị giả, nơi chỗ quý vị mới có được người làm thị giả.

 

Đáp:

 

- Thánh giả! Nếu như vậy, vợ con đang có thai nếu sinh con trai sẽ cho làm thị giả của Ngài.

 

Tôn giả từ giã, sau khi chú nguyện:

 

- Hiền thủ, nguyện cho đứa bé khỏe mạnh.

 

Sau tám, chín tháng, vợ Trưởng giả sinh hạ một bé trai, thân hình gầy nhỏ, âm thanh hòa nhã. Sau 21 ngày, Trưởng giả mời thân thuộc tập họp lại, làm lễ chúc mừng. Người cha bồng con xin mọi người đặt tên. Mọi người bàn bạc:

 

- Bé này thân hình gầy nhỏ, âm thanh hòa nhã, là con của Trưởng giả Đại Thiện, nên đặt tên cho cháu là Thiện Hòa.

 

Ngày tháng dần qua, Thiện Hòa đã đến tuổi khôn lớn. Vào buổi sáng nọ, Tôn giả Xá Lợi Tử mặc y mang bát vào thành Kiêu Thiểm Tỳ, thứ lớp khất thực đến nhà Đại Thiện. Trưởng giả trông thấy vội mừng rỡ chào đón, chắp tay đảnh lễ sát đất và thỉnh lấy bát, đặt đầy đủ bánh trái vật thực rồi dâng lên Tôn giả.Khi đồng tử Thiện Hòa ra xem mặt Thánh giả. Tôn giả hiện tướng làm cho Trưởng giả nhớ lại chuyện cũ. Trưởng giả liền bảo con mình:

 

- Khi con còn trong bụng mẹ, ta đã cho con làm đệ tử của Tôn giả. Vậy nay con hãy đi theo Tôn giả.

 

Đồng tử là người mang thân tối hậu nên rất dễ lìa bỏ thế tục, liền theo Tôn giả trở về trú xứ. Tôn giả cho cậu ta xuất gia và sau đó thọ giới cụ túc, như pháp khai hóa. Vị này siêng năng tinh tấn không lười biếng, đoạn trừ phiền não chứng quả A-la-hán. Bấy giờ, Bí-sô Thiện Hòa ngâm vịnh tán tụng kinh pháp, âm thanh trong suốt vang tận Phạm thiên. Có vô số chúng sinh nghe âm thanh này đều được gieo trồng căn lành giải thoát, cho đến các loại bàng sinh có tình thức nghe đến tiếng ấy đều lắng tai nghe diệu âm này. Bấy giờ, Thế Tôn nhân đại chúng tập họp, bảo mọi người:

 

- Này các Bí-sô, trong giáo pháp của ta, trong số đệ tử thanh vănâm thanh vi diệu, Bí-sô Thiện Hòa đứng số một.

 

Do vị ấy diễn xướng âm thanh hòa nhã làm cho người nghe phát tâm hoan hỷ. Bí-sô chưa ly dục đều bỏ phế việc của mình, hằng ngày chỉ lắng nghe âm thanh tán tụng.

 

Một hôm, khi đêm gần tàn, đại vương Thắng Quang của Kiều Tát La cỡi voi Bạch Liên Hoa cùng tùy tùng, có việc ra khỏi thành, cần đi đến nơi kia. Trong rừng Thệ Đa, Bí-sô Thiện Hòa đang cao giọng tụng kinh. Khi voi của vua nghe âm thanh ưa thích này nên vểnh tai lắng nghe, không chịu đi tới. Quản tượng dùng móc câu đập vào chân nhưng voi vẫn đứng yên. Vua bảo quản tượng:

 

- Hãy làm cho voi đi!

 

Đáp:

 

- Đại vương! Thần đã tận lực thúc đẩy tiến tới nhưng nó vẫn không bước chân,chẳng biết ý nó muốn gì?

 

Vua bảo:

 

- Hãy thả ra để tùy ý nó đi.

 

Quản tượng thả móc câu, voi liền đi đến vườn Cấp-cô, đứng ngay cửa chùa vểnh tai nghe âm thanh. Tụng kinh xong, Bí-sô Thiện Hòa đọc bốn bài kệ phát nguyện:

 

    Chư thiên, A-tu-la, Dược xoa

    Ai đến nghe pháp phải chí tâm

    Ủng hộ Phật pháp cho trường tồn

    Luôn luôn thực hành lời Phật dạy

    Những vị nghe pháp nên đến đây

    Ở trên mặt đất hoặc không trung

    Thường hành tâm từ với loài người

    Ngày đêm chính mình sống đúng pháp

    Nguyện các thế giới thường an ổn

    Đem nhiều phước, trí lợi chúng sinh

    Có bao nghiệp tội đều tiêu trừ

    Xa lìa các khổ về tịch tịnh.

    Thường xoa thân thể bằng hương giới

    Dùng áo thiền định mặc kín thân

    Trang điểm khắp bằng hoa tuệ giác

    Sống ở nơi nào cũng an lạc.

 

Nghe kệ này xong, voi của vua biết đã hết thời kinh nên vẩy tai, bước chân đi, nhanh chậm tùy theo móc câu điều khiển. Vua hỏi quản tượng:

 

- Nay vì sao voi này đi theo ý khanh?

 

Đáp:

 

- Chưa biết vị thánh giả nào trong chùa đọc tụng kinh điển với âm thanh mỹ diệu, voi nghe ưa thích nên không chịu đi nữa.

 

Vua nói:

 

- Nếu như vậy, hãy quay voi lại đến thăm hỏi vị Tôn giả kia, ta nguyện dâng cúng thượng y cho ngài, để ngày mai sẽ đến thành kia.

 

Quản tượng vâng lệnh quay voi trở lại. Khi chưa đến chỗ cũ, Phu nhân Thắng Man ngạc nhiên vì sao vua vội trở lại, nên hỏi lý do. Vua kể lại đầy đủ sự việc trên, và bảo rằng:

 

- Phu nhân hãy đưa tấm vải tối thượng, ta muốn tự mình dâng lên vị kinh sư kia.

 

Sau khi suy nghĩ: "Hay là thánh giả Thiện Hòa dùng âm thanh mỹ diệu đọc tụng kinh điển, nhưng Tôn giả ấy hình dáng xấu xí, tánh của đại vương ta thích người tuấn tú, như gặp vị ấy sẽ không vừa ý lại sinh khinh mạn hối tiếc sự kính trọng trước đây. Ta hãy tìm cách làm cho vua không tự đến gặp", phu nhân Thắng-Man tâu:

 

- Thưa đại vương! Ngài cứ đến thành kia, thiếp sẽ mang vải đến dâng lên Tôn giả.

 

Đáp:

 

- Phu nhân nên lấy tấm khác, lẽ nào do vật này mà nước Kiều Tát La của ta trở nên nghèo thiếu hay sao?

 

Phu nhân im lặng. Nhà vua liền mang tấm vải tốt nhất đến rừng Thệ Đa. Khi ấy, cụ thọ A Nan Đà đang đi kinh hành trước cửa chùa. Vừa thấy, vua xuống voi, lạy sát chân Tôn giả, thưa:

 

- Đại đức, sáng sớm hôm nay vị Tôn giả nào đọc tụng kinh pháp?

 

Đáp:

 

- Đại vương cần gì mà hỏi như vậy?

 

- Đại đức! Con muốn chính mình đem y này dâng cúng vị ấy.

 

Tôn giả nghĩ: "Cụ thọ Thiện Hòa có âm thanh mỹ diệu, phúng tụng kinh pháp âm vận hòa nhã siêu quần, nhưng hình dáng vị ấy xấu xí quá, mà vị vua này tánh thích người xinh đẹp nho nhã. Nếu vua thấy vị này, sẽ sinh khinh khi, tâm không cung kính, vậy ta nên bày cách không cho ông ta gặp"; nên thưa:

 

- Đại vương, hãy đưa y cho tôi, tôi sẽ dâng vị ấy.

 

Đáp:

 

- Đại đức! Thế Tôn tán thán việc tự tay mình dâng cúng là tối thượng nhất, nên nay con muốn tự tay mình dâng.

 

Khi ấy, tại chỗ ở ban ngày, Tôn giả Thiện Hòa đang ngồi kiết già dưới gốc cây. Tôn giả A Nan đưa nhà vua đến nơi vị ấy, nói với vua:

 

- Đại vương, người ngồi dưới gốc câyTôn giảâm thanh vi diệu.

 

Vua tiến tới, nhìn xuống thấy vị ấy hình dáng xấu xí, sinh khinh thường không còn tín tâm nữa, quay đầu lại nhăn mày, để tấm y xuống rồi bỏ đi.

 

Thấy hành động nhà vua như vậy, Thiện Hòa nói kệ:

 

    Ai dùng sắc thấy ta

    Dùng âm thanh cầu ta

    Ái nhiễm loạn tâm họ

    Không thể thấy được ta.

 

    Ai chỉ biết bên trong

    Mà không thấy bên ngoài

    Theo trong mà cầu quả

    Là bị mê vì tiếng.

 

    Ai chỉ biết bên ngoài

    Mà không thấy ở trong

    Theo bên ngoài cầu quả

    Cũng bị mê vì tiếng.

 

    Ai không biết bên trong

    Cũng không thấy bên ngoài

    Phàm phu đều bị chướng

    Cũng bị mê vì tiếng.

 

    Ai biết rõ bên trong

    Lại khéo thấy bên ngoài

    Bậc trí sẽ xuất ly

    Không bị tiếng làm mê.

 

Bấy giờ các Bí-sô đều sinh nghi ngờ, bạch Thế Tôn:

 

- Vì nhân duyên gì, Bí-sô Thiện Hòa thân hình xấu xíâm thanh hòa nhã, được xuất gia tu tập trong Phật pháp, trừ hết các lậu chứng quả A-la-hán.

 

Thế Tôn bảo họ:

 

- Bí-sô Thiện Hòa phải tự nhận lấy nghiệp đã tạo ... nói rộng cho đến như bài kệ:

 

    Dù trãi qua trăm kiếp

    Nghiệp đã làm không mất

    Khi nhân duyên gặp nhau

    Nhận trở lại kết quả.

 

Thế Tôn bảo các Bí-sô:

 

- Các thầy hãy lắng nghe, thời quá khứ trong hiền kiếp này, khi loài người sống đến bốn vạn tuổi, có đức Phật Câu-Lưu Tôn đầy đủ mười hiệu ra đời.

 

Sau khi làm các Phật sự viên mãn, đức Phật Thế Tôn kia nhập vô dư y Niết bàn. Bấy giờ, quốc vương kia tên Vô Ưu cúng dường xá-lị của Phật ấy nên xây tháp chu vi một do-thiện-na, cao nữa do-thiện-na, sai người quản thủ lần lượt xây dựng. Người này có tín tâm, ý thích hiền thiện, siêng năng làm việc không thấy mệt nhọc. Có người làm công nọ thấy tháp quá cao lớn, nên sinh hiềm hận nói với bạn:

 

- Nay vua xây tháp lớn này, hao phí nhiều công sức người, biết ngày nào mới xong!

 

Người quản thủ nói:

 

- Người không thể làm nữa thì tùy ý đi nơi khác, vì sao lại nói ra lời hiềm hận như vậy.

 

Người kia im lặng không thể nói lại. Người quản thủ muốn đuổi kẻ kia, nhưng anh ta xin lỗi và đến làm lại như cũ. Khi tháp vẫn chưa xong, anh ta lại sinh hiềm hận. Người quản thủ dùng gậy đuổi đi, anh ta lại xin tạ tội và làm lại như cũ . Đến khi tháp hoàn tất, mọi người ngắm xem quên cả mệt nhọc. Trăm ngàn chúng sinh đều hoan hỷ. Người hiềm hận trước đây thấy vậy sinh hối hận: "Trước đây ta đã làm việc bất thiện, thấy tháp cao lớn nên nói lời khinh mạn. Nay ta nên sắm sửa vật cúng dường". Anh ta liền dùng số tiền đang có gần đây, làm cái linh đẹp bằng vàng đem treo trên tháp. - Này các Bí-sô nên biết, kẻ làm thuê kia nay là Thiện-Hòa, do có tâm hiềm hận với tháp nên nay làm thân người với hình dáng xấu xí, do cúng dường linh bằng vàng nên tiếng nói hòa nhã, làm cho người nghe đều rất hoan hỷ.

 

Khi ấy, các Bí-sô còn có ý nghi, thưa lại với Thế Tôn:

 

- Đại đức Bí-sô Thiện Hòa trước đây tạo nghiệp gì mà do sức nghiệp ấy đọc tụng kinh pháp âm thanh vang tận Phạm thiên.

 

Thế Tôn bảo:

 

- Này các Bí-sô hãy lắng nghe sự việc ấy. Thời quá khứ, khi loài người thọ hai vạn tuổi, có đức Phật Ca Nhiếp Ba đầy đ? mười hiệu xuất hiện trong thế gian. Giữa thành phố và rừng Thi Lộc, tiên nhân đọa xứ, nước Ba La Ny Tư có cây hương-quả. Có con chim hót hay sống nơi cây này. Một hôm, vào sáng sớm đức Phật Ca-Nhiếp Ba mặc y mang bát vào thành khất thực. Khi con chim ấy thấy đức Phật tướng mạo đoan nghiêm như núi bằng vàng, liền cất tiếng hót vang với âm thanh vi diệu, nhiễu quanh Phật ba vòng rồi bay trở vào núi. Hằng ngày cứ như vậy, khi thấy đức Phật đi qua, chim này nhiễu quanh và hót vang, rồi bay vào lùm cây sống hoan hỷ. Vào một ngày khác, bị chim ưng bắt được, sau khi qua đời chim kia sinh vào nhà đại Bà-la-môn, rồi từ đó về sau không bị thác sinh vào loại hạ tiện ác độc, cho đến ngày nay sinh loài người vẫn cảm ứng giọng nói hay vọng tận Phạm thiên, làm người khác ưa thích. Này các Bí-sô nên biết, chim hót hay kia nay là Thiện-Hòa.

 

Các Bí-sô lại có nghi khác, thưa thỉnh Thế Tôn:

 

- Đại đức Bí-sô Thiện Hòa đã từng làm nghiệp gì, do sức nghiệp này nên có âm thanh mỹ diệu số một trong hàng đệ tử của Phật?

 

Thế Tôn bảo:

 

- Bí-sô Thiện Hòa do phát nguyện lực nên cảm ứng được quả báo này. Đó là nghiệp gì?

 

- Vào thời Phật Ca-Nhiếp Ba, Thiện Hòa xuất gia, Bổn sư cuả vị ấy đứng đầu về việc hướng dẫn phúng tụng trong các đệ tử Phật Ca Nhiếp Ba. Nhưng thời ấy, Thiện Hòa từ khi xuất gia cho đến khi già cả, tuy tu tập phạm hạnh nhưng cuối đời không chứng được gì, khi lâm chung phát nguyện:

 

- Ta xuất gia tu tập trong thánh giáo của đức Phật Ca Nhiếp Ba, cuối đời không chứng được gì, nguyện ta nhờ thắng nhân này theo như sự thọ ký của Phật Ca Nhiếp Ba là trong đời vị lai khi loài người thọ một trăm tuổi, có Phật ra đời hiệu Thích Ca Mâu Ny Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác, ta được xuất gia tu tập trong giáo pháp của Phật ấy, đoạn trừ phiền não chứng A-la-hán. Như thân giáo sư của ta trong Phật pháp là bậc đệ tử tán tụng số một, ta cũng như vậy, gặp Phật xuất gia, là bậc số một trong những vị hướng dẫn xướng tụng.

 

Do sức nguyện ấy, Thiện Hòa xuất gia tu tập theo giáo pháp của Ta, trong các đệ tử là vị thầy hướng dẫn xướng tụng số một. Bí-sô nên biết, nghiệp đã tạo nếu thuần đen thì có quả báo thuần đen, nếu thuần trắng thì có quả báo thuần trắng, nếu tạp nghiệp thì có quả báo xen tạp.

 

Các thầy nên vứt bỏ nghiệp thuần đen và xen tạp, tu tập nghiệp thuần trắng, như nói rộng ở chỗ khác.

 

* Duyên xứ như trước, khi các Bí-sô tụng kinh, không thông thạo âm vận tùy theo câu mà đọc, cũng như tiếng trút trái táo vào chậu khác. Trong khi các ngoại đạo kia đọc tụng kinh với âm thanh ngâm vịnh. Hằng ngày, Trưởng giả Cấp Cô Độc thường đến thân cận lễ bái Th? Tôn, nghe bên đường có tiếng các ngoại đạo tụng kinh, nên suy nghĩ: "Những ngoại đạo này xuất gia trong pháp luật không tốt, đọc tụng ngâm vịnh kinh điển với âm thanh ngôn từ dễ nghe. Các thánh giả của ta không thông thạo âm vận phải tùy câu tùy chữ, nên tụng kinh cũng như tiếng trút táo sang chậu khác. Đây là việc ta nên bạch với Đại sư".

 

Sau khi gặp Phật, lạy sát chân Ngài, ngồi qua một bên, Trưởng giả bạch Phật:

 

- Thế Tôn! Các ngoại kia xuất gia trong pháp luật xấu, mà đọc tụng nhâm vịnh kinh điển với âm thanh ngôn từ dễ ưa. Các thánh giả của con không rành âm vận phải theo chữ theo câu, tụng kinh cũng như tiếng trút táo vào chậu khác. Nếu Phật Thế Tôn từ bi đồng ý thì cho phép các thánh chúng dùng âm thanh ngâm vịnh để tụng kinh điển.

 

Thế Tôn cho phép bằng cách im lặng. Trưởng giả thấy Phật im lặng cho phép nên làm lễ từ giã. Phật bảo các Bí-sô:

 

- Từ nay về sau Ta cho phép các thầy dùng âm thanh ngâm vịnh để đọc tụng kinh pháp.

 

Sau khi Phật cho phép, các chúng Bí-sô dùng cách ngâm vịnh để đọc tụng kinh, việc cung thỉnh, dạy bảo, tác bạch cũng làm như vậy. Nhân khi Trưởng giả Cấp Cô Độc vào chùa thấy âm thanh của chư Tăng huyên náo cả chùa, nên thưa:

 

- Thánh giả! Già-lam này trước đây là nơi Pháp vũ nay trở nên thành Càn Thát Bà.

 

Các Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Bí-sô không nên dùng âm thanh ngâm vịnh đọc tụng kinh pháp, kể cả đọc kinh thỉnh dạy, tác bạch đều không nên làm vậy. Nhưng có hai việc dùng tiếng ngâm vịnh, một là tán thán ân đức của đức Đại sư, hai là tụng kinh Vô Thường (Tam khải), ngoài ra không nên làm.

 

Phật cho phép dùng tiếng ngâm vịnh trong hai việc là tán thán đức của Phật và tụng kinh Vô Thường (Tam khải), có một Bí-sô nhỏ tuổi, làm hai việc này nhưng không biết ngâm vịnh, chỉ biết đọc thẳng như tiếng trút táo.Các Bí-sô nói:

 

- Làm hai việc này, Phật cho phép ngâm vịnh, tại sao không làm?

 

Đáp:

 

- Con không biết.

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Nên học cho biết.

 

Khi Phật bảo học, Bí-sô tùy nơi trong phòng, hành lang, bên cửa, chánh điện ... đều học tập tiếng ngâm vịnh. Trưởng giả vào chùa thấy vậy, cũng hiềm hận như trước, bạch:

 

- Thánh giả, chưa thể bỏ được thành Càn Thát Bà.

 

Lại bạch Phật, Phật dạy:

 

- Nên học tập ngâm vịnh nơi chỗ khuất, không nên ở nơi đầu đường, ai vi phạm bị tội vượt pháp.

 

* Duyên xứ như trước. Có một Bí-sô đứng kéo bát ra khỏi túi đựng bát. Bí-sô khác nói:

 

- Cụ thọ! Chớ nên đứng rút bát ra.

 

Hỏi:

 

- Có lỗi gì?

 

Đáp:

 

- Rơi xuống đất bị vỡ chẳng phải là lỗi hay sao?

 

Người kia im lặng. Đem sự việc bạch Phật, Phật dạy:

 

- Bí-sô không nên đứng lấy bát của mình, bát ở trong túi cũng không được đứng để rửa hay phơi khô. Ai vi phạm bị tội vượt pháp.

 

Nhiếp tụng thứ sáu trong biệt môn thứ nhất.

 

    Đạp y tinh chư đại

    Nhục cập ư tọa cụ

    Hữu duyên ly tam y

    Lục chủng tâm niệm pháp.

 

* Một thời, Phật ở trong rừng Thi Lộc, vùng Khủng Úy, núi Giang Trư. Vương tử Bồ-đề thỉnh Phật và Tăng thiết lễ cúng dường nơi lầu Diệu Hoa. Trên lầu này, khắp nơi đều có trải vải gấm đỏ hồng như bình minh hay ráng chiều. Đến nơi, thấy nơi nào có vải phủ thì Ngài không bước lên. Các Bí-sô cũng không dám đặt chân lên. Vương tử Bồ đề bạch:

 

- Thế Tôn! Cầu xin Thế Tôn từ bi đi qua.

 

Đức Phật cũng không bước lên. Vương tử thấy vậy, thu xếp tấm vải, Phật mới bước tới. Ngoại đạo nghe như vậy, nói:

 

- Sa-môn Kiều Đáp Ma chưa kham nỗi sự cúng dường, nên không dám bước lên vải gấm của vương tử trải.

 

Đức Phật biết việc này, bảo các Bí-sô:

 

- Nếu có Bà-la-môn cư sĩ Trưởng giảtín tâm trải vải quý giá ngay trên đường đi, thỉnh các Bí-sô:

 

- Nguyện quý ngài mở lòng từ bi bước đi lên. Vì muốn chiến thắng tâm ngã mạn của ngoại đạo, các thầy nên quán tưởng các hành vô thường để đi lên, chớ nghi ngại.

 

* Duyên xứ như trước, có Bí-sô đang bưng bát đi trên đường, bị vấp chân nên bát bị rơi vỡ. Nhân việc thiếu sót này nên đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Bí-sô không nên bưng bát bằng tay, nên dùng góc y bọc bát ôm đi.

 

Lại bị lỗi như trước, Phật dạy:

 

- Nên làm túi đựng bát để mang đi, nên làm dây mang lên vai, ôm đi. Ai làm trái lại, bị tội vượt pháp.

 

* Duyên xứ như trước, có Bí-sô làm bạn với đoàn buôn đi du hành trong nhân gian. Trong những người cùng đi, có Bà-la-môn thình lình bị bệnh nên đến gặp y sĩ:

 

- Tôi có bệnh như vậy, mong ngài điều trị.

 

Đáp:

 

- Bệnh này nên dùng Ha-lê-lặc thì hết bệnh.

 

Nói:

 

- Trên đường đi không tìm chỗ nào được.

 

Y sĩ nói:

 

- Sa-môn Thích tử biết rành các loại thuốc, theo họ xin chắc sẽ được cho.

 

Người ấy đến gặp Bí-sô hỏi:

 

- Thánh giả! Ngài có Ha-lê-lặc không?

 

Đáp:

 

- Tôi có, ông dùng thứ ấy làm gì?

 

Nói:

 

- Tôi có bệnh, y sĩ bảo phải dùng nó, xin ngài cho tôi.

 

Trước người ấy, Bí-sô mở túi ra tìm Ha-lê-lặc, trước tiên lấy ra dao bén, rồi đến tấm da, và các thứ tạp dược nhơ sạch xen lẫn. Bà-la-môn thấy các vật tạp uế nên nói:

 

- Thánh giả, Bí-sô quý vị thường làm việc không thanh khiết như vậy, tôi thà chết chứ không chịu uống thuốc nhơ bẩn này.

 

Bí-sô đem việc này bạch Phật. Phật dạy:

 

- Bí-sô nên sắm ba loại túi, một là túi đựng bát, hai là túi đựng thuốc, ba là túi đựng tạp vật.

 

Các Bí-sô dùng đai mang ba túi này ngang nhau dưới nách, bị hở y bày túi ra ngoài. Người bất tín thấy vậy chê cười, nói:

 

- Thánh giả! Chả lẽ ngài mang cái trống dưới nách đi.

 

Bí-sô đem việc này bạch Phật. Phật dạy:

 

- Không được dùng mang đai bằng nhau, nên làm theo thứ lớp dài ngắn mang cho tương xứng.

 

Họ lại mang bằng đai nhỏ làm tổn hại thân thể. Phật dạy:

 

- Nên làm bản lớn, bên trong độn bằng vải và dùng tơ cột lại, đừng cho thiếu lớp. Ai làm khác đi, bị tội vượt pháp.

 

CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ

TỲ-NẠI-DA TẠP SỰ

 

Quyển thứ tư hết.

 

--- o0o ---

Quyển thứ năm

 

--- ooOoo ---

 

(Tiếp theo nhiếp tụng thứ sáu trong biệt môn một}.

 

* Duyên tại thành Thất La Phiệt. Có Bí-sô được nhiều vải nỉ dày, nên suy nghĩ: "Như Thế Tôn dạy nên thọ trì y cắt rọc" nên mang tấm nỉ và dao đến dưới một gốc cây để cắt rọc.

 

Nhân Thế Tôn đến nơi ấy, hỏi:

 

- Thầy làm gì vậy?

 

- Bạch Thế Tôn! Như Ngài dạy Bí-sô nên mặc ba y cắt rọc. Con có nhiều nỉ dày nên muốn cắt làm ba y.

 

Bấy giờ, Thế Tôn tán thán người trì giới và chê bai kẻ phá giới, bảo các Bí-sô:

 

- Có vật không nên cắt rọc là tất cả loại khăn choàng, thảm lông dài, thảm lông ngắn, các vải nỉ dày và vật đã cắt nhỏ. Nếu ai cắt rọc chúng bị tội vượt pháp.

 

* Duyên xứ như trước. Bí-sô khách nọ có việc phải đi gấp nên không mang theo tọa cụ, đến chùa thì trời sắp tối. Vị tri sự bảo:

 

- Cụ thọ hãy nhận lấy ngọa cụ.

 

Vị kia đáp:

 

- Tôi không có tọa cụ thì lấy gì để lót trên nệm.

 

- Nếu vậy, thì nên nhận giường không nệm.

 

Nhận lấy giường ấy, gặp phải trời rét, vị này bị lạnh suốt đêm đến sáng, nên phát bệnh. Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Bí-sô không mang theo tọa cụ, không được đi ra ngoài. Ai vi phạm bị tội vượt pháp.

 

Như Phật có dạy: "Bí-sô không được đi ra ngoài nếu khôngtọa cụ. Các Bí-sô muốn đi tạm thời đến thôn khác cùng một thành, hoặc đến chùa khác, hoặc đi kinh hành, trở về trong ngày ấy cũng mang theo tọa cụ.

 

Có các Bí-sô già bệnh yếu ớt, khi đi không đủ sức mang theo phu cụ, nên mệt nhọc phiền não. Họ bảo với các Bí-sô:

 

- Tôi có việc ra đi và về ngay, Đại sư lại không cho đi mà không mang theo phu cụ, việc này phải làm sao?

 

Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Nếu Bí-sô, đi đến nơi nào đó trong ngày, tạm thời đến chùa khác, đi kinh hành trong chùa, đến thôn xóm gần bên rồi trở về ngay, thì không cần phải mang theo tọa cụ.

 

Lại có Bí-sô gặp việc tạm ra ngoài dự định trở về ngay nên không đem tọa cụ theo. Đến nơi gặp phải duyên sự kéo dài đến chiều tối, vì không mang theo tọa cụ, vị này phải đi về trong đêm nên bị độc trùng, sói, giặc làm hại. Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Nếu có ý muốn trở lại ngay, nhưng gặp phải việc khác nên không kịp về, phải ở lại đên chỗ ấy, không được đi đêm, nên mượn của vị đồng phạm hạnh khác để lót dùng, được thì tốt, nếu không được thì lấy y bảy điều xếp làm bốn dùng lót trên tấm nệm, thức nhiều ngủ ít cho đến khi trời sáng.

 

Có Bí-sô lấy vật của người khác gửi bọc ngọa cụ, bị bất tịnh làm bẩn, rồi đem vật này trả lại, Bí-sô kia không chịu nhận. Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Phải giặt sạch rồi mới trả.

 

Bí-sô giặt sạch đem trả nhưng vị kia vẫn không nhận, bạch Phật. Phật dạy:

 

- Trả lại theo giá trị, hoặc xin lỗi đừng cho hiềm hận.

 

(Nên biết trong văn nói ngọa cụ tức loại có chiều dài theo thân, nguyên là vật bọc nệm nằm, không cho dùng trải trên đất để lễ bái. Nếu dùng trải trên đất để lễ bái thật sai với phép tắc ban đầu).

 

Phật dạy:

 

- Bí-sô không được rời ba y đi ra ngoài (cương giới) .

 

Có các Bí-sô muốn đi đến thôn xóm trong thành một lúc ngắn, hoặc đến chùa khác, hoặc ra ngoài kinh hành,dự định xong việc trở về trong ngày nhưng đều phải mang theo ba y.

 

Lại có những Bí-sô già bệnh ốm yếu, khi đi không đủ sức mang theo ba y, nên thân tâm mệt nhọc, nói:

 

- Có việc đi tạm thời dự định trở lại, không mang theo ba y thì Đại-sư không cho phép.

 

Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Bí-sô nào đi đâu trong ngày, hoặc tạm thời đến chùa khác, hoặc đi kinh hành trong chùa, hoặc đến thôn xóm gần bên và tính trở về thì được phép không mang theo ba y.

 

Có Bí-sô ra ngoài tạm thời nên không mang theo ba y, đến nơi kia thì chiều tối, vì sợ phạm ngủ lìa y nên đi về trong đêm ấy, bị trùng, giặc làm hại. Bí-sô đem việc này bạch Phật. Phật dạy:

 

- Nếu đã có ý muốn trở về ngay, nhưng bận việc không về kịp, thì nghỉ lại nơi ấy không nên đi đêm, có thể mượn tạm ba y khác nơi bạn đồng phạm hạnh, thủ trì sử dụng.

 

Bí-sô không hiểu phải thủ trì như thế nào. Phật dạy:

 

- Trước hết cầm lấy y mới, tâm niệm xả y cũ và thủ trì y mới. Bí-sô nên biết có sáu pháp tâm niệm:

 

    Một là trưởng tịnh,

    Hai là tùy-ý,

    Ba là thủ trì y,

    Bốn là xả ba y,

    Năm là phân biệt y dư,

    Sáu là xả biệt thỉnh.

 

Bí-sô được y không rảnh để cắt giặt nhuộm. Phật dạy:

 

- Nếu không đủ điều kiện để may giặt nhuộm, xét giá trị của bạch điệp hay vải chưa nhuộm, quy ra đủ chi phí đem sắm ba y, cho đến có thể thủ trì y vật mượn của người thế tục để dùng, cũng không phạm, chớ nghi ngại.

 

Có các Bí-sô đi ngủ nơi khác không mang theo tọa cụ, cho rằng phạm lìa y. Bí-sô đem việc này bạch Phật. Phật dạy:

 

- Ta chế định Bí-sô không được ngủ lìa ba y chứ không phải tọa cụ, nhưng các Bí-sô không nên cố ý không mang theo; người bị quên không phạm.

 

 

 

Nhiếp tụng thứ bảy trong biệt môn thứ nhất:

 

    Thủy la hữu ngũ chủng

    Khí cộng nhất xứ thực

    Lộ hình hám ẩm thực

    Tẩy dục sự ưng tri.

 

* Duyên ở thành Thất La Phiệt. Phương Nam có hai Bí-sô muốn đến thành Thất La Phiệt lễ bái Thế Tôn nhưng đều không có lưới lược nước. Trên đường đi, không có nước uống, đang quá nóng khát, họ đến một ao nước. Một người nói:

 

- Cụ thọ, hãy mau xem xét nước, tôi muốn uống cho hết khát.

 

Họ xem thấy nước có trùng, xem đến ba nơi đều có trùng, nên bàn nhau:

 

- Nước có trùng, uống thì hại mạng chúng sinh, nay quá khát nước vậy phải làm sao?

 

Vị Bí-sô nhỏ nói kệ:

 

    Trăm ngàn Cu-đê kiếp

    Khó được gặp Thế Tôn

    Nay ta nên uống nước

    Mong lễ bậc Đại-sư.

 

Vị Bí-sô lớn nói kệ:

 

    Như Lai đại từ thương chúng sinh

    Diệt hết ái nhiễm với ba cõi

    Thọ trì giới cấm trong pháp này

    Ta thà chịu chết không sát sinh.

 

Bấy giờ, Bí-sô nhỏ không nhịn khát được, nên uống nước có trùng và lên đường. Vị lớn vì hộ trì trùng nên cương quyết không uống, cố gắng đến ngồi thẳng dưới bóng cây, trong lúc chưa kiệt quệ hết sức, tâm vẫn niệm đến việc thiện, cho đến khi hết sức mà qua đời. Do sức phước này, vị này sinh đến nơi tốt nhất ở cõi trời Ba mươi ba. Thường khi người vừa sinh thiên, dù nam hay nữ đều phát sinh ba ý nghĩ: - Ta chết từ nơi nào, đang sinh đến nơi nào, do làm nghiệp gì.

 

Vị ấy nhớ lại tiền thânloài người, nay sinh đến cõi trời Ba-mươi-ba, nhờ hết sức tôn trọng lời Phật dạy.Vị thiên tử kia nghĩ: "Nếu ta không đến lễ bái Thế Tôn là điều không đúng, vì bất kính". Sau khi suy nghĩ, vị Thiên này trang nghiêm thân thể bằng anh lạc cõi thiên với ánh sáng đặc biệt, rồi dùng vạt y đựng đầy các hoa đẹp, hoa Ôn Bát La, hoa Bát Đầu Ma, hoa Câu Vật Đầu, hoa Phân Đà Lợi Ca, hoa Mạn Đà La, qua khỏi đầu đêm đến gặp đức Phật, tự thân tung hoa trời cúng dường, lạy sát hai chân Phật rồi ngồi lui về một bên, lắng nghe diệu pháp. Hào quang của vị trời này rất rực rỡ, chiếu sáng cả vườn Thệ-đa. Thế Tôn tùy theo sở thíchcăn tính của vị trời này mà thuyết pháp, làm cho hiểu rõ lý bốn Thánh-đế.

 

Bấy giờ, vị trời này dùng trí tuệ như chày kim cương phá tan núi hai mươi ngã kiến, chứng quả Dự-lưu. Sau khi được kiến-đế, vị này ba lần bạch Phật:

 

- Đại đức, nhờ Phật Thế Tôn làm cho con chứng đắc quả giải thoát, đây không phải do cha mẹ, vua người, thiên chúng, Sa môn, Bà-la-môn thân hữu, quyến thuộc có thể làm được. Con gặp được Thế Tôn là bậc thiện tri thức cứu giúp con thoát khỏi địa ngục, bàng-sinh, ngạ-quỷ, đem đến nơi cõi trời Thắng diệu, sẽ hết sinh tử chứng đắc Niết bàn, vượt khỏi núi xương, làm cạn biển máu, dùng trí tuệ như chày Kim cương phá nát ngã kiến tích tụ từ vô thủy, chứng quả Dự lưu. Nay con xin quy y Tam bảo thọ trì năm học xứ, kể từ hôm nay cho đến trọn đời không sát sinh cho đến không uống rượu, cầu xin Thế Tôn chứng tri cho con làm người cận sự nam.

 

Ngay trước Thế Tôn, vị trời chắp tay cung kính nói kệ:

 

    Con nhờ vào sức Phật

    Đóng hẳn ba đường ác

    Sinh cõi trời thắng diệu

    Hướng về cõi Niết bàn.

 

    Con nhờ vào Thế Tôn

    Nên được mắt thanh tịnh

    Thấy rõ lý chân-đế

    Sẽ vượt qua biển khổ.

 

    Phật vượt trên trời người

    Thoát sinh già bệnh chết

    Khó gặp trong biển hữu

    Con gặp, được chứng quả.

 

    Con với thân trang nghiêm

    Tâm tịnh lễ chân Phật

    Nhiễu bên phải trừ oán

    Xin trở về thiên cung.

 

Sau khi nói lên ý nguyện của mình, như người chủ buôn được nhiều tài lợi, cũng như nông phu được mùa thu nhiều lương thực, như người hùng mạnh chiến thắng kẻ oán thù, như người thoát khỏi cơn bệnh nặng, vị trời ấy từ giã đức Phật xong, trở về thiên đường. Vị Bí-sô nhỏ kia đi dần đến thành Thất La Phiệt vào rừng Thệ Đa, an trí y bát, rửa chân xong, đến gặp Thế Tôn, lạy sát chân Ngài rồi đứng qua một bên.

 

Như thường pháp, Thế Tôn thấy Bí-sô khách đến thì an ủi thăm hỏi:

 

- Lành thay chào Bí-sô, từ đâu đến đây, hạ này an cư ở thành, nước nào?

 

Khi ấy, Thế Tôn cũng hỏi Bí-sô này:

 

- Thầy từ đâu đến đây?

 

- Bạch Thế Tôn! Con từ phương Nam đến đây.

 

Hỏi:

 

- Hạ này an cư ở đâu?

 

Đáp:

 

- Cũng tại phương Nam.

 

Phật hỏi:

 

- Thầy đi đường xa vậy có bạn không?

 

Thưa:

 

- Dạ có.

 

Phật hỏi:

 

- Người ấy đi đâu?

 

Vị này liền kể lại sự việc.

 

Thế Tôn nói kệ:

 

    Ai xem thường giới Ta

    Gắng gặp Ta làm gì?

    Giả sử có gặp Ta

    Như chẳng thấy, chẳng cúng.

 

    Bí-sô kia thấy Ta

    Vì giữ gìn tịnh giới

    Ngươi ngu si không trí

    Không phải thật thấy Ta.

 

Khi ấy, Thế Tôn liền vẹt thượng y ra cho vị kia thấy ngực, lại nói kệ:

 

    Ngươi hãy xem thân Ta

    Thể xác cha mẹ sinh

    Màu cũng như vàng ròng

    Đều do nghiệp đã làm.

 

    Ai không kính pháp-thân

    Họ không thấy chư Phật

    Ai thành tựu pháp thân

    Được thấy Đại Mâu-ny

 

    Pháp thân Ta thứ nhất

    Sắc thân đứng thứ hai

    Bậc trí thấy biết rõ

    Nên giữ gìn giới luật.

 

    Thời Phật Ca-nhiếp-ba

    Có Bí-sô phạm giới

    Vì phá lá y-la

    Đang đọa vào loài rồng.

 

Sau khi suy nghĩ: "Vì các Bí-sô không mang lưới lược nước nên có lỗi như vậy", Thế Tôn bảo các Bí-sô:

 

- Nên có lưới lược nước.

 

Như Thế Tôn dạy: "Phải sắm lưới lược nước", Bí-sô không biết có bao nhiêu loại lưới lược nước. Phật dạy:

 

- Có năm loại lưới lược nước:

 

    Một là lưới vuông (Loại xử dụng thông thường thì dùng chừng ba, hai hay một thước lụa sống. Tăng sĩ nên dùng hai lớp, lớn nhỏ tùy lúc. Lụa dùng làm lưới phải mịn và dày, trùng không lọt qua mới được; nếu thưa mỏng thì không được dùng. Có người dùng vải nhớp hay the thưa, vải gai vì không cố ý bảo vệ trùng).

 

    Hai là pháp bình (bình âm dương).

 

    Ba là quân trì (dùng lụa bịt miệng bình, cột vào cổ bằng dây nhỏ, nhúng vào trong nước cho nổi lên nữa miệng, nếu chúc chìm miệng thì nước không vào, chờ đầy mới lấy ra nhưng phải xem kỹ trùng. Nếu không phải quân trì mà gặp loại bình ống rộng miệng, dù lớn hay nhỏ đều lấy lụa bịt miệng, dùng dây nhỏ cột chặt tùy lúc lấy nước. Việc này rất đơn giản lại không cần chậu để phóng sinh, rất là cần thiế)t.

 

    Bốn là chước thủy la (Loại này ở Đông-hạ không thấy nói đến, nơi khác có chỉ là túi lưới nhỏ, tuy nội dung giống nhau nhưng hình thức không đúng hẳn như chính nó).

 

    Năm là y giác la (dùng lụa dày vuông chừng một khuỷu tay, hoặc cột vào miệng bình lấy nước xử dụng, hoặc để trên miệng chén dùng lược nước khi cần, chẳng phải góc ca-sa. Loại này dày nhưng thông nước nên dùng để lược; chỉ vì từ lâu đã không hiểu biết phương pháp, ai sẽ hướng dẫn. Các loại lưới lược này đều thấy sử dụng ở phương Tây . Đại sưthương xót muốn cứu giúp chúng sinh, ăn thịt còn tổn lòng đại bi huống chi sát sinh thì làm sao thành Phật. Giả như có việc tạm thời ra khỏi chùa nên mang theo lưới lược và dây nhỏ cùng vật dụng để phóng sinh. Người không mang theo chẳng phải chính là biểu hiện thái độ khinh lời Phật dạy và lấy gì để dạy bảo môn đồ. Hành giả hãy suy nghĩ việc này, cần phải bảo tồn vì lợi ích cho mình và người vậy).

 

* Duyên xứ tại thành Thất La Phiệt. Hai Bí-sô đã có hiềm khích, cùng làm bạn đi du hành trong nhân gian. Một người có lưới lược nước, người kia thì không. Người có lưới, dùng lược nước uống. Người không có lưới, bảo:

 

- Cụ thọ hãy cho tôi mượn lưới lược.

 

Người kia không cho mượn nên bị lỡ việc. Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Đã có hiềm khích, không được cùng nhau đi du hành nhân gian. Giả như gặp việc phải đi chung, nên tạ lỗi nhau, rồi mới đi chung.

 

* Duyên tại thành Thất La Phiệt. Có hai Bí-sô cùng du hành nhân gian. Một người có lưới lược nước, một người không có. Người không có hỏi vị kia:

 

- Cụ thọ! Thầy có lưới lược nước không?

 

Đáp:

 

- Có.

 

Nhưng vị kia không hỏi có thể mượn dùng được không. Sau đó, vị có lưới, lược nước để uống. Vị không có lưới, theo mượn, vị kia không cho mượn nên sinh hiềm hận. Vị có lưới bảo:

 

- Thầy chỉ hỏi có hay không chứ nào nói mượn dùng, nay lại hỏi mượn, thật là bất kính nên ta chẳng cho mượn.

 

Vị kia bị lỡ việc. Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Khi các Bí-sô muốn đi đâu, nếu không có lưới lược phải hỏi đồng bạn:- Thầy có lưới lược không. Nếu họ nói có, nên hỏi thêm:- Tôi dùng chung được không?. Họ đồng ý mới được đi chung, không cho thì không nên đi.

 

* Duyên tại thành Thất La Phiệt. Có hai Bí-sô cùng du hành nhân gian, một người có lưới lược nước, người kia không có. Người không có lưới hỏi:

 

- Thầy có lưới lược nước không?

 

Đáp:

 

- Tôi có.

 

Hỏi:

 

- Cho tôi dùng chung được không?

 

Đáp:

 

- Được.

 

Họ cùng đi với nhau, trên đường gặp đoàn buôn. Người có lưới lược có việc cần phải trở về. Người không lưới bảo:

 

- Trước đây, thầy hứa cho dùng chung lưới lược, vậy hãy đưa cho tôi.

 

Đáp:

 

- Tôi hứa dùng lưới lược nước chung, chứ không phải để lại cho thầy dùng.

 

Người ở lại không có lưới lược nên bị lỡ việc. Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Bí-sô không có lưới hỏi người có: - Thầy có lưới không. Nếu họ nói có, nên hỏi lại: - Nếu thầy trở lại có thể cho tôi mượn lưới được không? Họ đồng ý thì tốt, nếu không đồng ý thì không nên đi.

 

Cụ thọ Ô Ba Ly thưa Thế Tôn:

 

- Đại đức! Nếu không có lưới lược nước, được phép đi đến làng khác hay chùa khác không?

 

Phật dạy:

 

- Không được, nếu biết nơi ấy có thể tìm được lưới lược, không làm cho lỡ công việc, không phạm.

 

- Bạch Đại đức! Hai người có một lưới lược, được phép du hành không?

 

Đáp:

 

- Nếu không làm cho lỡ công việc thì được.

 

- Bạch Đại đức! Nhiều người cho đến cả chúng chỉ có một lưới lược, được phép du hành không?

 

- Được, nếu có thể sử dụng đầy đủ.

 

- Bạch Đại đức! Nếu không có lưới lược, được phép đi lại trên bờ sông không?

 

- Này Ô Ba Ly! Nếu nước chảy mạnh, không có sông khác chảy vào thì cách năm dặm xem một lần. Nếu có dòng nước khác chảy vào, khi dùng phải xem kỹ. Nếu sông không chảy mạnh cũng tuỳ chỗ xem kỹ.

 

- Đại đức! Khi xem xét nước, được trong phạm vi rộng bao nhiêu?

 

Phật dạy:

 

- Chu vi chừng một tầm.

 

- Bạch Đại đức! Nếu nước không xem xét, không lược, có thể dùng không?

 

Phật dạy:

 

- Không được, dùng bị tội.

 

- Bạch Đại-đức! Nước đã lược xong, không xem xét được phép dùng không?

 

Phật dạy:

 

- Không được.

 

- Bạch Đại đức! Nước không lược, có xem xét được phép dùng không?

 

Phật dạy:

 

- Quán sát thấy không có trùng, được tùy ý dùng.

 

- Bạch Đại-đức! Nước có lược và xem xét, được phép dùng không?

 

Phật dạy:

 

- Không trùng được dùng.

 

Phật bảo Ô Ba Ly có năm loại nước sạch (tịnh thủy):

 

    Một là Tăng-già tịnh,

    Hai là Biệt nhân tịnh,

    Ba là Lự la tịnh,

    Bốn là Dũng tuyền tịnh,

    Năm là Tỉnh thủy tịnh.

 

- Tăng già tịnh là đại chúng sai một Bí-sô làm việc xem xét lược nước. Vị ấy xem xét đúng pháp. Có Bí-sô khác đến cho rằng Tăng đã làm sạch, nên uống dùng, không phạm.

 

- Biệt nhân tịnh là biết Bí-sô kia đều thanh tịnh về giới, kiến, uy nghi, chánh mạng, nên dùng nước của vị ấy không phạm.

 

- Lự la tịnh là từng dùng lưới lược này, chưa bị trùng lọt qua, nên không xem xét không phạm.

 

- Dũng tuyền tịnh là ngay mạch nước không có trùng.

 

- Tỉnh thủy tịnh là vào sáng sớm lấy nước thấy trong sạch không có trùng, trong buổi sáng đến lấy tùy ý dùng.

 

Bí-sô dùng mắt chăm chú xem nước liên tục, nên bị loạn thị. Phật dạy:

 

- Không nên xem lâu, nên bằng khoảng thời gian xe sáu bò chở tre quay lại,lại xem xét trong thời gian tâm vừa yên tịnh thì không phạm.

 

* Duyên tại thành Thất La Phiệt. Có những tịnh tín cư sĩ Bà-la-môn, mang các dụng cụ đựng thức ăn dâng lên Bí-sô. Khi ấy các Bí-sô không nhận. Họ đều thưa:

 

- Thánh giả! Khi Thế Tôn chưa ra đời, chúng con lấy ngoại đạo làm ruộng phước tốt nhất. Nay đức Phật xuất hiện trong thế gian, chúng con cho các ngài là hơn hết. Các ngài không nhận những vật chúng con dâng, chẳng lẽ làm cho chúng con không mang được tư lương sang đời sau hay sao?

 

Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Vì đại chúng nên nhận vật đựng.

 

Theo lời Phật dạy nên nhận vật dụng ấy cho Tăng, Bí-sô nhận vật cất vào kho, khi ăn vẫn dùng bát để ăn. Thí chủ ấy thấy vậy hỏi:

 

- Chúng con dâng vật ấy đến quý ngài, vì sao không thấy dùng?

 

Đáp:

 

- Hiền thủ! Cất chúng trong kho.

 

Hỏi:

 

- Thánh giả! Chẳng lẽ trong nhà con không có kho hay sao? Khi dâng cúng với ý muốn quý ngài sử dụng để chúng con được hưởng phước thọ dụng. Các ngài nhận rồi lại cất vào kho, làm cho chúng con chỉ hưởng phước bố thí chứ không có phước thọ dụng.

 

Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Vật của họ dâng cúng nên đem ra dùng.

 

Bí-sô theo lời Phật dạy nên đem ra sử dụng. Sau đó, có thí chủ khác, tâm thích to rộng nên dâng mâm đồng lớn. Có Bí-sô già được phân mâm này, cố lau chùi nên sinh lao khổ.

 

Phật dạy:

 

- Nên sai người quản lý mâm vật đựng, xem xét việc lau chùi.

 

Bí-sô không biết chọn lựa người để sai việc xem xét vật dụng nên làm cho bị hư hoại. Phật dạy:

 

- Người có đủ năm pháp, chưa sai không nên sai, đã sai thì không cho làm. Năm pháp là gì? Đó là có Ái, Nhuế, Bố, Si, không ghi nhớ đã làm hay không làm. Ai có đủ năm pháp thì chưa sai nên sai, đã sai thì bảo làm. Thế nào là năm?

 

- Nghĩa là không Ái, không Nhuế, không Bố, không Si, ghi nhớ rõ đã làm hay không làm. Nên sai theo trình tự:- Trải tòa, đánh kiền chùy, bạch với tất cả, đại chúng tập họp hết. Trước hết hỏi:- Thầy tên ... có thể làm việc về mâm, vật dụng cho Tăng già không? Nếu biết có thể thì đáp:- Tôi có thể.Thứ đến một Bí-sô tác bạch yết -ma:

 

- Đại đức Tăng già lắng nghe. Bí-sô ... này vui vẻ làm việc về vật dụng cho Tăng. Nếu thời gian thích hợp với Tăng, Tăng đồng ý, nay Tăng sai Bí-sô ... là người làm việc về vật dụng, sẽ làm việc về vật dụng cho tăng. Đây là lời tác bạch. (Yết Ma làm theo văn bạch).

 

Khi các Bí-sô nhận được vật dụng, sau khi ăn đem vật dụng nhơ bẩn giao cho người làm về vật dụng. Phật dạy:

 

- Vật đã sử dụng nhơ bẩn nên sai đệ tử môn nhân lau chùi.

 

Có Bí-sô không có đệ tử nên tự lau chùi. Phật dạy:

 

- Vị này đem vật dụng giao cho người làm về việc này để họ lau chùi. Nếu đệ tử môn nhân không biết cách lau chùi, cũng nên giao vật dụng cho người làm về việc này.

 

* Duyên tại thành Thất La Phiệt. Lục chúng Bí-sô cùng ăn chung trong một bát. Cùng đưa tay vào trong bát rồi đồng thời giở tay, bát bị kéo cao lên, họ nói với nhau:

 

- Hãy xem bát đen này đang hiện thần thông.

 

Sáu người đều rút tay, bát bị rơi vỡ, nên cùng nhau cười lớn. Bí-sô khác thấy vậy nói:

 

- Cụ thọ, cùng nhau làm việc xấu ác như vậy, lẽ ra phải xấu hổ, ngược lại còn cười lớn.

 

Đáp:

 

- Ta làm việc gì, đang uống rượu hay ăn hành tỏi?

 

Bí-sô đáp:

 

- Chẳng bao lâu sẽ thấy các vị làm việc ấy.

 

Lục chúng đáp:

 

- Tuy bát ta vỡ, chẳng lẽ thợ gốm cũng chết, đất sét không còn, ta sẽ làm lại nào có lỗi gì?

 

Bấy giờ, các Bí-sô xấu hổ nên không trả lời, đem sự việc bạch Phật. Phật suy nghĩ: "Vì các Bí-sô ăn chung một chỗ nên có lỗi như vậy". Ngài chế định: "Ai làm như vậy bị tội vượt pháp".

 

Như Phật chế, Bí-sô không được ăn chung trong một vật đựng. Có các Bí-sô đi theo đoàn buôn. Bấy giờ, đoàn buôn cùng ăn chung một chỗ, Bí-sô cũng ăn nhưng ít vật đựng nên không dám ăn chung, chờ xong mới ăn, bị trễ giờ không theo kịp bạn, phải đi sau nên bị giặc cướp đoạt. Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Đang đi trên đường, không tìm được vật đựng, tuy nhiều người nhưng có thể ăn chung một vật đựng, người này đưa tay lên, người kia mới đưa tay xuống, không được đồng thời đưa lên hay xuống.

 

Phật cho phép ăn chung, có những cầu-tịch không dám cùng ăn chung với Bí-sô nên sinh ra lỗi như trên. Phật dạy:

 

- Bí-sô trước phải nhận vật thực bằng cách dùng tay cầm vật đựng, rồi cùng nhau ăn một chỗ.

 

Gặp lúc cùng đi với tịnh nhân, hay cầu-tịch xảy ra việc như trước. Phật dạy:

 

- Vắt cơm thành từng nắm chuyền nhau ăn.

 

Có Bí-sô trở về sinh quán, thân tộc nói:

 

- Xa cách đã lâu, nay mới gặp nhau, nên ngồi ăn chung mâm.

 

Đáp:

 

- Ông là người tục, tôi là người xuất gia, không nên ăn chung mâm.

 

Họ nghe vậy nên đứng buồn bã khóc lóc. Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Biết họ ân cần mời, có thể ăn chung nơi chỗ khuất để không gây hiềm nghị. Trước tiên thọ vật thực của họ bằng cách lấy tay nhận lấy mâm, cùng ngồi ăn không lỗi.

 

* Duyên xứ tại thành Thất La Phạt. Lục chúng Bí-sô chỉ mặc y nội ngồi ăn. Người tục thấy vậy nói với nhau:

 

- Ai đang ăn vậy?

 

Một người đáp:

 

- Đấy là Sa-môn Thích tử.

 

Họ đều bất mãn xấu hổ nói:

 

- Giáo chủ của họ rất giữ sự tàm quý, vì sao đệ tử làm việc không biết xấu hổ như vậy.

 

Bí-sô bạch Phật. Phật suy nghĩ: "Ngồi ăn mà chỉ mặc y nội nên có lỗi như vậy". Ngài chế:

 

- Bí-sô không được chỉ mặc y nội mà ngồi ăn, ai làm vậy bị tội vượt pháp.

 

Phật dạy: "Không nên chỉ mặc y nội mà ngồi ăn".

 

Có Bí-sô già bệnh ốm yếu, khi ăn không thể mang thêm y. Phật dạy:

 

- Khi ăn nên mặc y lót mồ hôi Tăng Khước Kỳ, không phạm.

 

Lại có Bí-sô bệnh cũng không thể mặc y Tăng Khước Kỳ. Phật dạy:

 

- Nếu người bệnh nặng, nên ở chỗ khuất, chớ cho người ngoài thấy, thì được tùy ý chỉ mặc quần mà ăn.

 

* Duyên tại thành Thất La Phiệt. Lục chúng Bí-sô tắm trần truồng nơi sông A Thị La. Người thế tục thấy vậy hỏi nhau:

 

- Ai vậy?

 

Có người nói:

 

- Đó là ngoại đạo lõa hình đang tắm dưới sông.

 

Có người nói:

 

- Đấy là Thích-ca tử.

 

Họ đều chê bai nói:

 

- Giáo chủ của họ rất biết tàm quý, tại sao đệ tử lại vô sỉ như vậy ... cho đến Phật suy nghĩ: "Các Bí-sô lõa hình tắm có những lỗi như vậy". Ngài chế:

 

- Các Bí-sô không được tắm truồng, ai vi phạm bị tội vượt pháp; nhưng các Bí-sô nên sắm quần tắm.

 

Khi Phật cho phép sắm y để tắm, Bí-sô may y tắm hai lớp. Phật dạy:

 

- Sợ có trùng chui vào nên không được dùng. Nếu ai chỉ có y tắm kép không có loại đơn thì xem kỹ nước không trùng mới tắm.

 

Có người chỉ dùng ba y, sợ trái pháp nên không dùng y tắm. Phật dạy:

 

- Nên thủ trì rồi giữ để dùng.

 

Lại có người nghèo nên không có y này. Phật dạy:

 

- Nếu không thể nào có, dùng dây buộc lá che trước và sau lại, tắm nơi khuất không để cho người khác thấy, thì không phạm.

 

Bí-sô tắm xong sợ y có trùng nên không vắt y cho ráo nước. Phật dạy:

 

- Y một lớp chắc trùng không bám, nhưng khi vắt nước tìm cách giũ ra, đừng cho trùng bám.

 

 

 

Nhiếp tụng tám trong biệt môn thứ nhất.

 

    Đậu sinh bất tịnh địa

    Thổ địa chỉ thọ sách

    Đồng khí bất ưng vi

    Thạnh diêm đẳng tùy xúc.

 

* Duyên tại thành Thất La Phiệt. Có cụ thọ Bí-sô Hiệt Ly Bạt Đểâ đối với việc gì cũng nghi ngờ, nên người đương thời gọi là Hiệt Ly Bạt Để đa nghi. Vào lúc nọ trong nhà xí, vị này thấy hạt đậu mọc lá nên tự nghĩ:

 

- Ta làm tổn hại hạt sống.

 

Vào lúc khác, trong Tăng làm nhiều bánh ngọt bằng đậu xanh, vị ấy không dám ăn. Các đệ tử hỏi:

 

- Thưa Ô Ba Đà Da, trong Tăng làm nhiều bánh ngọt đậu xanh, vì sao thầy không ăn?

 

Đáp:

 

- Chẳng lẽ ta làm tổn hại hạt sống hay sao?

 

Đệ tử hỏi:

 

- Việc này như thế nào?

 

Vị này kể lại sự việc đã thấy khi trước. Bấy giờ, đệ tử cũng không dám ăn. Những người quen của họ hỏi:

 

- Vì sao thầy không ăn?

 

Họ kể lại lời thầy đã nói. Bấy giờ, Hiệt Ly Bạt Để có nhiều môn đồ nên họ truyền rộng ra, cho đến cả chúng đều không ăn. Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Trong các loại đậu có hạt không chín dù nấu đã lâu, sau khi ăn nó mọc lại. Loại này đã nấu qua, ăn không có lỗi.

 

* Duyên tại thành Thất La Phiệt. Cụ thọ Ô Ba Ly thưa với Thế Tôn:

 

- Nơi đất không sạch có mọc cây ăn trái, trái rơi nơi đất sạch, được phép ăn không?

 

Phật dạy:

 

- Không nên ăn.

 

- Cây ăn trái mọc nơi đất không sạch, trái rụng nơi đất sạch, được phép ăn không?

 

Phật dạy:

 

- Được ăn.

 

- Cây ăn trái mọc nơi đất sạch, trái rụng nơi đất không sạch được phép ăn không?

 

Phật dạy:

 

- Nếu không để cách đêm thì được ăn.

 

- Đại đức! Cây mọc nơi đất sạch rụng trái nơi đất sạch, được ăn không?

 

Phật dạy:

 

- Được ăn.

 

* Duyên tại thành Thất La Phiệt. Có Bà-la-môn đứng đầu về dạy học, được một bò đực, sau được bò đực, sau đó lại có thêm con đực, số bò cứ phát triễn như vậy và trở thành bầy. Người Bà-la-môn cho rằng con bò đực đầu tiên là may mắn nên không giết nó và thả tự do. Lúc bò này già yếu, một hôm khát nên xuống sông uống nước, bị lún xuống bùn không thể lên được. Bấy giờ, Tôn giả Xá Lợi Phất đi ngang qua, thấy bò bị lún trong bùn nên quán sátthiện căn không, thấy có nó duyên với mình nên kéo ra khỏi bùn lấy nước rửa sạch và cho ăn cỏ uống nước. Tôn giả nói ba câu pháp với nó:

 

- Hiền thủ! Các hành vô thường, các pháp vô ngã, tịch diệt là vui; hãy sinh lòng tin với ta và sinh lòng nhàm chán thân súc sinh.

 

Sau khi nói xong, Tôn giả bỏ đi. Đêm ấy, khi bị chó sói ăn thịt, con bò này nghĩ: "Nếu có Thầy ta ở bên cạnh, chắc chắn ta không bị những khổ này", nên chú tâm tôn trọng ngài Xá Lợi Phất. Ngay lúc ấy nó qua đời và sinh vào nhà Bà-la-môn. Sau khi suy nghĩ: "Ta hãy xem lại con bò già kia", Tôn giả Xá Lợi Phất tác ý quán sát biết nó đã qua đời, đang thọ sinh ở đâu, Tôn giả thấy nó sinh vào nhà Bà-la-môn. Bấy giờ, Xá Lợi Phấthóa duyên nên đến nhà Bà-la-môn, thường đến nhà kia, vợ chồng đều thọ tam quy ngũ giới. Sau đó, một hôm Tôn giả đi một mình đến nhà kia. Trưởng giả hỏi:

 

- Vì sao Tôn giả đi một mình không có thị giả? ... như nói rõ ở trên.

 

Sau đó tám, chín tháng, họ sinh một bé trai mặt giống như bò. Vào ngày đầy tháng, bà con tụ họp, đứa bé được bồng ra để xin mọi người đặt tên. Mọi người bàn nhau:

 

- Bé trai này diện mạo giống bò chúa, nên đặt tên là Ngưu Chủ ... nói rộng như nhân duyên của Tôn giả Thiện Hòa ... xuất gia thọ Cận-viên, chứng A-la-hán. Do nghiệp lực đời trước nên trong cổ Tôn giả có hai cuống họng, một mửa vật sống ra, một nuốt vật chín. Khi Phật chưa chế giới ăn phi thời thì Tôn giả ở chỗ vắng ói ra rồi ăn lại. Sau khi Phật chế giới thì vị này ói luôn ra ngoài.Đã không ăn được nên thân hình vị ấy tiều tụy. Thế Tôn thấy vậy, biết mà cố hỏi cụ thọ A Nan Đà:

 

- Vì sao Bí-sô Ngưu Chủ thân hình quá gầy ốm tiều tụy vậy?

 

A Nan Đà đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Ai do túc nghiệp nên có hai cuống họng, khi thức ăn ói ra nên nhả ra ngoài ba lần, sau đó súc sạch miệng, rồi tùy ý nuốt, thì không phạm.

 

Có những Bí-sô đã ăn no xong, trong cổ họng lại trào thức ăn ra nên sinh ý nghi: "Ta có phạm giới ăn phi thời hay không?". Phật dạy:

 

- Nếu gặp trường hợp như vậy nên súc sạch miệng, thì không phạm.

 

Sau khi Bí-sô Ngưu Chủ xuất gia, nhiều người thế tục cùng sinh chê bai, nói:

 

- Sa-môn Thích tử cùng nhau làm việc phi pháp nên cho xuất gia những người hình dáng xấu xí như Ngưu Chủ.

 

Các Bí-sô đem việc này bạch Phật. Phật suy nghĩ:

 

" Thánh đệ tử của Ta, đức độ như núi Diệu cao, dễ làm cho mọi người sinh đố kỵ. Do việc này, Bí-sô Ngưu Chủ không nên ở nơi thành phố đông người". Thế Tôn bảo Ngưu Chủ:

 

- Từ nay về sau, thầy không nên ở nơi thành phố trung tâm, nên ra chỗ biên phương.

 

Nghe Phật dạy xong, Tôn giả bạch Phật:

 

- Bạch Thế Tôn! Đúng vậy.

 

Sau đó vị này rời khỏi rừng Thệ Đa, đến sống an ổn nơi cung Thế Lị Sa. Phật bảo các Bí-sô:

 

- Trong các đệ tử sống nơi biên phương của Ta, Ngưu-Chủ là tối thượng.

 

Khi ấy, các Bí-sô đều có nghi ngờ, thưa với Thế Tôn:

 

- Cụ thọ Ngưu Chủ từng làm việc gì, mà do nghiệp ấy tuy sinh làm người lại có hình dáng trâu, được xuất gia tu hành trong Phật pháp, chứng quả A-la-hán?

 

Phật bảo các Bí-sô:

 

- Bí-sô Ngưu Chủ do nghiệp trước đây đã làm tăng trưởng thuần thục, tự thọ trở lại rộng như đã nói ở trên. Các thầy hãy lắng nghe, vào thời quá khứ, trong Hiền-kiếp này khi loài người thọ hai vạn tuổi, có Phật Ca Nhiếp Ba xuất hiện trong đời, đầy đủ mười hiệu. Ngưu Chủ từng xuất gia tu tập trong giáo pháp của Phật ấy. Thân giáo sư của vị ấy là bậc A-la-hán làm thượng thủ trong chúng, tuồi tác già nua, thân hình ốm yếu không tự ăn được. Bấy giờ Ngưu Chủ thường phục vụ thầy ăn, sau khi thu dọn bát, rửa sạch rồi cùng các Bí-sô khác ở một nơi tụng tập.Sau đó, vì thầy ăn chậm nên rửa bát hơi trễ, bạn đồng học hỏi:

 

- Vì sao đến muộn vậy?

 

Đáp:

 

- Cụ thọ! Thầy tôi mới vừa ăn xong.

 

Vào hôm khác, đệ tử đã ăn xong, sau khi rửa bát đến chổ vị thầy, thấy ăn chưa xong nên nổi sân:

 

- Vì sao ăn chậm như bò già vậy!

 

Vị thầy suy nghĩ: "Nó đang giận dữ, nếu ta nói ra tất cơn giận nó bùng ra, chờ khi hết giận mới nói cho biết". Khi đệ tử hết giận, vị thầy mới hỏi:

 

- Cụ thọ, ngươi nói gì vậy?

 

Đáp:

 

- Con nói thầy ăn chậm chạp như con bò già.

 

Thầy nói:

 

- Này cụ thọ, không biết ta là hạng người nào hay sao?

 

Đáp:

 

- Con biết thầy là người xuất gia trong giáo pháp đức Phật Ca Nhiếp Ba, con cũng xuất gia trong pháp luật này. Thầy bảo:

 

- Thánh tử! Việc này đúng như vậy. Việc phải làm của người xuất gia ta đã làm xong, ta đã thoát các triền phược, người còn đủ triền phược. Người nói với ta bằng lời thô ác, nên ân cần chí tâm sám hối tội lỗi, như vậy mới trừ diệt được ác nghiệp. Đệ tử nghe xong, chí tâm sám hối. Các Bí-sô biết không, do thời quá khứ vị ấy tạo ra nghiệp xấu vì nói thô ác với vị A-la-hán, bị thọ thân bò trong năm trăm đời, cho đến ngày nay vì nghiệp dư tàn chưa hết nên còn mang hình dáng loài bò. Do vị ấy siêng năng làm việc tụng tập nên được xuất gia trong giáo pháp của Ta, đoạn trừ các nghiệp phiền não chứng A-la-hán.

 

Các Bí-sô lại thưa với Phật:

 

- Do làm nghiệp gì mà Bí-sô Ngưu Chủ được Thế Tôn cho ở biên phương và khen là đệ nhất.

 

Phật dạy:

 

- Do phát nguyện lực.

 

- Từng phát nguyện gì?

 

- Vào thời Phật kia vị ấy xuất gia tu tập cho đến trọn đời nhưng đối với môn thắng diệu không chứng đắc gì cả.Trong các đệ tử của Phật Ca Nhiếp Ba, thầy của vị ấy là người trú ở biên phương thọ dụng y thực được tôn xung là số một. Thấy như vậy, vị ấy phát nguyện:

 

- Ta xuất tu tập với đức Phật kia, đến trọn đời cũng chưa chứng được gì trong Thắng Diệu môn, ta nguyện đem công đức siêng năng tu tập này, theo như đức Phật thọ ký cho Ma Nạp Bà, trong đời vị lai khi loài người sống 100 tuổi có Phật Thích Ca Mâu Ny xuất hiện trong thế gian, ta sẽ xuất gia trong giáo pháp của đức Phật ấy, đoạn trừ các phiền não chứng quả A-la-hán. Trong những đệ tử của Phật, bổn sư của ta là vị trú ở biên phương, thọ dụng y thực được khen là đ? nhất. Trong hàng đệ tử của Phật tương lai, ta nguyện thọ dụng y thực ở biên phương cũng như vậy. Do nguyện lực kia, nên vị ấy thọ kết quả này. Các thầy nên biết, do nghiệp thuần đen ... như nói rộng ở trên.

 

* Duyên tại thành Thất La Phiệt. Lục chúng Bí-sô chỉ thị đòi thức ăn, hãy đưa ta vật này, đưa ta vật kia ... làm cho người phục vụ mất cả trật tự. Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Bí-sô không nên chỉ thị đòi thức ăn, ai cố vi phạm bị tội vượt pháp. Nếu không có lửa, đòi vật chín không phạm; nếu lửa quá mạnh, lấy vật sống không lỗi.

 

* Duyên xứ như trước. Cụ thọ Ô Ba Nan Đà đến nhà thợ đồng, hỏi:

 

- Hiền thủ! Có thể làm bát bằng đồng không?

 

Đáp:

 

- Đây là nghề của con, có gì không làm được; không biết ngài cần bát lớn hay nhỏ?

 

Đáp:

 

- Làm lớn cở ...

 

Hỏi:

 

- Thánh giả! Bát lớn như vậy, ngài dùng làm gì?

 

Đáp:

 

- Này người ngu si! Chẳng lẽ ngươi chẳng lấy tiền, làm không cho ta hay sao.

 

Sau khi suy nghĩ: "Làm lớn theo ý họ, ta có hại gì". Người thợ làm bát lớn. Lục chúng thấy bát, nói:

 

- Hãy làm bát nhỏ hơn đặt vừa trong bát này.

 

Cứ lần lượt như vậy cho đến bảy cái. Sau khi làm xong, họ sai đệ tử lau chùi cho sạch bóng, dùng chỉ ngũ sắc đan lưới đựng bát, đan chồng nhiều lớp đặt bát vào trong, sai cầu-tịch đội trên đầu mà đi. Khi có nơi thỉnh thì họ đem đi trước, đến nhà thí chủ, sau khi an tọa bày bát này ở trước. Cư sĩ Bà-la-môn thấy vậy hỏi:

 

- Chẳng lẽ các vị mở hàng bán đồ đồng hay sao?

 

Đáp:

 

- Này kẻ ngu! Ngươi không biết gì cả, cái thứ nhất đựng cơm, thứ hai trữ mì, thứ ba để bánh, thứ tư đặt đồ kho, thứ năm nhận canh rau, thứ sáu chứa sữa và lạc, thứ bảy thêm vật gia vị.

 

Người tục nói:

 

- Nếu vậy, phải cần thêm vật chứa nữa, để đựng thức ăn uống nhiều hơn thế nầy. Họ nghe chê như vậy, im lặng không biết nói gì.

 

Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật suy nghĩ:

 

- Vì các Bí-sô chứa bát đồng nên có lỗi như vậy, nên Ngài chế Bí-sô không được chứa bát bằng đồng, ai vi phạm bị tội vượt pháp. Ai chứa muỗng đồng, mâm đựng muối, chén uống nước bằng đồng, không phạm. Nếu là vật khác, sử dụng không phạm.

 

CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ

TỲ-NẠI-DA TẠP SỰ

 

Quyển thứ năm hết.

 

--- o0o ---

 

 

Quyển thứ sáu

 

--- ooOoo ---

 

Nhiếp tụng chín trong biệt môn một:

 

    Ưng vi tẩy túc xứ

    Cập dĩ trạc túc bồn

    Nhiệt thời tu phiến thính

    Văn trùng khai ngũ phất.

 

* Duyên xứ như trước. Các Bí-sô rửa chân bừa bãi ở khắp nơi trên đất, làm cho nhiều ruồi bu lại những chỗ ấy. Có những Bà-la-môn cư sĩ đến chùa thấy những nơi rửa chân ấy, hỏi:

 

- Thánh giả! Vì sao những nơi này ruồi trùng bay lượn lu bù vậy?

 

Đáp:

 

- Đó là nơi chúng tôi rửa chân.

 

Họ nghe nói vậy nên bất mãn chê bai:

 

- Sa-môn Thích tử sống nhơ bẩn, tùy tiện rửa chân khắp nơi.

 

Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Bí-sô không được rửa chân bừa bãi khắp nơi, nên chọn góc Đông Nam chùa làm nơi rửa chân.

 

Như Phật dạy xếp đặt chỗ rửa chân, Bí-sô không biết nên làm thế nào? Phật dạy:

 

- Nên làm như hình mai rùa.

 

Bí-sô làm xong nhưng quá trơn nên không thể chà chân, Phật dạy:

 

- Nên làm cho nhám. (Nơi rửa chân này cũng có thể tắm rửa, Chùa và gia đình ở phương Tây đều có, lớn nhỏ không chừng, làm nơi đất trống, hoặc lớn như cái giường, hoặc nhỏ như nữa chiếc chiếu, bốn bên xây gạch cao chừng một thước, giữa lát gạch, xây hình lưng rùa; dùng đá than bùn cho nước rửa không thấm qua, làm ống thoát bên cạnh cho nước chảy ra ngoài, cần thiết cho việc rửa chân và thân.)

 

Có Bí-sô già thân thể suy nhược không thể đi đến nơi rửa chân. Phật dạy:

 

- Nên nuôi người chấp sự để họ rửa chân và nên làm bồn rửa chân.

 

Lục chúng Bí-sô nghe Phật cho phép, liền dùng vàng bạc lưu ly làm bồn rửa chân. Người tục thấy vậy hỏi:

 

- Đây là vật gì?

 

Đáp:

 

- Thế Tôn cho phép làm bồn rửa chân. Chính là vật này.

 

Họ nói:

 

- Thánh giả! Ngài tuy cạo tóc nhưng tham dục không giảm.

 

Đáp:

 

- Đạp vào cổ ngươi, ta có lỗi gì! Ngươi chẳng phải là Thầy ta, việc gì lại chê trách?

 

Người tục sinh bất mãn chê bai. Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Vật để rửa chân không nên dùng bằng vật quý, nên làm bằng đất .

 

Bí-sô làm như hình con lạc đà. Phật dạy:

 

- Không được! Nên làm như dấu chân voi in trên đất, bên trong hơi cao để vừa chân, hoặc bên trong làm hình gương sen, nên chà sạch chỗ nhám.

 

Bí-sô dùng vật rửa chân xong, vứt bỏ bừa bãi. Phật dạy:

 

- Không nên, nếu là vật của Tăng thì cất chỗ kín khuất, nếu vật của cá nhân thì để sau cửa.

 

* Duyên xứ như trước. Vào tiết mùa xuân, Bí-sô bị bệnh nhiệt, thân thể vàng ốm gầy yếu không chịu nổi. Người tục thấy vậy hỏi:

 

- Thánh giả! Vì sao thân thể vàng ốm gầy yếu không có sức lực vậy?

 

Đáp:

 

- Thời tiết mùa xuân chúng tôi khổ vì nóng .

 

Hỏi:

 

- Thánh giả! Vì sao không dùng quạt.

 

Đáp:

 

- Hiền thủ! Thế Tôn không cho phép.

 

Nói:

 

- Đại sư của quý vị có lòng từ bi, nếu biết các vị khổ vì nóng chắc chắn cho dùng quạt.

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Nay Ta cho phép Bí-sô dùng quạt.

 

Lục chúng Bí-sô nghe Phật cho phép dùng quạt, liền dùng vàng bạc lưu ly, đá đỏ tía chạm vào, các loại màu sắc để trang trí cán quạt. Người tục thấy vậy nên bất mãn chê bai. Lục chúng vẫn ngạo mạn như trước ... cho đến Phật dạy:

 

- Không nên dùng vật quý làm cán quạt, nên biết quạt có hai loại, một làm bằng tre, hai dùng bằng lá.

 

Khi ấy có những người tục với nhiều tín tâm đem nhiều loại quạt vẽ màu sắc, đến dâng cho Bí-sô. Bí-sô không nhận; Phật dạy:

 

- Nếu nhận cho Tăng, không phạm.

 

* Duyên xứ, tại giảng đường Cao Các, bên ao Di Hầu, thành Quảng Nghiêm. Bí-sô bị trùng muỗi cắn, thân thể sinh ghẻ nên gãi không ngừng. Người tục thấy vậy hỏi:

 

- Thánh giả! Vì sao như vậy?

 

Họ kể lại sự việc.

 

- Thhánh giả vì sao không dùng phất đuổi muỗi?

 

Đáp:

 

- Thế Tôn chưa cho phép ... nói đầy đủ như trước, cho đến đem sự việc bạch Phật.

 

Phật dạy:

 

- Ta cho phép các Bí-sô sắm vật đuổi muỗi.Nghe Phật cho phép sắm phất đuổi muỗi, Lục chúng Bí-sô liền làm cán phất bằng vật quý, dùng đuôi trâu mao làm phất. Người tục thấy vậy ... như trước, cho đến Phật nói:

 

- Có năm loại phất đuổi muỗi, một làm bằng lông dê mượt, hai làm bằng sợi gai, ba làm bằng vải bố xé mịn, bốn làm bằng vật cũ phá ra, năm làm bằng nhánh đọt cây. Nếu dùng vật báu bị tội tác ác.

 

 

 

Nhiếp tụng thứ mười trong biệt môn thứ nhất:.

 

    Kiết hạ quần bất cao

    Bất trì ư trọng đảm

    Nhược bệnh hứa trượng lạc

    Phục toán đẳng tùy thính.

 

* Duyên xứ như trước. Như lời Phật dạy:

 

- Bí-sô nên hỗ trợ người làm việc của Tăng.

 

Có việc cần làm, Bí-sô nọ leo lên thang, những người ở dưới nhìn lên thấy hình thể vị kia, nói:

 

- Thánh giả! Đến nay tôi mới biết ngài là đàn ông vì có đủ nam căn.

 

Vị đang ở trên thang xấu hổ nên im lặng. Bí-sô bạch Phật. Phật suy nghĩ: "Bí-sô leo thang không túm hạ y nên có lỗi như vậy". Ngài dạy các Bí-sô:

 

- Nếu người làm việc cần phải leo thang, nên túm hạ y rồi mới leo lên cao.

 

Lại có Bí-sô khi làm việc túm hạ y quá cao, kẻ thế tục không tín tâm thấy vậy chê cười, hỏi:

 

- Thánh giả muốn đánh lộn phải không?

 

Đáp:

 

- Ta đang có việc cần làm.

 

Họ nghe nói im lặng. Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Nếu cần leo thang nên túm hạ y, làm trên mặt đất thì không cần. (Nói túm hạ y là giữ biên dưới của y túm ra sau, buộc chặt giữa eo trước)

 

Duyên xứ như trước. Lục chúng Bí-sô tự vác vật nặng. Người bất tín thấy vậy hỏi:

 

- Tôi vì sợ cha mẹ vợ con không đủ sống nên phải đem thân gánh vác nặng nề, các ngài vì sao cũng ra sức chịu khổ nhọc vậy?

 

Đáp:

 

- Hiền thủ! Chúng tôi có nhiều việc, một là cúng dường Thế Tôn. Hai là việc ăn uống của Tăng. Ba sử dụng cần thiết khi bệnh hoạn. Vì lý do này nên phải vác nặng.

 

Họ im lặng. Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Bí-sô không gánh vác vật nặng. Ai vi phạm, bị tội vượt pháp.

 

* Duyên tại núi Thứu Phong, thành Vương Xá, có Bí-sô già đi lên xuống núi, bị vấp chân té ngã. Phật dạy:

 

- Nên sắm gậy.

 

Nghe Phật cho sắm gậy, Lục chúng Bí-sô dùng vàng bạc ... và các vật nhiều màu chạm vẽ trên gậy. Người tục thấy vậy cùng nhau bất mãn chê bai. Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Này Bí-sô! Có hai trường hợp sắm gậy, một già yếu không có sức, hai bị bệnh nặng.

 

Có Bí-sô giả vờ già bệnh nên sắm gậy chống, Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Ai thật già bệnh nên xin với Tăng già yết ma súc trượng. Nếu Tăng già cho phép, nên tiến hành theo trình tự: Trải tòa, đánh kiền chùy, thưa với tất cả, đại chúng tập họp lại xong, khi ấy Bí-sô già, bệnh ngồi xổm trước thượng tọa, chắp tay thưa:

 

- Đại đức Tăng già lắng nghe. Tôi Bí-sô tên ... già bệnh suy nhược, hoặc bệnh, không có gậy thì không thể nương vào đâu, nay cầu xin Tăng già cho yết ma súc trượng. Nguyện đại đức Tăng cho tôi là Bí-sô ... yết ma súc trượng. Tôi là người đáng từ mẫn, nguyện xin từ mẫn (thưa ba lần).

 

Thứ đến sai một Bí-sô tác bạch yết ma:

 

- Đại đức Tăng già lắng nghe. Bí-sô ... này già bệnh suy nhược, hoặc bị bệnh, nếu không có gậy thì không thể nương vào đâu, nay cầu xin Tăng già cho yết ma súc trượng. Nếu thời gian thích hợp với Tăng, Tăng đồng ý, nay Tăng già cho Bí-sô ... vì già yếu hoặc bị bệnh, yết ma súc trượng. Đây là lời tác bạch (yết ma làm theo văn tác bạch). Ai được Tăng già cho yết ma súc trượng rồi, chống gậy không phạm.

 

* Duyên tại thành Vương Xá. Có những Bí-sô già yếu, lại thêm bệnh phong, khi lên xuống núi Linh Thứu trượt chân ngã ra đất, bình rửa bình lược nước đều bị vỡ. Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Bí-sô nên sử dụng lưới bọc.

 

Lục chúng nghe vậy, dùng tơ ngũ sắc làm lưới bọc, bị người tục bất mãn chê bai.. hỏi đáp như ở phần sắm gậy. Nếu ai cần cả gậy và lưới bọc, cùng làm yết ma một lần không có lỗi. Sau khi được cho phép, sử dụng không phạm.Duyên tại thành Thất La Phạt. Có Bí-sô sau khi ăn tỏi, đến gặp đức Phật, làm lễ sát hai chân, đứng qua một bên. Phật dạy:

 

- Này Bí-sô! Hãy ngồi xuống nhất tâm nghe Ta thuyết pháp.

 

Nghe Phật bảo, Bí-sô lạy Phật lần nữa và ngồi qua một bên. Trong lúc nghe Phật thuyết pháp, vị này thường quay mặt qua chỗ khác vì sợ mùi hôi xúc phạm Thế Tôn. Như vậy đến ba lần, Thế Tôn đều bảo:

 

- Bí-sô thầy hãy nhất tâm nghe lời Ta dạy.

 

Bí-sô vẫn cứ quay mặt qua chỗ khác đến lần thứ ba, rồi lạy sát chân Phật, từ giã ra đi. Thế Tôn biết nhưng vẫn hỏi:

 

- Này A Nan Đà, vì sao Bí-sô kia khi nghe Ta thuyết pháp thường quay mặt chỗ khác.

 

A Nan Đà thưa:

 

- Vì vị ấy ăn tỏi, sợ mùi hôi xúc phạm đến tôn nghi nên thường quay mặt nơi khác.

 

Phật hỏi A Nan Đà:

 

- Các Bí-sô có ăn tỏi à?

 

Đáp:

 

- Có.

 

Phật nói:

 

- Do vị ấy ăn tỏi nên bị trở ngại việc đi vào Thánh đạo, vừa rồi nếu không ăn tỏi, nghe Ta thuyết pháp dùng trí tuệ như chày kim cương phá tan núi lớn hai mươi lăm thân kiến, đắc quả Dự lưu. Thế nên, này A Nan Đà, từ nay về sau chế định các Bí-sô không nên ăn các loại hành tỏi. Ai ăn bị tội vượt pháp.

 

Khi ấy, Tôn giả Xá Lợi Phất đang ngồi trong chúng, suy nghĩ: nay Bí-sô này không được kiến đế, ngày mai có được không? Tôn giả quán sát biết ngày mai vị ấy cũng không có duyên thấy được đế lý, liền nhập vào tịnh-lự thứ tư, quán sát về sau này cũng không thấy ngày vị ấy chứng thánh, nên xuất định và nói kệ:

 

    Vì trong thời gian ngắn

    Tán tâm, không chánh niệm

    Nên vị ấy đời sau

    Không thấy chân-đế-lý.

 

Bấy giờ, Thế Tôn biết tâm niệm của Xá Lợi Phất nên bảo:

 

- Này Xá Lợi Tử! Ông không nên suy lường về cảnh giới của Phật, nó vượt trên tất cả cảnh giới của Thanh vănBích chi Phật. Trong tương lai có Phật ra đời hiệu là Nhất Thiết Tôn.

 

Người này xuất gia tu tập trong Phật pháp ấy, đoạn trừ hết các lậu chứng quả A-la-hán. Đức Phật suy nghĩ:

 

- Ăn tỏi nên Bí-sô kia bị trở ngại việc thấy chân lý, vì vậy Bí-sô không nên ăn tỏi. Ai vi phạm, bị tội vượt pháp.

 

Có Bí-sô bị bệnh nặng, đến gặp thầy thuốc, nói:

 

- Hiền thủ! Tôi bị bệnh như vậy, mong ngài chữa trị cho.

 

Đáp:

 

- Thánh giả hãy ăn tỏi thì hết bệnh.

 

Bí-sô:

 

- Hiền thủ! Thế Tôn không cho ăn.

 

Thầy thuốc:

 

- Bệnh này thuốc khác không trị được.

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Phải dùng thuốc này mới hết bệnh, dùng không phạm.

 

Bí-sô nghe dạy, bị bệnh dùng tỏi nên khi ở trong chùa, thọ dụng phòng nhà giường chỏng nệm chiếu chỗ đi đại tiểu, ra vào trong chúng, nhiễu bái tháp, lễ hương đài, đến thuyết pháp cho người thế tục, đến nhà thí chủ thọ thỉnh, đến nơi vườn cây, miếu thiên thần, vào giữa đám đông người, đến đâu mọi người đều nghe mùi hôi tỏi, nên sinh chê bai, nói:

 

- Sa-môn Thích tử tuy đã xuất gia mà vẫn dùng tỏi bay mùi hôi khắp, khác gì chúng ta!

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Bí-sô có bệnh muốn ăn tỏi, Ta sẽ dạy cho cách làm. Các Bí-sô bệnh muốn dùng tỏi, nên ở phòng bên cạnh chùa, không được dùng ngoạ cụ của Tăng và phòng đi đại tiểu, không được vào giữa chúng, không được thuyết pháp cho người thế tục, không đi nhiễu tháp, không lễ bái hương đài, không đến nhà thế tục, không nên đến vườn cây miếu thờ trời chỗ đông người, nên dùng ở chỗ khuất; giả như có người thấy không sinh chê bai. Khi dùng xong, ở tại chỗ cũ trong bảy ngày, dùng hành thì ba ngày, dùng hẹ thì một ngày, sau đó tắm rửa thân thểy phục sạch, xông mùi thơm, không còn hôi rồi mới được vào chùa. Ai không làm theo sự chế định ở trên, bị tội vượt pháp.

 

(Hết phần biệt môn thứ nhất).

 

 

 

Tụng tổng nhiếp biệt môn thứ hai:

 

    Ngưu mao tinh suất cái

    Phi thiêm Thắng man duyên

    Xuất gia dược thang bình

    Môn phiến chùy cân phủ.

 

Tụng thứ nhất trong biệt môn hai:

 

    Ngưu mao cập ẩn xứ

    Đồng sàng bất độc phi

    Nhược đắc bạch sắc y

    Nhiễm phú phương ưng dụng.

 

* Duyên xứ như trước. Sau khi dâng rừng Thệ Đa cho tứ phương Tăng, một hôm Trưởng giả Cấp Cô Độc sai người cạo tóc vào chùa cạo râu tóc ... như trước. Ô Ba Nan Đà hỏi người cạo tóc:

 

- Ngươi có biết cắt kiểu lông bò không?

 

Đáp:

 

- Đây là tài nghệ của con, sao lại không biết?

 

Người thợ dùng dao kéo hớt kiểu lông bò, giữ tóc còn lại hai phần gọi là cắt kiểu lông bò. Ô Ba Đà Di lại bảo:

 

- Hớt ngắn đi một phần.

 

Cứ như vậy, cuối cùng bảo:

 

- Người là kẻ ngu không biết cắt tóc, hãy cắt sạch tóc rồi cho ngươi về nhà ... nói rộng như trước cho đến Phật dạy:

 

- Bí-sô không cắt tóc kiểu lông bò, ai vi phạm bị tội vượt pháp.

 

Như Thế Tôn dạy:

 

- Không cho Bí-sô cắt tóc hình lông bò, có Bí-sô bị mọc mụt trên đầu, khi dùng dao cạo tóc thì rất đau khổ.

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Nên dùng kéo cắt tóc chỗ có mụt, phần còn lại cạo như thường.

 

* Duyên xứ như trước. Trưởng giả sai người cạo tóc cho Tăng như trên ... Ô Ba Nan Đà thấy vậy bảo:

 

- Ngươi có thể làm sạch lông chỗ kín cho ta không?

 

Đáp:

 

- Đó nghề của tôi.

 

Cũng như trước, Ô Ba sai họ làm mãi đến chiều mới cho về, nên người thế tục chê bai. Phật dạy:

 

- Bí-sô không được cạo lông ở ba chỗ kín, ai cạo bị tôi vượt pháp.

 

Có Bí-sô bị mụt chỗ kín, hoặc khi có trùng đau đớn khó chịu, phế bỏ việc tu tập. Phật dạy:

 

- Người có bệnh nên thưa với Bí-sô kỳ túc, sau đó giúp nhau cạo sạch lông chỗ vết thương, không nên nghi ngờ.

 

* Duyên xứ như trước. Lục chúng Bí-sô nằm chung một giường, cùng nhau xô đẩy lôi kéo cười giỡn. Bí-sô bạch Phật. Phật suy nghĩ: "Cùng ngủ chung giường có những lỗi như vậy. Ai ngủ chung giường bị tội vượt pháp".

 

Có nhiều Bí-sô du hành trong nhân gian, đến một làng nọ, mượn giường của người khác, chủ nhân cho mượn một cái. Nói:

 

- Xin mượn thêm.

 

Đáp:

 

- Nhà tôi nhiều người ngủ chung một giường, tại sao Bí-sô lại đòi hỏi riêng, nhiều người nằm chung theo lý có hại gì?

 

Bí-sô đáp:

 

- Thế Tôn không cho.

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Nếu các Bí-sô có tâm tàm quý, giới hạnh đầy đủ thì trải vật lót thân, nằm chánh niệm tỉnh giác, giữa đặt túi đựng y hay đựng bát để cách ly nhau. Giường phải như vậy thì chiếu nệm khác căn cứ theo đây để biết.

 

* Duyên xứ như trước. Nhiều Bí-sô du hành nhân gian, đến một thôn nọ vào nhà trưởng giả xin chỗ nằm.Trời lạnh nên họ tìm vật lót nằm. Người trong nhà sinh tâm thương xót các Bí-sô nên đem vật lót nằm của mình cho các Bí-sô mượn. Ai mượn được trước thì dùng nằm một mình, người sau không có phải chịu nằm lạnh suốt đêm. Họ đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Không nên mượn được trước dùng nằm riêng, nên dùng chung và tùy theo vị già cả.

 

Sau đó, Ô Ba Nan Đà nhờ vị lớn tuổi nên được vật để nằm, liền dùng đắp đi kinh hành một mình, gặp đêm lạnh người khác phải chịu khổ . Vị nhỏ nói:

 

- Tôi chịu khổ lạnh, còn ngài kinh hành.

 

Ô Ba Nan Đà nói:

 

- Ai ngăn không cho các ngươi kinh hành.

 

Các Bí-sô ấy phải chịu lạnh suốt đêm. Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Khi mọi người cùng được vật để nằm nên dùng đắp chung, nếu cần kinh hành thì dùng vật riêng của mình. Ai dùng vật của chung, bị tội vượt pháp.

 

* Duyên xứ như trước. Vào tháng mùa đông, Bí-sô bị lạnh, co ro nằm nghiêng một bên. Khi trưởng giả Cấp Cô Độc vào chùa, thấy các Bí-sô co ro nằm nghiêng một bên, hỏi:

 

- Thánh giả! Giáo pháp của Bậc Đại Sư chú trọng ở tinh cần, tại sao quý vị mãi co ro nằm để ngày trôi qua trống rỗng, không tu thiện pháp?

 

Bí-sô đáp:

 

- Tâm có hỷ lạc mới có thể tu thiện pháp, đang bị lạnh cóng, làm sao tinh tấn được, tôi đang bị lạnh cóng nào ai biết được.

 

Trưởng giả từ giã, về đến nhà lấy năm trăm xấp vải choàng bằng bạch điệp dày gửi cúng chư Tăng. Bấy giờ, các Bí-sô lấy mặc và ra ngoài du hành. Người thế tục bất tín thấy vậy có ý bất mãn chê bai, hỏi:

 

- Thánh giả! Chả lẽ các ngài đều hoàn tục hết hay sao?

 

Đáp:

 

- Các người không nên nói như vậy, chúng ta vì lạnh nên mặc y phục thế tục này.

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Không được mặc y phục thế tục, nếu có việc cần dùng, lấy vật hoại sắc phủ trên y phục thế tục rồi mới được mặc. Nếu áo choàng của tăng, phải dùng vật hoại sắc lót phủ bên trong và bên ngoài, sau đó mới được mặc, làm khác vậy, bị tội.

 

 

 

Nhiếp tụng hai trong biệt môn thứ hai:

 

    Suất cái vô hậu thế

    Ca thanh bất phóng hỏa

    Du hành mích y chỉ

    Mao thiêm bất phiên phi.

 

* Duyên xứ như trước. Trong thành này có một cư sĩ thường buôn bán y vật để sinh sống. Sau đó ông ta thu nhập nhiều của cải, nghĩ rằng: "Có phương pháptu phước nghiệp để được nhiều lợi ích". Cư sĩ này vốn có tín tâm nên suy nghĩ: "Ta nên thỉnh Phật và Tăng, trải tấm vải đẹp lên tòa, dọn các món ăn thơm ngon, cúng dường y phục thực phẩmphước điền lớn, nhờ nhân duyên cúng dường này ta được nhiều lợi ích". Sau khi suy nghĩ, ông ta đến gặp Phật, lạy sát chân Ngài rồi đứng qua một bên, bạch Phật:

 

- Thế Tôn! Ngưỡng mong Phật và Tăng vào sáng mai đến nhà con nhận cúng dường vật mọn, nguyện Ngài từ bi nhận lời thỉnh cầu.

 

Đức Phật im lặng nhận lời. Biết như vậy, trưởng giả lễ Phật từ giã.Về nhà, ông ta dọn các món ăn uống thơm ngon nhất, xếp đặt tòa ngồi tốt đẹp trải bằng tấm vải tối thượng và sai sứ giả đến bạch với Phật:

 

- Bữa ăn đã dọn xong xin Phật biết tùy thời.

 

Bấy giờ đại chúng đều đến nhà ấy, chỉ có đức Phật và người tri sự ở lại chùa. Chư Phật Thế Tôn có năm nhân duyên giữ vị tri sự lại để lấy thức ăn cho Phật. Thế nào là năm?

 

    Một: Muốn yên tịnh xa lánh nơi ồn ào.

    Hai : Muốn giảng pháp yếu cho chư Thiên.

    Ba : Muốn xem xét người bệnh.

    Bốn: Muốn xem xét ngọa cu.

    Năm: Muốn chế học xứ cho các đệ tử.

 

Hiện nay, Thế Tôn muốn chế học xứ. Trong khi các Bí-sô đang trên đường đi đến nhà thí chủ, gặp phải mưa lớn nên y phục đều ướt. Đến nhà, họ ngồi vào tòa làm cho ố bẩn tấm vải trải. Cư sĩ thấy vậy rất bực bội bất mãn, nên suy nghĩ: "Các tấm vải của ta đều bị hỏng, vậy ta nên đem chúng cho các Bí-sô". Suy nghĩ xong, họ thưa:

 

- Thánh giả! Con dâng hết những vật lót ngồi, quý vị tùy ý mang đi.

 

Bí-sô đáp:

 

- Hãy chờ thưa với Thế Tôn, chẳng biết Ngài có cho phép không!

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Các thầy nên biết, nếu cư sĩ vốn không có ý dâng cúng, cho vì bất mãn thì không được nhận.

 

Các Bí-sô vâng lệnh Phật dạy nên sai người đến nói với cư sĩ:

 

- Quý vị biết cho, đức Phật dạy: nếu chẳng phải cư sĩ có ý dâng trước, dâng chỉ vì bất mãn thì không được nhận.

 

Cư sĩ ấy nghe nói như vậy, sinh tâm rất cung kính, suy nghĩ: "Những tấm vải này nếu ta đem bán thì giá trị không được một nữa, các Thánh giả đã làm cho hoại sắc, nếu họ sử dụng thật là thích hợp". Ông ta mang những tấm vải này đến chùa, thưa với Thánh chúng:

 

- Trước đây con không có ý bỏ vật này, nhưng nay thật tâm đem dâng cúng chư Tăng, xin vì con mà nhận và nhuộm để sử dụng. Xin quý ngài nên che tán, dù để y không bị ướt.

 

Đáp:

 

- Cư sĩ hãy chờ ta thưa với Phật.

 

Họ đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Trước đó, cư sĩ không có tâm muốn cúng, nay quyết ý đem dâng chúng Tăng, các thầy nên nhận nhuộm rồi mặc vì lợi ích cho người hiện tiền chớ nghi ngại. Vì vậy, từ nay Ta bảo các Bí-sô nên che lọng, dù, ai không che bị tội vượt pháp.

 

Lục chúng Bí-sô nghe Phật cho che tán, dù, liền làm cán lọng, dù bằng vàng ... bốn loại báu, và vẽ vời các màu tía rực rỡ, dùng lông chim công lợp ở trên. Bà-la-môn cư sĩ thấy vậy bất mãn chê bai, hỏi đáp như trước ... cho đến Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Bí-sô không nên che loại lọng, dù như vậy. Có hai loại dù: 1.- Bằng tre; 2.- Bằng lá.

 

Lục chúng nghe Phật cho phép sắm dù liền sắm tán cán dài, giương lên đi lại giữa thành. Người tục thấy vậy hỏi:

 

- Người che tán là vị thương chủ nào, hay là trưởng giả đại phú từ phương khác đến?

 

Mọi người cùng tập trung lại vị kia xem hỏi, thấy là Bí-sô nên cùng sinh bất mãn ... cho đến Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Không nên làm tán cán dài, nên dài bằng hai khuỷu tay hay dài bằng dù ... lại nữa, khi vào làng xóm không nên che dù.

 

Có Bí-sô đi theo đoàn buôn du hành nhân gian, đi đến một tụ-lạc, đường đi ngang qua trong xóm. Bí-sô che dù không dám vào xóm, đi bên ngoài xóm, bị lạc đoàn buôn, đi sau một mình nên bị giặc cướp. Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Nếu đường đi ngay trong xóm thì không được giương dù lên, ôm nghiêng một bên đi không phạm.

 

Có Bí-sô vào xóm khất thực, vì cán dù bẩn, không dám cầm đi, gặp mưa nên bị ướt y. Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Người khất thực rửa sạch cán dù rồi nên mang theo, khi tạnh mưa tùy chỗ mà gửi cất, khi muốn đi khỏi xóm, mới mang theo.

 

* Duyên xứ như trước. Có du sĩ ngoại đạo ở phương Nam, tên Ô Đà Di thuộc nhóm Lô Ca Da, bài bác không có đời sau, lần lượt đi khắp các nơi, đến Thất La Phiệt, muốn nghỉ ngơi nên vào rừng Thệ Đa.Trước hết, ông ta đến gặp Tôn giả Kiều Trần Như, nói:

 

- Này Bí-sô, tôi đến sư môn học ít chữ nghĩa, muốn cùng với ngài đàm luận chút ít.

 

Tôn giả đáp:

 

- Luận bàn kiêu ngạo không phải là việc của tôi, ông hãy tìm chỗ khác không nên ở đây.

 

Ông ta đến gặp Mã Thắng Bạt Đà La, Đại Danh Bà Sáp Ba, Danh Xứng Bộ Luật Noa, Ngưu Chủ Tỳ Ma La, Thiện Tý La Hổ La. Gặp vị nào, ông ta cũng nói:

 

- Này Bí-sô! Tôi đến sư môn học ít chữ nghĩa, muốn cùng Tôn giả đàm luận chút ít.

 

Các Tôn giả đều nói:

 

- Này Bà-la-môn, luận bàn kiêu ngạo không phải là việc của tôi, ông hãy tìm nơi khác không nên ở đây.

 

Lần lượt ông ta đến gặp Tôn giả Xá Lợi Tử, cũng hỏi như trước. Tôn giả Xá Lợi Tử liền nhập định quán sát, xem xét ngoại đạo này có thiện căn không?

 

    - Quán sát biết có Nhân duyên với ai?

    - Biết có duyên với mình, lại có người khác nhờ nghe luận nghị mà được điều phục không?

    - Quán sát thấy có bao lâu mới thành tựu?

    Trong vòng bảy ngày.

 

Sau khi biết như vậy, Xá Lợi Tử bảo:

 

- Người muốn tranh luận, thật là việc tốt, hãy tổ chức luận nghị trường tại chỗ ...

 

Vào ngày đầu tiên, Tôn giả Xá Lợi Tử lên trên tòa cao, đưa ra chủ trương của tông môn mình, cùng đàm luận với vị kia, mỗi khi xuống tòa thường chưa giải quyết hết ý nghĩa vấn đề. Như vậy từ hai, ba cho đến bảy ngày, tiếng đồn vang dậy khắp các nước cùng biết phương Nam có một ngoại đạo thuộc nhóm Lô Già Da, bài bác không có đời sau, tên là Ô Đà Di thông minh đại trí, du hành khắp nơi, đến Thất La Phiệt cùng Xá Lợi Tử lập luận với nhau, đã qua bảy ngày chưa phân thắng bại.Có vô lượng trăm ngàn chúng sinh có duyên đều vân tập đến. Có người phát tâm hoan hỷ, hoặc có thiện căn trước đây nay thuần thục. Tôn giả Xá Lợi Tử suy nghĩ:

 

- Người có duyên với ta, nhân nghe luận nghị mà được hóa độ, nên tập họp lại trong lúc này.

 

Tôn giả đem hết ý nghĩa ra giảng thuyết cho khắp mọi người. Khi ấy, ngoại đạo kia tin hiểu, tâm ý khai thông, chắp tay đứng dậy thưa:

 

- Đại đức! Con xin được xuất gia trong pháp luật thiện thuyết, mong ngài từ bi cứu tế cho con, được siêng năng tu tập phạm hạnh với đức Thế Tôn.

 

Xá Lợi Tử biết tâm chí thành của vị này nên cho xuất gia, thọ cận-viện và dạy bảo chánh pháp. Vị này tinh tấn phát tâm dũng mãnh, đoạn trừ sạch các lậu hoặc chứng quả A-la-hán. Khi ấy, tất cả đại chúng trong hội thấy sự việc này đều cho là việc hy hữu, cùng nói:

 

- Tôn giả Xá Lợi Tử thật là thông minh, đã dùng pháp chiến thắng ngoại đạo kiêu mạn, làm cho họ xuất gia.

 

Tôn giả quán sát căn cơ khác nhau và sự ưa thích không đồng của đại chúng, tùy theo túc duyên của họ mà thuyết pháp làm cho ức vạn chúng sinh nghe pháp đều được chứng ngộ khác nhau, hoặc chứng quả Dự Lưu Nhất Lai Bất Hoàn, hoặc xuất gia chứng quả A-la-hán, hoặc thọ Tam Quy và năm Học Xứ, ngoài ra đều phát sinh tín tâm sâu xa với Tam Bảo, chắp tay ân cần từ giã ra về.

 

Bí-sô đem sự việc này bạch Phật. Phật bảo:

 

- Này các Bí-sô, không phải khắp nơi đều có Xá Lợi Phất, người tương tự như vậy cũng không th? tìm, vậy nên Ta cho phép các Bí-sô học Lô Già Đa ... các loại ngoại đạo luận.

 

Các Bí-sô nghe Phật cho phép học luận thư bên ngoài, thì không biết chọn lựa, kẻ ngu muội cũng học ngoại thư. Phật dạy:

 

- Không nên cho kẻ ngu si ít trí tuệ không phân minh học ngoại thư. Người tự biết thông tuệ đa văntrí nhớ tốt, có thể chiến thắng ngoại đạo mới được học tập.

 

Những người thông minh trí tuệ mãi học ngoại điển không tu tập thiện pháp. Phật dạy:

 

- Không được như vậy.

 

Họ thường học tập ngoại điển. Phật dạy:

 

- Chia thành ba thời gian, hai thời đọc kinh Phật, một thời học tập ngoại điển.

 

Bí-sô chia năm, tháng thành ba thời gian. Đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Mạïng sống mau lẹ, vô định trong sát-na không nên chia năm tháng thành ba thời. Hãy chia một ngày làm ba thời gian.

 

Bí-sô học ngoại điển vào buổi sáng, buổi chiều đọc kinh Phật. Phật dạy:

 

- Vào sáng và sau trưa đọc kinh Phật, đến chiều tối mới xem ngoại điển.

 

Bí-sô đọc qua, không tụng thuộc văn, bỏ qua liền quên. Phật dạy:

 

- Nên tụng.

 

Họ không biết lúc nào nên tụng. Phật dạy:

 

- Như ngày có ba tiết, đêm cũng có ba thời.

 

* Duyên xứ như trước. Tôn giả Xá Lợi Tử cho hai người con nhà Bà-la-môn xuất gia, tên Ngưu Thọ và Ngưu Sanh và dạy hai người đọc tụng kinh pháp. Sau đó, hai vị này cùng nhau du hành nhân gian, đến một tụ lạc được nhiều lợi dưỡng nên ở lại thôn này. Trước khi xuất gia, hai vị này đã học pháp ca vịnh theo âm của Bà-la-môn, do tập quán này nên vẫn đọc tụng theo âm thanh ngôn từ cũ. Bỗng nhiên, một người bị bệnh qua đời. Người còn lại buồn rầu suy nhược, quên gần hết chuyện đã qua, nên trở về thành Thất La Phạt, vào rừng Thệ Đa. Sau khi nghĩ ngơi, đến gặp Tôn giả Kiều Trần Như, sau khi lễ bái, bạch với Tôn giả:

 

- Xin ngài ôn kinh cho con.

 

Đáp:

 

- Lành thay! Ta sẽ tụng cho ông nghe.

 

Khi Tôn giả tụng được ít nhiều, Bí-sô thưa:

 

- Kinh điển Tôn giả vừa tụng, văn từ đều sai lạc, âm vận không dài, có sự thiếu sót.

 

Đáp:

 

- Này con, xưa nay ta tụng tập như vậy.

 

Bí-sô làm lễ từ giã rồi đi đến gặp các Tôn giả Mã Thắng Bạt Đà La Đại Danh Bà Sáp Ba Danh Xưng Bộ Luật Noa Ngưu Chủ Tỳ Ma La Thiện Tý La Hổ La. Sau khi đến nơi, bạch:

 

- Tôn giả! Xin ôn kinh cho con.

 

Đáp:

 

- Lành thay, ta sẽ tụng cho ông nghe.

 

Khi Tôn giả tụng được ít nhiều ... như ở trước ... cho đến từ giã rồi đi đến Tôn giả Xá Lợi Tử, sau khi làm lễ, thưa:

 

- Ông Ba Đà Da xin ôn kinh cho con.

 

Đáp:

 

- Lành thay, ta sẽ tụng cho ông.

 

Khi đồng tụng, Bí-sô kéo âm vận dài, âm thanh của Xá Lợi Tử lại kéo dài hơn, nên Bí-sô thưa:

 

- Đại sư! Các Tôn giả khác đều đọc tụng nhầm lẫn, chỉ có câu và tiếng của thầy không sai.

 

Đáp:

 

- Ngươi là kẻ ngu si tự mình sai lầm, lại bài báng bậc trí khác tụng kinh không đúng. Các vị đại đức ấy đều không sai lầm.

 

Sau khi bị thầy đả phá, Bí-sô này phải im lặng. Các Bí-sô đem việc này bạch Phật. Phật suy nghĩ:

 

- Bí-sô tụng kinh với âm thanh kéo dài như ca vịnh, gây ra lỗi như vậy. Vì vậy Bí-sô tụng kinh không được kéo dài âm thanh như ca vịnh. Bí-sô nào dùng âm thanh Xiển Đà để tụng kinh điển, bị tội vượt pháp. Nếu ai theo tiếng địa phương cần phải kéo dài âm thanh, thì tụng vậy không phạm. (Xiển Đà là pháp đọc tụng của Bà-la-môn, kéo dài âm thanh, dùng ngón tay ra dấu để phân tiết đoạn, bác-sĩ đọc trước, những người khác đọc theo)

 

CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU-BỘ

TỲ-NẠI-DA TẠP SỰ

 

Quyển thứ sáu hết.

 

--- o0o ---

Quyển thứ bảy

 

--- ooOoo ---

 

(Phần tiếp theo thuộc tụng hai, biệt môn hai).

 

* Duyên tại thành Thất La Phiệt, Lục chúng Bí-sô tuy tuổi già nhưng vẫn thường trạo cử, các Bí-sô khác nói:

 

- Quý vị tuổi đã xế chiều vẫn chưa ngừng trạo cử.

 

Họ nghe vậy im lặng, bảo với Nan Đà, Ô Ba Nan Đà:

 

- Bọn bát đen thật nhiều chuyện, nên làm việc dạy khôn. Chúng ta hãy gây sỉ nhục để bọn chúng xấu hổ.

 

Sau khi suy nghĩ, Lục chúng tìm cách.

 

Bấy giờ có nhiều Bí-sô kỳ túc, đến ngồi yên dưới gốc cây trong rừng vắng. Cùng đến đó, thấy họ đang thiền định, liền theo hướng gió thổi, Lục chúng đốt lửa ba mặt, rồi đến nơi xa nhìn lại. Bấy giờ, các vị kỳ túc thấy lửa cháy đến, kinh sợ đứng dậy theo hướng khói chạy ra.

 

Thấy vậy, Lục chúng nói:

 

- Các vị già cả chưa hết trạo cử, vì sao vụt chạy mất hết thứ tự?

 

Đáp:

 

- Cụ thọ! Thầy không thấy lửa dữ cháy rừng hay sao, chạy có lạ gì?

 

Lục chúng nói:

 

- Chẳng lẽ Thế Tôn chế giới áp dụng khi bình thường, lúc ách nạn được vi phạm hay sao?

 

Đáp:

 

- Hay là các thầy gây ra hỏa hoạn này?

 

Lục chúng cười lớn nói:

 

- Chúng tôi cố ý muốn sỉ nhục các ông.

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Bí-sô không được đốt rừng hoang, ai vi phạm bị tội Tốt-thổ-la-để-dã.

 

* Duyên tại thành Thất La Phiệt. Có hai Bí-sô một già một trẻ cùng du hành nhân gian với nhau. Vị già có nhiều y phục vật dụng, vị trẻ chỉ có ba y. Vị già bảo trẻ:

 

- Cụ thọ hãy mang túi đựng y cho tôi, tôi quá mỏi mệt muốn nghỉ vai một lúc.

 

Vị trẻ thưa:

 

- Con muốn thưa vài lời xin ngài đừng giận trách.

 

Đáp:

 

- Thầy tùy ý nói, ai lại giận trách.

 

Vị trẻ nói:

 

- Trưởng lão lẽ nào chẳng thấy, Phật Pháp Tăng bảo đến đâu cũng được dâng cúng, hơi đâu mà chứa những vật ngu si này!

 

Vị già nói:

 

- Hiền thủ! Thầy không chịu mang, ai ép buộc thầy. Nhưng tôi hỏi thầy, thầy có phải là thân giáo sư hay quỹ phạm sư của tôi hay sao mà đem việc của tôi ra khuyên dạy?

 

Vị nhỏ im lặng. Vị lớn suy nghĩ: "Ta sẽ xử lý thằng nhỏ này". Đến chiều tối, cả hai cùng nghỉ tạm trong chùa. Trong chùa, từ trước Tăng chúng có lập điều lệ:

 

- Ai không có y chỉ không được nghỉ lại.

 

Vị tri sự chùa bảo hai vị khách:

 

- Quý vị mới đến xin nhận ngọa cụ.

 

Sau khi nhận ngọa cụ, vị già bảo vị trẻ:

 

- Hãy lấy phần của thầy.

 

Vị trẻ đáp:

 

- Con chưa có y chỉ, đợi khi có thầy rồi, sẽ nhận ngọa cụ.

 

Sau khi gặp thượng tọa thủ chúng, làm lễ xong, vị trẻ thưa:

 

- Xin thượng tọa cho con y chỉ.

 

Hỏi:

 

- Hiền thủ, thầy đến đây với ai?

 

Đáp:

 

- Bí-sô tên ... Nói:

 

- Hiền thủ! Thầy hãy đến thỉnh vị ấy làm y chỉ, đừng để người ấy nói thượng tọa thủ chúng chia rẽ môn đồ chúng tôi.

 

Vị trẻ nghe nói, đi đến cầu vị khác, lần lượt khắp cả chùa, nơi nào cũng đều không chịu. Cuối cùng, vị ấy trở lại phòng, gỏ cửa gọi:

 

- Kính lễ thượng tọa!

 

Hỏi:

 

- Người là ai?

 

Đáp:

 

- Con là ... chúc thầy mạnh khỏe. Thượng tọa biết không, đại chúng trong chùa này lập quy định, ai không có y chỉ không cho ở lại dù một đêm; xin cho con y chỉ.

 

Đáp:

 

- Hiền thủ! Thật là quy định tốt, chúng Tăng không làm, ta cũng sẽ làm. Trước đây, ông nói với ta, chẳng lẽ không thấy tam tôn nên chứa nhiều vật ngu si. Nay lại nói kính lễ Thượng tọa, làm sao quá trái ngược như vậy! Khinh mạn như thế, ai làm y chỉ cho ông! Hãy đi tìm thầy y chỉ khác theo ý mình.

 

Nói xong, vị lớn im lặng không mở cửa. Suốt đêm, vị nhỏ ngồi trên đất chịu khổ đến sáng. Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Không có thầy y chỉ, không nên du hành nhân gian. Các Bí-sô không nên như sư tử cố chấp lòng thù hận. Tăng già không được tự ý lập ra quy chế ác nghiệt như vậy, làm cho Bí-sô kia chịu khổ não oan uổng. Bí-sô nào không có thầy y chỉdu hành nhân gian, gây phiền não người khác vì lập quy chế phi pháp, đều bị tội vượt pháp.

 

* Một thời, Phật du hóa nước Ma Kiệt Đà, ở cung điện của Dược xoa Bạc Câu-la, núi Mộ-câu. Bí-sô Long Hộ làm thị giả. Giữa đêm tối mưa lâm râm với ánh chớp chiếu sáng, Thế Tôn đi kinh hành trên đất trống. Thường pháp cuả chư Phật là Thế Tôn chưa nằm nghỉ, thị giả không được đi nằm trước. Bấy giờ, với thiên nhãn quan sát khắp thế gian, thấy trong cung điện của Dược xoa Bạc-câu-la, Thế Tôn đang kinh hành trên đất trống giữa đêm tối mưa lâm râm với ánh chớp chiếu sáng, Thiên Đế Thích suy nghĩ: ta hãy đến lễ bái Thế Tôn. Sau khi hóa ra cung điện xinh đẹp bằng lưu ly, mang theo che trên Thế Tôn, Đế Thích đi kinh hành theo sau Ngài. Nếu thấy trẻ con kêu khóc ban đêm, thường dân nước Ma Yết Đà bảo chúng đừng khóc bằng cách dọa:

 

- Dạ-xoa Bạc-câu-la đến ăn thịt ngươi.

 

Thấy đêm đã khuya mà Thế Tôn không nằm nghỉ, vẫn tiếp tục kinh hành, nên sau khi suy nghĩ: "Ta hãy giả Dược-xoa Bạc-câu-la để gây khủng bố", Bí-sô Long Hộ liền trùm tấm mền lớn lông dài, đến chỗ kinh hành dọa Thế Tôn:

 

- Dạ-xoa Bạc-câu-la đến đây!

 

Phật bảo Long Hộ:

 

- Ngươi là kẻ ngu si nên đem Dạ-xoa Bạc-câu-la ra dọa bậc Thiện Thệ. Đức Như Lai Ứng cúng Chánh đẳng giác đã xa lìa sự sợ hãi từ lâu, thân tâm không còn chút nào kinh hãi nữa.

 

Thấy Bí-sô Long Hộ làm việc phi pháp, Thiên Đế Thích bất mãn thưa với Thế Tôn:

 

- Trong Phật pháp cũng còn có những hạng người này sao?

 

Phật bảo Thiên Đế Thích:

 

- Ông nên biết, ngôi nhà Kiều Đáp Ma rất là to rộng, bên trong có nhiều phẩm loại khác nhau. Chớ khinh người này vì trong đời tương lai họ sẽ được pháp thù thắng.

 

Thiên Đế Thích lạy sát chân Phật rồi trở về thiên cung. Phật suy nghĩ: "Vì các Bí-sô dùng mền lớn để phần lông hướng ra ngoài nên có lỗi như vậy. Ta chế định, các Bí-sô nào đắp mền như vậy bị tội vượt pháp.

 

Nghe Phật chế như vậy, khi đi theo đoàn buôn du hành nhân gian, đến chỗ người chăn bò, gặp phải đêm lạnh dùng mền lông dài, mền có mùi hôi nhiều rận rệp, muốn hướng mặt lông ra ngoài để đắp nhưng các Bí-sô sợ phạm giới nên không dám lật lại. Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Mền hướng mặt lông ra ngoài chỉ dùng trùm ngồi yên, không được kinh hành, ai vi phạm bị tội vượt pháp.

 

 

 

Nhiếp tụng ba trong biệt môn hai:

 

Phi chiên thính bất thính

Ố địa bất trí bát

Y khai tam chủng hựu

Ưng tri điều diệc tam.

 

* Duyên tại thành Thất La Phiệt. Phật bảo các Bí-sô:

 

- Nếu được tấm lót nằm bằng kiếp bối hoặc vải nỉ lông dài, hoặc Cao Nhiếp Ba, những vật ấy Ta đều cho phép Tăng già hay cá nhân đều được tùy ý sử dụng. Nếu được loại nỉ cao-nhiếp-ba thượng hạng chỉ cho phép dùng cho tăng, cá nhân không được dùng.

 

* Duyên tại thành Thất La Phiệt. Vào sáng sớm, trong khi mặc y ôm bát khất thực trong thành, thượng y bị tuột xuống, Bí-sô vội vàng đặt bát xuống đất để sửa y. Cư sĩ Bà-la-môn thấy vậy chê bai nói:

 

- Sa-môn Thích tử phần nhiều không sạch sẽ, đặt bát ở chỗ nhơ bẩn.

 

Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Ai tùy tiện đặt bát dưới đất bị tội vượt pháp.

 

Vì giữ y cho phép làm nút, Bí-sô dùng kim gai may y làm y bị hư. Phật dạy:

 

- Không nên làm vậy. Họ lại cột bằng tơ,

 

Phật dạy:

 

- Không nên làm vậy, nên làm chỗ giữ trên vai, tra nút trước ngực.

 

Bí-sô không biết làm nút như thế nào, Phật dạy:

 

- Có ba loại nút:

 

    l) Như trái anh-túc,

    2) Như trái chi,

    3) Như trái đường-lê.

 

Ngay biên y trên vai, tra chỗ giữ thì mau bị đứt, nên tra vào sau biên chừng bốn ngón tay. Họ tra ngay trên y làm y bị rách, Phật dạy:

 

- Nên may chồng hai lớp, làm lỗ khuy vòng để gài nút vào trong chỗ hai lớp vải, nút tra ngay trước ngực chỗ biên y, chỗ ba lớp y là nơi tra nút, ai vi phạm bị tội vượt pháp.

 

* Duyên xứ như trước ở. Trong khi đi khất thực, hạ y bị tuột, Bí-sô đặt bát dưới đất để sửa y dưới. Người đời thấy vậy, bất mãn chê bai:

 

- Sa-môn Thích tử không biết dơ sạch, chỗ nào dưới đất cũng để bát được.

 

Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Phải cột chặt hạ y rồi mới được đi vào xóm làng.

 

Họ dùng dây buộc chặt quá làm y mau hư. Phật dạy:

 

- Đừng dùng dây, nên dùng đai lưng.

 

Bí-sô không biết làm đai như thế nào. Phật dạy:

 

- Có ba loại đai, một là dẹp, hai là vuông, ba là tròn; ai làm khác bị tội vượt pháp.

 

 

 

Nhiếp tụng bốn trong biệt môn thứ hai:

 

    Thắng Man Ác Sinh sự

    Thứ chế chư anh lạc

    Kim thao cập thể vật

    Tư giai súc bất ưng.

 

* Duyên tại vườn cây Đa Căn, thành Kiếp Tỷ La. Khi ấy, ở một tụ lạc nọ của Thích-tử Đại Danh, người quản lý đột ngột qua đời. Mọi người đến báo với Đại Danh:

 

- Người tri sự vừa chết, hãy cho người khác đến quản lý việc trong thôn.

 

Khi ấy, Đại Danh bảo một thanh niên đang đứng bên cạnh:

 

- Này thanh niên! Ngươi hãy tạm đến kiểm tra sự việc trong thôn, sau đó ta sẽ sai kế tục tri sự.

 

Người ấy đi đến thôn và kiểm soát đúng phép, những lợi nhuận về đất đai đều nộp lên Đại Danh, nhiều hơn trước đây nhưng không làm ai oán hận. Đại Danh hỏi:

 

- Ngươi thu nộp nhiều thuế ruộng hơn trước, có phải thường ép buộc người phải không?

 

Thưa:

 

- Đại gia! Tôi thu thuế đúng theo pháp lý không hề làm khổ người.

 

Bấy giờ, Đại Danh hỏi người trong thôn:

 

- Thanh niên này có gây áp bức trong thôn không?

 

Mọi người đáp:

 

- Không có ai oán hận cả.

 

Khi ấy, Đại Danh đưa người ấy lên làm chủ. Người ấy y theo pháp lý thu thuế công bằng, không áp bức cướp đoạt, làm quan tri sự thống lĩnh thôn ấp. Thanh niên này lấy một cô gái thuộc tộc họ Bà-la-môn làm vợ, chẳng bao lâu sinh được một trai, năm sau lại sinh thêm một gái tên Minh Nguyệt. Bé gái này được nuôi dưỡng đúng pháp, khi lớn lên thông minh trí tuệ hình dáng tuyệt trần, trong thôn ai cũng khen xinh đẹp. Sau đó, người cha bị bệnh, tuy thuốc thang chữa trị nhưng vẫn không giảm. Tiền thu thuế hàng năm trong thôn đều dùng chữa bệnh nên không còn dư, phải vay thêm ở ngoài thôn để chi dụng. Bệnh ngày càng nặng, đến nỗi người cha qua đời.Người trong thôn đến báo với Đại Danh:

 

- Đại gia, quan tri sự đã qua đời.

 

Đại Danh hỏi:

 

- Năm nay trong thôn có nộp thuế không?

 

Đáp:

 

- Trong năm nay họ thu nhiều thuế nhưng đã dùng hết vào việc mua thuốc trị bệnh mà vẫn không đủ phải vay thêm ở thôn khác.

 

Đại Danh nói:

 

- Họ còn dư chút nào hãy đem trả vào nợ.

 

Mọi người đáp:

 

- Không còn gì cả, chỉ có một vợ và một trai một gái. Con gái tên Minh-nguyệt thông minh trí thức, dung nghi tuyệt trần, trong làng xóm ai cũng khen đẹp.

 

Đại Danh bảo:

 

- Cho người mẹ và con trai tự sinh kế, hãy gọi người con gái đến đây.

 

Người trong thôn thả hai mẹ con và đưa Minh-nguyệt đến gặp Đại Danh. Trong nhà Đại Danh có một bà già, thường làm hai việc, một là chiên bánh, hai là hái hoa. Bấy giờ, bà già bảo Đại Danh:

 

- Tôi đã già, không thể làm cả hai việc, hãy cho cô gái nhỏ này làm bạn với tôi.

 

Đáp:

 

- Tùy ý.

 

Bà lão bảo với Minh Nguyệt:

 

- Con hãy đi vào rừng hái hoa, ta ở nhà coi việc làm bánh.

 

Cô ta hái hoa kết thành vòng đẹp dâng lên Đại Danh. Đại Danh vui mừng bảo:

 

- Vòng hoa thật đẹp, hãy để đó và đi đi.Gọi bà già, ông ta hỏi:

 

- Vì sao trước đây hoa ít nay lại nhiều hơn vậy?

 

Thưa:

 

- Đại gia,trước đây có bà con gần đến xin, tôi cho bớt, nay không cho nữa. Vả lại mắt tôi mờ xem không rõ, nay cô bé Minh Nguyệt hái hoa xem rõ nên được nhiều.

 

Đại Danh bảo:

 

- Như vậy hãy để cô bé này lại trong vườn, hằng ngày thường hái nhiều hoa, kết thành vòng đem dâng cho ta. Nhân đó, đặt tên cô bé là Thắng Man (vòng hoa đẹp).

 

Một hôm, nhận phần ăn của mình xong, đang đi vào trong vườn, Thắng Man gặp Phật Thế Tôn vào thành khất thực. Giữa đường, thấy tướng hảo của Phật, Thắng Man sinh tâm kính tín chiêm ngưỡng tôn nhan, tha thiết đứng yên suy nghĩ: "Vì xưa nay chưa từng cúng dường ruộng phước chân thật, nên nay ta bị bần tiện như thế này. Nếu Phật Thế Tôn nhận thức ăn của ta, ta sẽ đem bữa ăn này dâng lên Ngài". Biết ý nghĩ của cô gái, Thế Tôn đưa bát ra bảo:

 

- Này thiện nữ! Con có ý niệm muốn dâng thức ăn, hãy đặt vào bát này.

 

Khi ấy, với tâm cung kính, đem phần ăn của mình đặt vào bát của Phật, đảnh lễ sát chân Ngài, Thắng Man bạch:

 

- Con nguyện nhờ phước này xả bỏ thân ty tiện, không còn nghèo khổ được giàu sang lớn.

 

Sau khi phát nguyện lễ Phật từ giã, trên đường Thắng Man bỗng gặp bạn của cha mình. Người này giỏi xem tướng, thấy Thắng Man có dị tướng nên hỏi:

 

- Con muốn gì?

 

Thắng Man khóc lóc.

 

Lại hỏi:

 

- Vì sao con ưu sầu như vậy?

 

Đáp:

 

- Thưa chú, con bị Đại Danh bắt làm nô tỳ.

 

Người kia bảo:

 

- Cháu gái hãy đưa tay cho ta xem tướng của con.

 

Sau khi cô bé đưa tay, nhìn thấy, ông lão nói kệ:

 

    Bàn tay người nào có

    Tướng vòng bánh xe đan

    Tuy sinh nơi hạ tiện

    Sẽ làm vợ của vua

    Trong bàn tay người nào

    Có tướng thành, lầu, đài

    Tuy sinh nhà hạ tiện

    Sẽ làm đại vương phi

    Người nào miệng như ao

    Tiếng nói như nga chúa

    Tuy sinh nhà hạ tiện

    Sẽ làm đại vương phi

    Con chớ nên ưu sầu

    Quyết định thoát nô tỳ

    Hưởng giàu sang tối thượng

    Sẽ làm đại vương phi.

 

Thắng Man bái tạ ông lão và trở vào vườn. Một hôm, vua Thắng Quang nghiêm giá bốn loại binh ra thành săn bắn, con ngựa đang cỡi bỗng nhiên vọt chạy không kềm chế được, đưa nhà vua đến thành Kiếp Tỷ La vào vườn Đại Danh. Thắng Man trông thấy, thưa:

 

- Kính chào đại vương!

 

Vua hỏi Thắng Man:

 

- Vườn này của ai?

 

Đáp:

 

- Vườn của Đại Danh.

 

Nhà vua bước xuống, cô gái cột ngựa vào gốc cây. Vua nói:

 

- Hãy lấy nước, ta muốn rửa chân.

 

Sau khi suy nghĩ: "hãy tìm nước ấm để vua rửa chân", cô gái đi đến chỗ nước có mặt trời chiếu vào, dùng lá sen múc đầy nước đem dâng vua để rửa chân. Nhà vua lại bảo:

 

- Hãy lấy nước cho ta rửa mặt.

 

Sau khi suy nghĩ: "Nước ấm không nên dùng rửa mặt", cô gái dùng tay khuấy nước cho vừa mát rồi dâng lên vua. Sau khi rửa mặt, nhà vua lại bảo:

 

- Hãy đem nước cho ta uống.

 

Sau khi suy nghĩ: "cần có nước lạnh mới giải khát được", cô gái lấy nước chỗ sâu dưới ao đem dâng lên vua. Uống xong, nhà vua hỏi cô gái:

 

- Trong vườn này có ba loại nước phải không?

 

Đáp:

 

- Trong vườn không có ba loại nước, chỉ ở một chỗ.

 

Vua lại hỏi:

 

- Nếu một loại nước, vì sao vừa rồi nàng có ba loại khác nhau.

 

Cô gái trình bày cho vua nghe cách làm của mình. Nghe xong, sau khi suy nghĩ: "Cô gái này giỏi biết phương pháp đáp ứng thời cơ". Nhà vua bảo cô gái:

 

- Ta muốn nằm ngủ, cần nàng bóp chân.

 

Cô gái bóp chân vua trong lúc ông ta an nghỉ. Khi nhà vua ngủ say, cô gái suy nghĩ: "Các vị vua tôn quý sang cả, tất có nhiều người oán ghét, ít kẻ ưu ái. Nhà vua đang ngủ say, sợ có kẻ ác đến làm làm hại ngài. Nếu không đóng cửa bảo vệ, có kẻ làm hại vua, ta và chủ nhân tất bị tội lỗi". Để bảo vệ, cô gái liền đóng cửa vườn. Khi ấy, đi tìm nhà vua, đến vườn kia, bốn loại binh hỏi thăm:

 

- Nhà vua ở đây phải không?

 

Nghe hỏi, cô gái vẫn không chịu mở cửa. Thức dậy vì nghe tiếng ồn ào của quân lính bên ngoài, nhà vua hỏi cô gái:

 

- Tiếng vang gì vậy?

 

Đáp:

 

- Có người đến hỏi đại vương ở đâu và muốn mở cửa.

 

Hỏi:

 

- Ai đã đóng cửa?

 

Đáp:

 

- Thiếp đã đóng!

 

- Vì sao đóng? Nhà vua hỏi.

 

Đáp:

 

- Thiếp tự nghĩ, các vị vua tôn quý sang cả nên kẻ oán hận nhiều ít kẻ ưu ái. Nhà vua đang ngủ say, sợ có kẻ ác đến gây hại. Nếu không đóng cửa bảo vệ, bỗng nhiên vua bị thương tổn, ta và ông chủ tất bị tội lỗi. Vì vậy, thiếp đóng cửa.

 

Nghe nói xong, sau khi khen ngợi: - Cô gái thật hay, có kế kỳ diệu. Nhà vua hỏi:

 

- Người chủ vườn là Đại Danhthân thuộc gì với nàng?

 

Đáp:

 

- Thiếp là người phục vụ của Đại Danh.

 

Vua hỏi:

 

- Không phải hạng thấp hèn, là con gái của Đại Danh, tại sao nàng không nói thật?

 

Cô gái im lặng.

 

Bấy giờ, nhà vua bảo cô gái vào trong thành, báo với Đại Danh: - Vua Thắng Quang đang ở trong vườn của ông ta.

 

Cô gái vội vàng đến báo đầy đủ với Đại Danh.Sau khi nghe báo, cùng với nhiều người đến vườn kia mang theo thức ăn ngon và hương hoa, thấy vua Thắng Quang, Đại Danh tung hô:

 

- Kính chào đại vuơng!

 

Sau khi cùng nhau thăm hỏi, ông ta phục vụ vua tắm rửa, rồi dâng y phục tốt đẹp, hương xoa, vòng hoa và đầy đủ thức ăn ngon. Sau khi ăn xong, trong lúc nói chuyện, nhà vua hỏi Đại Danh:

 

- Cô gái nhỏ này thân thuộc gì của khanh?

 

Đáp:

 

- Là người phục vụ.

 

Vua nói:

 

- Chẳng phải là người phục vụ, là con của khanh, hãy dâng cho ta.

 

Đại Danh tâu:

 

- Còn có nhiều cô gái thuộc giòng họ Thích xinh đẹp kỳ diệu gấp bội cô này, vì sao vua không lấy?

 

Vua đáp:

 

- Cô gái này chính là người mà ta cần, không cần người khác.

 

Đại Danh tâu:

 

- Nếu như vậy, thần sẽ tổ chức đầy đủ nghi lễ để dâng lên ngài.

 

Vua nói:

 

- Lành thay!

 

Đại Danh liền trang hoàng thành phố, quét dọn đường lộ, trang điểm cho cô Thắng Man các loại anh lạc cho ngồi trên voi lớn, tại chỗ rộng rãi, rung chuông báo cáo cho mọi người trong thành Kiếp Tỷ La, và những người ở phương khác đến:

 

- Thắng Man, con gái của Thích chủng Đại Danh sắp được đưa dâng lên vua Thắng Quang nước Kiều Tát La làm đệ nhất phu nhân.

 

Trước sự đưa tiễn của nhân dân cả thành, với nghi lễ quân lính đầy đủ, vua Thắng Quang nghênh đón Thắng Man về nước.

 

Nghe nhà vua lấy nô tỳ làm phu nhân. Quốc mẫu rất ưu buồn, tức giận suy nghĩ: "Đây chẳng phải là đứa con tốt, làm phiền ta lúc trong bụng, sinh ra nuôi cho trưởng thành cuối cùng làm chồng kẻ ti tiện". Về đến thành, vua bảo Thắng Man:

 

- Nàng hãy đến làm lễ ra mắt đại-gia.

 

Thắng Man đến gặp đại-gia, cúi đầu làm lễ, tay ôm lấy hai chân. Khi bàn tay mềm mại của Thắng Man chạm vào chân, bỗng nhiên quốc-mẫu cảm thấy thân tâm ngây ngất, giây lâu mới bình tỉnh lại, nói:

 

- Xem cô gái hạ tiện với thân hình xinh đẹp này, tất làm tan nát thành Kiều Tát La của ta.

 

Bấy giờ, vua Thắng Quang có hai đại phu nhân, một tên Hành Vũ, một tên Thắng Man. Khi cùng Thắng Man gặp nhau hoan hỷ, vua thường khen về Hành Vũ với lời lẽ:

 

- Thắng Man nên biết, phu nhân Hành Vũ xinh đẹp tuyệt trần.

 

Thắng Man tâu vua:

 

- Bao giờ thiếp mới được gặp?

 

Vua nói:

 

- Không bao lâu nữa, nàng sẽ gặp.

 

Khi gặp Hành Vũ, vua thường khen về Thắng Man với lời lẽ:

 

- Hành Vũ nên biết, phu nhân Thắng Man da thịt mềm mại hiếm có trong đời.

 

Hành Vũ tâu vua:

 

- Bao giờ thiếp mới được diện kiến?

 

Vua nói:

 

- Không bao lâu sẽ cho nàng gặp.

 

Thường khen hai người với nhau, vua làm cho họ yêu kính và muốn gặp nhau. Sau đó, vào tiết tháng ba mùa xuân, trăm hoa đua nở, cây cỏ tươi tốt, nước hồ trong xanh, chim hoa rực rỡ, chim- công, anh-vũ, nga, nhạn, oanh-ương, cùng nhau bay lượn đua hót véo von.

 

Một hôm, trong khu vườn xinh đẹp, vua cùng thể nữ vây quanh vui chơi đùa giỡn khắp nơi. Khi vua nghỉ ngơi, các cung nhân tung tăng tham hái hoa quả, tùy ý đi khắp. Bấy giờ, Hành Vũ mệt nhọc nên vịn nhánh cây vô-ưu đứng nghĩ . Thắng Man đến lạy sát chân Hành Vũ vì khi đi qua gần bên, thấy cô ta, tưởng là thần cây. Được tay Thắng Man chạm đến, Hành Vũ liền ngây ngất.

 

Vừa thức dậy, trông thấy Thắng Man ở chỗ Hành Vũ, vua liền bảo các thể nữ đi về cung. Sau đó, trước Hành Vũ, khi vua khen Thắng Man, Hành Vũ tâu:

 

- Bao giờ thiếp được gặp Thắng Man?

 

Vua nói:

 

- Nàng đã được gặp.

 

Hành Vũ thưa:

 

- Thiếp nhớ chưa được gặp.

 

Vua nói:

 

- Ta làm cho nàng nhớ lại khi gặp nhau. Hãy nhớ lại, trước đây trong vườn, khi nàng đang đứng vịn nhánh cây vô-ưu, Thắng Man đến gặp và đã chạm tay vào chân nàng.

 

Hành Vũ hỏi:

 

- Người ấy là Thắng Man hay sao?

 

- Đúng vậy! Vua nói.

 

Hành Vũ tâu:

 

- Thiếp biết! Được đại vương rất yêu mến, nên mới bỏ qua người thân hình xinh đẹp mềm mại như vậy mà hạ cố đến thiếp.

 

Tại chỗ Thắng Man, lúc vua khen Hành Vũ, Thắng Man tâu:

 

- Bao giờ thiếp được gặp Hành Vũ?

 

Vua nói:

 

- Nàng đã từng gặp.

 

Thắng Man thưa:

 

- Thiếp chưa từng gặp!

 

Vua nói:

 

- Ta sẽ làm cho khanh nhớ lại, dưới cây vô-ưu, nàng đã làm lễ dưới chân Hành Vũ.

 

Thắng Man hỏi:

 

- Đó là Hành Vũ hay sao?

 

Vua nói:

 

- Đúng vậy!

 

- Tâu đại vương, biết ngài rất yêu thương thiếp nên mới bỏ qua người với sắc đẹp như vậy mà hạ cố đến thiếp.

 

Cả nước, mọi người đều biết, vua Thắng Quang có hai phu nhân là Thắng Man và Hành Vũ. Thắng Man mềm mại tuyệt trần. Hành Vũ xinh đẹp vô song.

 

Các Bí-sô đều nghi ngờ, thưa Thế Tôn:

 

- Đại đức! Thắng Man và Hành Vũ đã làm thiện nghiệp gì, nhờ vào nghiệp lực ấy nên người này thân thể mềm mại, người kia hình dáng xinh đẹp tuyệt luân?

 

Thế Tôn bảo:

 

- Hai người này đang hưởng quả dị thục đều do nghiệp đã làm Tăng trưởng thành... nói rộng như chỗ khác. Này các Bí-sô, thời quá khứ, tại Đại Thành có Bà-la-môn lấy vợ chưa bao lâu, sinh được một trai, vài năm sau lại sinh thêm một gái. Hai anh em vừa lớn lên, cha mẹ bị bệnh đều qua đời. Gặp phải sự việc quá sầu khổ, nên nghĩ đến việc vào rừng núi, đồng tử kia dắt em vào núi rừng hái hoa quả để nuôi thân.

 

- Này các Bí-sô! Như rắn độc lớn có năm tai hại. Thế nào là năm? Một là nhiều sân; Hai là nhiều hận ; Ba là làm ác; Bốn là vô ân; Năm là rất độc. Nên biết người nữ cũng có năm lỗi: Một là nhiều sân; Hai là nhiều hận; Ba là làm ác, Bốn là vô ân; Năm là rất độc.

 

- Thế nào là người nữ rất độc?

 

- Thông thường người nữ có nhiều ái dục mãnh liệt trong lòng. Khi đồng nữ kia trưởng thành, tâm ái dục đã mạnh, nên bảo với anh: "Em không thể sống bằng cách ăn hoa quả nữa, chúng ta hãy xuống nơi có người để tìm thức ăn". Người anh đưa em ra khỏi núi rừng, cùng đi đến nhà Bà-la-môn khất thực. Nghe hai tiếng gọi, ra khỏi nhà thấy họ, chủ nhân hỏi:

 

- Người ẩn sĩ cũng có vợ!

 

Anh đáp:

 

- Đây là em gái chứ không phải vợ tôi.

 

Hỏi:

 

- Đã đính hôn chưa?

 

- Chưa. Người anh đáp.

 

Chủ nhà nói:

 

- Như vậy, tại sao không gả cho tôi?

 

Đáp:

 

- Em tôi đã xa lìa pháp ác của thế gian.

 

Với ý dục mãnh liệt, cô em nói với anh:

 

- Chẳng lẽ em không thể ở trong rừng ăn trái cây để sống hay sao, nhưng vì em không chịu nỗi sự giày vò của phiền não, nên cùng anh từ bỏ núi rừng đến ở với mọi người, hãy gả em cho người Bà-la-môn.

 

Người anh nói:

 

- Ta thật không thể gả em lấy chồng vì đó là pháp ác, chẳng phải việc làm của ta, em có thể tùy ý làm theo tâm niệm thế tục của mình.

 

Biết rõ ý cô gái, Bà-la-môn vào nhà, hội họp thân thuộc, cưới nàng làm vợ. Cô em bảo anh:

 

- Từ nay anh sống chung nhà với em nhưng ở riêng phòng.

 

Anh nói:

 

- Anh không cầu dục lạc, chỉ vui thích xuất gia.

 

Em nói:

 

- Anh hãy hứa với em, sau đó tùy ý.

 

Anh nói:

 

- Giao kết điều gì? Em nói:

 

- Nếu chứng đắc quả thù thắng, anh hãy đến gặp em.

 

Sau khi nói: - Lành thay! Theo ý nguyện của em, người anh từ giã. Sau khi xuất gia nơi các vị ẩn sĩ, do sức thiện căn của đời trước, nhờ tu tập theo ba mươi bảy pháp Bồ-đề-phần, không thầy tự ngộ, người anh chứng quả Độc-giác. Trước đây, ta có hứa với em gái, nên đến gặp nó, suy nghĩ như vậy, vị Độc-giác đến nhà kia, bay lên hư không hiện các thần biến, trên thân phóng lửa sáng, dưới thân phun nước trong, với nhiều hiện tượng kỳ lạ, rồi hạ xuống đất. Khi thấy những thần thông này, tâm lý những kẻ phàm phu liền chuyển biến như cây đại thọ ngã xuống đất. Người em gái đảnh lễ sát chân anh, thưa:

 

- Anh đã chứng được thắng đức thù diệu!

 

Đáp:

 

- Đúng vậy!

 

Em thưa:

 

- Anh cũng cần phải ăn uống để duy trì thân thể, em vì cầu phước xin được cúng dường, thỉnh anh ở đây.

 

Đáp:

 

- Em không được tự ý, hãy thưa với chồng.

 

Người em thưa với chồng:

 

- Chàng biết không, anh của em xuất gia thành tựu giới cấm, đắc quả thượng diệu đệ nhất trong thế gian. Em muốn cúng dường nhưng không dám tự chuyên. Nếu được đồng ý, em sẽ cúng dường lương thực trong ba tháng.

 

Đáp:

 

- Hiền thủ! Nếu anh ấy không xuất gia, dù không muốn ta cũng phải chu cấp đầy đủ, huống chi anh ấy đã xuất gia chứng đạo qu? thù thắng, vậy tùy theo ý em cúng dường ba tháng.

 

Thấy sự cúng dường thực phẩm như vậy, sau khi suy nghĩ: "Gia tài là của chung, cô ta biết cầu phước, sao ta lại không làm", người vợ cũ của chồng cô em nói:

 

- Anh của dì cũng là bậc tôi tôn trọng, tôi muốn chính mình cách nhật cúng dường.

 

Đáp:

 

- Tùy ý chị.

 

Em gái vị Độc Giác muốn giữ vẹn tình cảm với cô kia, nên để thức ăn ngon ở trong, thức ăn thường lên trên, mang đến nói với người vợ cũ:

 

- Em mang thức ăn này đến cúng dường cho người anh xin chị tùy hỷ.

 

Đến ngày mình cúng dường, người vợ cũ cũng muốn giữ vẹn tình cảm với cô này, nên để thức ăn thường ở trong, thức ăn ngon lên trên, mang đến nói với vợ mới:

 

- Tôi mang thức ăn thơm ngon này dâng lên tôn huynh, xin dì tùy hỷ.

 

- Các Bí-sô nên biết rằng, Thắng Man chính là em gái vị Độc-giác, đem thức ăn tinh tế thơm ngon cúng dường người anh, do sức phước này nên trong năm trăm đời thân thể thường mềm mại. Hành Vũ chính là người vợ cũ đem thức ăn ngon để lên trên cúng dường vị Độc-giác, do phước nghiệp này nên trong năm trăm đời có hình dáng xinh đẹp ... cho đến đời này dung mạo tuyệt trần.

 

Này các Bí-sô, phải biết nghiệp đen đưa đến quả báo đen, nghiệp trắng đưa đến quả báo trắng, nghiệp xen tạp đưa đến quả báo xen tạp. Các thầy nên bỏ hai nghiệp đen và tạp, tu tập nghiệp trắng ... rộng như trước. Này các Bí-sô nên học như vậy.

 

Sau đó, phu nhân Thắng Man có thai. Trong đêm ấy, vợ đại thần Bà-la-môn cũng có thai, và chịu nhiều đau khổ vì cái thai này. Sau chín tháng, phu nhân Thắng Man sinh một con trai, thân hình tuấn tú, ai cũng thích nhìn. Sau 21 ngày, thân tộc tụ họp muốn làm lễ đặt tên cho bé trai. Vua bảo: - Hãy bồng đứa bé này đến xin quốc-thái phu nhân đặt tên. Tuân lệnh vua, Quần thần bồng đứa bé đến trình phu nhân. Phu nhân nói:

 

- Có phải trước đây ta đã nói, xem cô tỳ nữ này với thân thể xinh đẹp mềm mại, tất sẽ làm tan nát thành Kiều-tát-la của ta!

 

Đại thần tâu:

 

- Thật đúng như vậy, khi đứa bé chưa sinh, quốc-thái phu nhân đã báo trước điều không lành, vậy nên đặt tên cậu ta là Ác Sinh.

 

Trong ngày sinh của Ác Sinh, vợ đại thần cũng sinh con trai, vừa tròn tháng ... cũng như trên ... cho đến tập họp thân tộc làm lễ đặt tên. Mọi người bàn nhau:

 

- Khi mang thai đứa bé này, người mẹ chịu nhiều gian khổ, khi sinh lại bị cực khổ nữa, vậy nên đặt tên cho nó là Khổ Mẫu.

 

Có tám bà nhũ mẫu phục vụ thái tử Ác Sinh ... nói rộng như chỗ khác. Khổ Mẫu cũng được tám bà nhũ mẫu săn sóc, nuôi đến trưởng thành. Bà-la-môn phải học tập tận cùng về các loại nghề nghiệp. Một lúc nọ, thái tử Ác Sinh và Khổ Mẫu ra khỏi thành săn bắn. Con ngựa bỗng nhiên vọt chạy đưa thái tử đến vườn Thích-ca ở thành Kiếp-tỷ-la. Người giữ vườn báo với chủ:

 

- Thái tử Ác Sinh đang đến trong vườn.

 

Nghe như vậy, các Thích tử bàn luận nhau:

 

- Chúng ta mau tiến ra, muốn giết Ác Sinh, thật là đúng lúc.

 

Mọi người đều trang bị binh giáp, muốn xuất thành. Thấy như vậy, các vị kỳ lão hỏi họ:

 

- Các ngươi muốn dẫn binh đi đâu?

 

Đáp:

 

- Thái tử Ác Sinh đến vườn Thích Chủng.

 

Kỳ lão nói:

 

- Họ là khách mới đến đây, chưa xúc phạm gì, hãy tạm chịu nhịn đã.

 

Nghe xong, những người kia lui vào thành. Đi tìm thái tử, bốn loại binh cũng đến và đi lại khắp nơi trong vườn. Người giữ vườn báo vào thành:

 

- Bốn loại binh của Ác Sinh đã vào vườn tàn phá tan hoang.

 

Nghe như vậy, mọi người càng thêm tức giận, tăng thêm uy vũ cùng nhau xuất thành, ý muốn tàn sát. Các vị kỳ lão lại hỏi:

 

- Các ngươi xuất thành muốn đi đâu?

 

Đáp:

 

- Thái tử Ác Sinh dẫn bốn loại binh phá hoại khu vườn cuả ta, chúng tôi muốn giết hắn.

 

Kỳ lão nói:

 

- Tạm thời hãy nhịn đã.

 

Khi ấy, biết binh lính họ Thích muốn đến làm hại, Ác Sinh vội dẫn binh trở về nước, chỉ lưu lại một người để lén nghe Thích tử bàn luận. Khi quân Thích-chủng đến vườn, tìm kiếm chỉ thấy một người, hỏi:

 

- Đứa con ti tiện Ác Sinh nay ở đâu?

 

Đáp:

 

- Vừa đi rồi.

 

Các Thích Chủng bàn nhau với những lời:

 

- Nếu chúng ta bắt được Ác Sinh, trước hết phải chặt tay, hoặc nói chặt chân, hoặc nói moi tim, nay hắn đã chạy đi còn làm được gì nữa.

 

Họ liền sai người đào bới bỏ chỗ đất mà Ác Sinh đã đi đứng, sâu đến đầu gối, rồi lấy đất nơi khác lấp hố lại, phá đi rồi làm lại,thoa nước thơm những tường vách mà Ác Sinh đã dựa vịn, sửa soạn lại bông hoa và quét dọn hết trong vườn. Sau khi thấy tất cả những hành động như vậy, người mà Ác Sinh để lại đi về thành Kiều Tát La và gặp Ác Sinh, làm lễ xong đứng qua một bên. Ác Sinh hỏi:

 

- Thích chủng bàn luận gì về ta?

 

Đáp:

 

- Tâu thái tử, løời họ thật độc hại, thần không dám nói.

 

Ác Sinh nói:

 

- Họ nói lời ác, khiến họ phải chịu như vậy, ngươi nghe thấy thế nào hãy nói thật ra, ta muốn biết rõ sự việc họ đã làm.

 

Người kia liền kể lại sự việc trên. Nghe xong, rất phẫn nộ, Ác Sinh bảo tả hữu:

 

- Các ngươi hãy nhớ kỹ, sau khi phụ vương băng hà lúc ta kế vị, các ngươi phải kể sự việc này cho ta nhớ lại. Đây là mối thù đứng đầu, nên ta phải tru diệt Thích chủng.

 

Khổ Mẫu nói:

 

- Lành thay, thái tử nói lời này thật khoái chí, xin hãy vững tâm, khi ngài kế vị, thần sẽ nhắc lại.

 

CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ

TỲ-NẠI-DA TẠP SỰ

 

Quyển thứ bảy hết.

 

--- o0o ---

Quyển thứ tám

 

--- ooOoo ---

 

(Tiếp theo tụng thứ tư trong biệt môn thứ hai).

 

(Nói về sự việc vua Thắng Quang tin Phật và những chuyện Ác Sinh tàn sát họ Thích ... )

 

Một hôm, thái tử Ác Sinh sanh tâm ác nghịch, cùng các quan lén mưu tính việc soán ngôi. Năm trăm đại thần của vua đều nghe theo, chỉ có một vị là người được vua ái trọng tên là Trưởng Hành không thuận theo kế này. Sau đó, Ác Sinh bảo Trưởng Hành:

 

- Chẳng lẽ ngài không muốn ta lên ngôi vua hay sao?

 

Đáp:

 

- Vì sao thái tử nói lời phi pháp như vậy? Phụ vương ngài đã già không bao lâu sẽ băng hà, tất nhiên thái tử sẽ lên ngôi vua. Tại sao vì chỗ ngồi mà mưu đồ nghịch hại để chôn tên mình vào chỗ xấu? Tuy ngu si nhưng thần trộm nghĩ không nên.

 

Ác Sinh nói:

 

- Ta thử lòng ngài nên nói như vậy, ngài hãy giữ miệng chớ cho ai nghe.

 

Trưởng Hành nói:

 

- Thần không dám trái lệnh.

 

Sau đó, vua Thắng Quang cùng đại thần Trưởng Hành du hành đêán các tụ lạc nhưng không đem theo tùy tùng. Đến nơi, thấy có chỗ A Lan Nhã trong sáng khoáng đãng thanh tịnh không có tạp uế, thích hợp với việc tu tập thiền định di dưỡng tinh thần, vua bảo Trưởng Hành:

 

- Thắng xứ thế này, Thế Tôn Đại sư có thể trú ở đây. Làm sao ta được phục vụ thân cận cúng dường Ngài? Không biết đức Điều ngự đang ở đâu?

 

Đáp:

 

- Thần nghe Thế Tôn đang ở trú xứ Thích chủng nơi tụ lạc Kiết Tường.

 

Vua hỏi:

 

- Đến đó gần hay xa?

 

Đáp:

 

- Cách đây ba Câu-lô-xá.

 

Vua nói:

 

- Ta muốn đến đó thân cận Thế Tôn.

 

Trưởng Hành tâu:

 

- Xin tuân ý Ngài.

 

Muốn gặp Thế Tôn, họ quay xe lại, đến vườn Kiết Tường, xuống xe đi bộ vào. Khi ấy, Thế Tôn đang thiền định trong căn phòng khép cửa. Các Bí-sô đang kinh hành ở ngoài. Thấy các Bí-sô, vua làm lễ và thưa hỏi:

 

- Đức Thế Tôn đang ở đâu?

 

Đáp:

 

- Ngài đang thiền định trong căn phòng khép cửa. Muốn gặp Thế Tôn, Đại vương hãy đến đó và nhẹ nhàng gõ cửa, đức Phật tự biết.

 

Vua có năm vật trang sức uy nghiêm thắng diệu: Một là mão báu; Hai là lọng báu; Ba là kiếm báu; Bốn là phất báu; Năm là giày báu.

 

Khi ấy, ý muốn đến đó với sự nghiêm trang để thân cận Thế Tôn, vua ra lệnh Trường Hành:

 

- Giao năm vật báu cho khanh và để ngay trước mặt để trông chừng.

 

Trường Hành suy nghĩ: "Vua ra lệnh ta cầm những vật này ngay trước mặt nhìn luôn, ý muốn không bận bịu, để an tâm gặp Phật, vậy ta hãy ở đây". Đến căn phòng, vua nhẹ nhàng gõ cửa. Sau khi đức Phật mở cửa, vua vào làm lễ sát chân đức Đại sư và thưa:

 

- Đã lâu, con không được gặp Như Lai, nay may mắn được diện kiến tôn nhan nên vui mừng không kể xiết.

 

Phật nói:

 

- Đại vương! Vì sao ngài có thể hạ mình phục tùng ân cần với Ta như vậy?

 

Vua thưa:

 

- Con rất tin giáo pháp của Thế Tôn, vì kính tin nên làm cho con phát tâm ân cần tôn trọng. Vả lại, đức Phật Thế Tôn Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác khéo thuyết giảng giáo pháp, làm cho chúng Thanh văn đều phụng hành theo, không ai làm ngược lại.

 

Phật dạy:

 

- Đại vương! Đối với pháp nào mà ngài có tâm cung kính?

 

Vua bạch Phật:

 

- Trước đây, con từng thấy các Sa-môn Bà-la-môn khác có ít trí tuệ đã tự thị cống cao, làm sách vở để bắt bẻ người khác. Vì cho là họ giỏi phân tích, theo hiểu biết của mình mọi người hùa theo. Vì vậy, họ lập môn phái riêng dựng lên chủ thuyết của mình. Làm việc này xong, họ lại suy nghĩ: "Ta hãy đến gặp Sa-môn Kiều Đáp Ma để cùng nhau đàm luận. Nếu không đáp được, ta sẽ làm nhục ông ta. Nếu ông ấy giải thích đúng, ta sẽ nói ngược: Sự giải thích này phi lý không đúng".

 

Sau khi có tà niệm như vậy, họ đến gặp đức Phật. Vừa thấy sức thần uy của Đại sư, họ còn chẳng dám nhìn thẳng vào Ngài, huống chi có thể trực tiếp đàm luận. Thế nên con phát sinh lòng tin sâu xa với Thế Tôn. Do kính tín làm cho con có tâm ân cần tôn trọng như vậy.

 

Lại nữa, Đức Phật Thế Tôn Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác khéo giảng thuyết pháp luật, làm cho chúng Thanh văn đều phụng hành. Lại nữa, bạch Thế Tôn! Con từng thấy: Các Bà-la-môn khác có ít trí tuệ lại tự thị cống cao, v.v ... tự tạo chủ thuyết muốn đến bắt bẻ Phật. Khi chiêm ngưỡng Thế Tôn, họ không dám hỏi, còn khen: - Đại sư là bậc Pháp-vương đệ nhất trong Trời người. Hiểu biết của Ngài thông suốt tất cả, bứng hết gốc tà làm cho người tuân theo chánh đạo. Thế nên, con có lòng tin sâu xa với Thế Tôn. Do lòng tin kính này, làm cho con phát tâm ân cần tôn trọng như vậy.

 

Lại nữa, Phật Thế Tôn Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác khéo thuyết pháp luật, làm cho chúng Thanh văn đều phụng hành theo.Lại nữa, bạch Thế Tôn! Con từng thấy: các Sa-môn Bà-la-môn khác có ít trí tuệ đã tự thị cống cao, v.v ... tạo nhiều chủ thuyết, muốn đến luận chiến với Phật. Đến gặp Phật, được chiêm ngưỡng Thế Tôn, họ đặt câu hỏi không hoàn chỉnh. Phật trả lời cho họ bằng câu đáp hoàn chỉnh. Nghe xong, họ rất vui mừng, phát tín tâm lớn quy y Tam-bảo, thọ trì học-xứ. Thế nên, con đối với Thế Tôn, sinh tín tâm sâu xa. Do tín tâm làm cho con có tâm ân cần tôn trọng như vậy.

 

Lại nữa, Phật Thế Tôn Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác khéo thuyết giảng pháp luật, làm cho chúng Thanh-văn đều phụng hành. Lại nữa, Thế Tôn! Con từng thấy các Sa-môn Bà-la-môn khác có ít trí tuệ đã tự thị cống cao, v.v ... muốn đến bắt bẻ Phật. Khi gặp Phật, được chiêm ngưỡng Thế Tôn, họ hỏi câu hỏi hoàn chỉnh. Tùy theo căn cơ, đức Phật trả lời bằng câu đáp hoàn chỉnh hơn nữa. Họ hoan hỷ vô cùng khi nghe được diệu nghĩa của Phật nên vứt bỏ tà đạo, tuân sùng chánh pháp và xin xuất gia, được thọ giới cụ-túc, siêng tu tập phạm hạnh, không bao lâu trừ sạch trần cấu nhiều đời, chứng A-la-hán, hưởng an lạc giải thoátsuy nghĩ: "Biết bao uổng phí cho ta vì tự dối trá, chẳng phải Sa-môn cho là Sa-môn, chẳng phải Bà-la-môn cho là Bà-la-môn, chẳng phải A-la-hán cho là A-la-hán. Đến nay, ta mới thật là chân Sa-môn Bà-la-môn, chân A-la-hán. Thế Tôn! Do đó nên con có tín tâm sâu xa.v.v ... như trên.

 

Lại nữa, Thế Tôn! Trước đây con từng thấy các Sa-môn Bà-la-môn khác sắc diện vàng vọt hình dáng suy nhược, thân thể khuyết tật, thật không ưa nhìn. Thấy như vậy, sau khi suy nghĩ: "Lẽ nào người ấy không thích sống phạm hạnh, hay bị bệnh lâu dài đến nỗi suy nhược như vậy, hay là làm việc tội lỗi ở chỗ vắng mà che dấu nên mang thân hình này". Người không ưa nhìn, con đến hỏi:

 

- Vì sao quý vị không còn nhan sắc, hình dung tiều tụy, người không muốn nhìn.

 

Họ đáp với con:

 

- Đại vương, tôi bị ái dục giày vò nên thân thể thế này.

 

Nghe như vậy, con suy nghĩ: "Người không bỏ được ái dục nên có tai hại như vậy".

 

- Nếu người nhiều hành động ái dục, tham ái dục đáng lẽ được tăng trưởng sức lực, nhan sắc xinh đẹp?

 

- Không đúng như vậy.

 

- Vì sao?

 

- Con làm quốc vương quyền lực tự do thụ hưởng rất đầy đủ năm dục, đáng lẽ được tướng mạo xinh đẹp thù thắng siêu tuyệt, nhưng đã không như vậy. Thế nên biết không phải do thân cận với dục mà sắc đẹp và sức lực tăng trưởng. Nhưng người ngu si đều yêu thích dục. Con thấy chúng Thanh văn đệ tử đức Thế Tôn, yêu thích phạm hạnh nên thân thể sáng sạch, diện mạo tươi nhuận, sống vui vẻ, thường sợ ái dục, như nai sống trong rừng, trọn đời thuần nhất không tạp, thanh bạch hoàn toàn, phạm hạnh đầy đủ. Vì vậy, con có lòng tin sâu xa.v.v... như trên.

 

Lại nữa, Thế Tôn! Con nhớ có lúc ngồi trên chánh điện xử lý việc nước, thấy có nhiều người đều vì năm dục nên đến gặp con, hoặc đối với cha mẹ nam nữ anh chị em tri thức bằng hữu mà kiện tụng nhau, tranh luận tốt xấu, huống chi với người khác.

 

Lại nữa, con từng thấy, có hai Bí-sô cùng các Bí-sô cạnh tranh đến nỗi phải xả giới. Nhưng hai Bí-sô ấy không nói một chút nào về lỗi của Phật, Pháp, Tăng bảo, chỉ biết tự trách mình là người cực ác là người vô phước không thể tu tập phạm hạnh thanh tịnh để trọn đời sống theo giáo pháp của đức Thế Tôn, tâm không vi phạm. Vì vậy, con có tâm rất kính tín ... như trên.

 

Lại nữa, Thế Tôn! Con từng thấy một hạng Sa-môn Bà-la-môn cố giữ tâm yên tịnh, thọ trì phạm hạnh, sau tám chín tháng bị dục lôi kéo, liền xả luật nghi làm việc nhiễm ô, quấn quýt theo năm dục để vui thú. Con thấy các vị Thanh-văn đệ tử đức Thế Tôn tu tập phạm hạnh thanh tịnh viên mãn, trọn đời sống theo lời dạy của Thế Tôn, tâm không vi phạm. Do đó, con có lòng tin sâu xa ... như trên.

 

Lại nữa, Thế Tôn con là chủ đất nước, hiệu là Thắng Quang với quyền lực tự tại thống lĩnh đất nư?c này, giết chết người không đáng chết, cho phép người đáng chết được sống, cai quản trong nước ai cũng tôn trọng. Nhưng đại thần tể tướng đều là hào tộc Bà-la-môn, Sát-đế-lợi, Trưởng giả . Khi bàn việc chính trị, truất phế quần thần, khi tâu trình họ vẫn còn ý kiêu mạn, thái độ không nghiêm túc, triều nghi bị rối loạn. Con thấy Thế Tôn đang thuyết pháp ở giữa vô số trăm ngàn đại chúng, tất cả trời người đều chú ý chiêm ngưỡng tôn nhan, cùng nhau lắng nghe không có tán loạn, dưới tòa im lặng cho đến không nghe tiếng ho chép miệng, huống chi tiếng ồn. Khi ấy trong hội, bỗng có một ngừơi ho lên tiếng, người bên cạnh khẻ nói:

 

- Nhân giả! Xin ngài im lặng chớ làm ồn. Chẳng lẽ ngài không nghe đang đúng lúc Thế Tôn thuyết pháp vi diệu như mật thượng hạng.

 

Nói xong, vị kia liền im lặng. Nghe nói như vậy, con suy nghĩ: "Thế Tôn thật có uy lực lớn bất khả tư nghị, không dùng đao gậy hình phạt mà điều phục được mọi người, tất cả đều tuân phụng". Vì vậy, con phát sinh lòng tin sâu xa ... như trên.

 

Lại nữa, bạch Thế Tôn! Con có hai cận thần, một tên Tiên Thọ, một tên Cố Cựu. Tất cả những đất đai chức tước giàu sang tiếng tăm của họ đều nhờ nơi con, từ nhỏ đến nay thường hưởng an lạc. Đối với con, tuy họ có nhớ ân nhưng không cung kính nồng hậu bằng đối với Thế Tôn.

 

Lại nữa, một lúc nọ, con thống lĩnh binh mã ra khỏi thành trừ giặc, ý muốn thử lòng hai vị cận thần kia. Đối với con và Phật, họ trọng ai hơn. Đến chỗ kín, con hỏi họ:

 

- Khi ngủ, đối với ta và Phật, đầu và chân các khanh hướng về ai?

 

Khi ấy, sau khi khen ngợi công đức của Phật, và nói về phước điền của chánh Pháp, Tăng Bảo, và như vậy, họ nói hướng đầu về Phật, quay chân về vua. Nghe như vậy, con càng kính trọng Thế Tônuy lực lớn bất khả tư nghị, vì họ đều nhờ vào ân sủng bổng lộc của con nên được tiếng tăm giàu sang an lạc. Nhưng họ đối với con, sự không cung kính bằng với đức Thế Tôn. Vì vậy, con có lòng kính tín sâu xa ... như trên ...

 

Lại nữa, Thế Tôn! Con là vua nước Kiều Tát La, Phật cũng ở Kiều Tát La. Con sinh trong giòng Sát đế lợi, Phật cũng giòng Sát đế lợi. Đến nay, con đã cao niên, sống hơn tám mươi tuổi, Thế Tôn cũng thọ hơn 80 tuổi. Con là vua Sát đế lợi quán đảnh, Thế Tôn cũng là bậc Pháp Vương vô thượng. So với Phật, sức của con không thể ví dụ so sánh được. Vì sự thật này, nên con có lòng tin sâu xa ... như trên ... cho đến đều phụng hành.

 

Ngay trước Thế Tôn, sau khi trình bày rõ những việc thấy nghe, với sự kỳ diệu xong, vua Thắng Quang đảnh lễ dưới hai chân Phật rồi từ giã. Vua vừa đi khỏi, Phật bảo các Bí-sô:

 

- Các thầy nên ghi nhớ những điều vua đã nói, là pháp tụ kỳ diệu nên thọ trì đọc tụng. Vì sao? Vì văn và nghĩa đầy đủ, khế hợp với chánh pháp, thành tựu phạm hạnh, có thể làm cho được quả Biến trí Đẳng giác Viên minh Niết bàn vậy. Thế nên, các thầy phải chuyên cần tu học.

 

Khi Thế Tôn dạy lời này xong, các Bí-sô đều hoan hỷ tín thọ phụng hành.

 

Tụng tóm lược ở trước:

 

    Luận về bốn hạng người

    Nhớ dục thân thể gầy

    Hai quan cung kính vua

    Không bằng đối với Phật.

 

Khi ấy, biết vua gặp Phật, sau khi suy nghĩ: "Năm trăm đại thần của vua đ?u theo phe Ác Sinh, chỉ một mình ta không theo, vậy họ làm sao thành tựu việc lớn được.Ta hãy về nước, đưa Ác Sinh lên ngôi vua và đuổi hai phu nhân Thắng Man, Hành Vũ ra khỏi cung".

 

Đại thần Trưởng Hành bỏ chỗ bảo vệ, lên xe ra đi. Đến thành Thất La Phiệt, Trưởng Hành tâu với Ác Sinh:

 

- Nay thái tử muốn lên ngôi không?

 

Ác Sinh đáp:

 

- Chính là điều ta muốn.

 

Trưởng Hành cùng các quan theo kế hoạch lập vua mới, ra lệnh hai phu nhân phải đến chỗ vua cũ.

 

Thắng Man và Hành Vũ hỏi Trưởng Hành:

 

- Hiện nay vua ở đâu?

 

Đáp:

 

- Vua đang ở trong vườn Thích Ca Diệu Quang .

 

Hai phu nhân đi bộ tìm kiếm vua cũ. Bấy giờ, ra đến cổng, không thấy Trưởng-hành, vua hỏi các Bí-sô:

 

- Thưa đại đức! Thấy đại thần của con đang đi đâu không?

 

Bí-sô đáp:

 

- Đại vương vào chưa bao lâu, Trưởng Hành liền lên xe bỏ đi.

 

Nghe xong, vua từ từ đi bộ. Khi ấy, Phật cũng đi về thành Vương-xá. Giữa đường, gặp Hành Vũ, nhà vua hỏi:

 

- Vì sao các khanh đi bộ xa xôi vậy?

 

Đáp:

 

- Tâu đại vương! Đại thần Trưởng Hành mưu tính lập Ác Sinh lên ngôi, đuổi chúng thiếp ra, nên phải đi bộ đến đây tìm kiếm đại vương.

 

Nghe như vậy, vua bảo Thắng Man:

 

- Trước đây, khanh đã hưởng ân sủng bổng lộc của vua chồng, nay tạm trở về nhận sự phụng dưỡng của vua con. Ta cùng Hành Vũ từ đây không trở lại nữa.

 

Bị quay trở lại thành Thất La Phiệt, theo đường Thắng Man vừa đi vừa khóc.

 

Cùng đi dần về hướng thành Vương-xá, đến địa phận thành, thấy một khu vườn, vua ngừng lại và bảo Hành Vũ:

 

- Ta tạm ở đây, khanh vào trong thành, báo với vua Vị Sanh Oán, đại vương Thắng Quang nước Câu Tát La đang ở ngoài vườn, muốn gặp ngài.

 

Hành Vũ đi gặp vua Vị Sanh Oán tâu lại sự việc trên. Nghe nói xong, rất kinh ngạc, vua Vị-Sanh Oán nói với Hành Vũ:

 

- Vua Thắng Quang nước Kiều Tát Lauy lực lớn với bốn loại binh hùng cường, vì sao đến đột ngột mà chúng tôi không được biết?

 

Hành Vũ đáp:

 

- Nay nhà vua nào có binh sĩ cường thịnh, thái tử mưu nghịch chiếm ngôi vua của cha, chỉ có thiếp theo vua đến đây mà thôi.

 

Vị Sanh Oán nói:

 

- Nếu như vậy, ta xin đề nghị ngài làm vua xứ này, ta tự lui xuống làm thái tử.

 

Sau khi triệu tập quần thần, nhà vua ra lệnh:

 

- Vua Thắng Quang là chúa của đại quốc, là vua quán đảnh thuộc Sát đế lợi, nay bỗng nhiên đến đây, cần phải cung kính phục vụ, các khanh hãy sửa sang sạch sẽ đường sá trong thành, thống lĩnh bốn loại binh với trăm ngàn người, ta muốn chính mình nghênh đón vua vào đây.

 

Các quan vâng lệnh vua, đánh trống thổi loa báo cáo mọi người sửa sang thành quách, quét dọn đường sá thật sạch sẽ như vườn Hoan Hỷ của Thiên Đế Thích.

 

Trong lúc này, vua Thắng Quang nhịn đói đã lâu, lấy làm lạ vì sao sứ giả đến chậm nên ra khỏi vườn để tìm thức ăn uống, run sợ nhìn chừng nên đi đến vườn trồng rau cải. Khi ấy, người giữ vườn là kẻ phàm phu, nên đưa vua năm củ. Vì quá đói, vua ăn cả củ và lá. Ăn xong, bị khát, vua đến chỗ có nước và uống quá nhiều nên thân thể bị rối loạn suy nhược, nhớ đến Thắng Man nên bước tới trước, mất thăng bằng ngã xuống đất, miệng bị ngậm đất vụn nên qua đời.

 

Thống lĩnh bốn loại binh đến vườn, nhưng Vị Sanh Oán không thấy vua, liền sai binh mã tìm kiếm bốn phía. Có một kỵ mã đến vườn trồng cải, hỏi người ở vườn:

 

- Ngươi có thấy người như vậy không?

 

Đáp:

 

- Tôi thấy một người mới đến đây, xin củ cải rồi đến bên bờ nước.

 

Vội chạy đi tìm, người ấy thấy vua, thi thể vua chết cứng bên góc đường, liền đi báo cho vua Vị Sinh Oán. Nghe báo, vua kêu lên:

 

- Tai họa thay! Nay ta lại bị thêm tiếng xấu. Trước đây ta đã mang tiếng hại cha đoạt ngôi, nay lại bị kêu là giết bạn của cha.

 

Vua liền sai vô số quân đội đến phục vụ chỗ thây chết, và ra lệnh đại thần:

 

- Đây là vua Thắng Quang, đại vướng quán đảnh Sát đế lợi, gặp nguy khốn nên băng hà ở đây, phải tổ chức nghi lễ long trọng hỏa táng thi thể.

 

Theo lệnh vua, các quan trang hoàng linh xa đưa thi thể đến Hàn Lâm hoàn tất việc hỏa thiêu.

 

Nhà vua đến gặp Phật, lạy sát hai chân, ngồi qua một bên, bạch:

 

- Đại đức Thế Tôn! Không biết trước đây làm nghiệp gì, mà nay vua Thắng Quang vì ăn củ cải nên khốn khổ qua đời?

 

Thế Tôn bảo:

 

- Đại vương! Vua Thắng Quang nhận quả báo như trên do nghiệp đã làm. Đại vương! Thời quá khứ tại làng kia có một Bà-la-môn lấy vợ chưa bao lâu, sinh được một con. Lớn lên, người này khất thực để sinh sống. Một hôm, được năm củ cải dâng lên mẹ, anh ta nói: "Con đi tắm rửa, mẹ chờ con trở về dâng thức ăn". Này Đại vương, bấy giờ vào thời không có bậc Chánh giác, chỉ có Độc giác xuất hiệnthế gian, từ mẫn kẻ cô độc yếu ớt, thích sống an tịnh, làm phước điền cho thế gian. Khi ấy, có một vị Độc giác du hành trong nhân gian, vào sáng sớm, mặc y mang bát vào thành khất thực, đi đ?n nhà kia. Thấy vị Độc Giác này thân tướng đoan nghiêm sáu căn thanh tịnh, vợ người Bà-la-môn liền đem củ cải dâng cho vị ấy. Nhận vật cúng dường này xong, vị Độc giác vọt lên hư không hiện các thần biến. Khi kẻ phàm phu thấy các thần thông này, tâm được điều phục, ý rất hoan hỷ liền hướng đến lễ bái.

 

Sau khi tắm rửa, về đến nhà con người Bà-la-môn thưa:

 

- Mẹ đưa cho con củ cải lúc nãy.

 

Mẹ nói:

 

- Mới vừa có vị Bích Chi đến đây khất thực, ta đã dâng cho ngài.

 

Đang đói bụng, nghe nói như vậy, người con tức giận phát sinh ác niệm: "Mong cho ông ấy ăn củ cải bị rối loạn mà chết ".

 

Đại vương nên biết, đứa bé kia nào phải ai khác, chính là vua Thắng Quang. Đời trước, vì có ác tâm với vị Độc giác, do nghiệp lực này nên trong vô lượng trăm ngàn năm bị đọa địa ngục chịu nhiều khổ não, do sức của nghiệp báo còn lại trải qua sáu mươi lần bị bệnh rối loạn mà chết. Đời này, tuy đã chứng Thất Sinh, vẫn còn nghiệp lực dư tàn nên nhà vua ăn củ cải bị rối loạn mà qua đời. Đại vương nên biết, nghiệp báo của Thắng Quang từ nay dứt hẳn không còn thọ nữa. Đại vương nên biết, nghiệp trắng quả báo trắng, nghiệp đen quả báo đen, nghiệp tạp quả báo tạp. Vậy nên từ bỏ hai nghiệp đen và tạp, tu tập nghiệp trắng, chớ nói lời ác. Khi nghe lời Phật dạy, vua Vị Sinh Oán hoan hỷ cả thân tâm, đảnh lễ sát chân Phật, tín thọ từ giã.

 

Sau khi thái tử Ác Sinh lên ngôi vua, một hôm cùng các đại thần lâm triều nơi đại điện, Khổ Mẫu tâu:

 

- Đại vương nhớ không, ngày trước, ở trước đại chúng, ngài đã rống lên tiếng sư tử: Nếu ta lên ngôi, trước hết tru diệt những tên họ Thích, báo mối thù đầu tiên của ta.

 

Vua hỏi Khổ Mẫu:

 

- Có nên thực hiện lời ta nói không?

 

Khổ Mẫu tâu:

 

- Nay Đại vương đã lên ngôi báu, nên nhớ lại lời nói lúc trước chinh phạt họ Thích, đúng lúc không làm thì thành nói dối, xin ngài hạ lệnh chọn ngày xuất quân, cả bốn loại binh tượng mã xa bộ đều xuất phát, mâu giáp hăng hái, chuông trống vang lừng, ra khỏi thành Thất La Phiệt hướng về nước Kiếp Tỷ La, tru diệt họ Thích.

 

Nghe theo lời của Khổ Mẫu, vua Ác Sinh hạ lệnh đem quân đi chinh phạt nước kia. Đại sư Thế Tôn với tri kiến hoàn toàn, biết các Thích tử chắc bị bỏ mạng. Ngay bên đường, giữa biên giới hai nước, Phật ngồi thẳng dưới gốc cây nhỏ có ít cành lá. Trông thấy Thế Tôn, vua Ác Sinh liền đến nơi, bạch:

 

- Đại đức! Có nhiều vườn rừng với bóng mát rậm rạp, vì sao Ngài bỏ đi đến nơi này?

 

Cây này ít lá thiếu bóng mát, làm sao trú được?

 

Phật nói:

 

- Đại vương! Có gì bằng bóng mát của cây thân tộc!

 

Nghe Phật nói, sau khi suy nghĩ: "Giòng họ Thích trong nước Kiếp Tỷ La đều là thân quyến của Phật. Như Lai thương họ, ta không nên trái ý, vua Ác Sinh liền lui binh về nước".

 

Đến ba lần, Khổ Mẫu cầu thỉnh tru diệt, cuối cùng với các cận thần, ngay giữa triều, vua bảo quần thần:

 

- Những người họ Thíchthành Kiếp Tỷ La thường kêu ta là con của nô tỳ, mạ nhục quá nặng, không thể quên được. Nhưng họ là thân tộc của đức Như Lai, Thế Tôn thương mến, ta đành phải chịu nhịn không dám tiến hành việc tru diệt, làm sao trả được mối thù bị mắng này!

 

Khổ Mẫu tâu:

 

- Thần nghe Sa-môn Kiều Đáp Ma tự tuyên bố ly dục. Bậc ly dục không còn tâm niệm thân quyến, nếu còn tâm thân quyến thì không phải ly dục. Đạo, tục, khác nhau, đại vương nên tự quyết ... Tâu đại vương, hôm nay chính là lúc tru diệt họ Thích.

 

Bấy giờ, vua Ác Sinh muốn thống lĩnh bốn loại binh đi tàn sát. Trong lúc vua chưa đi, Đức Phật đi đến vườn nhiều gốc cây thuộc nước Kiếp Tỷ La, sau khi suy nghĩ: "Trong thành, những người họ Thích chưa kiến đế, khi họ chiến đấu với vua Ác Sinh thì không có cơ hội để kiến đế ".

 

Nghe Thế Tôn đến trong vườn ấy, những người họ Thích tập trung đến gặp Ngài, lạy sát chân, ngồi qua một bên. Thế Tôn tùy theo căn cơ nhân duyên của các Thích Chủngthuyết giảng diệu pháp. Bấy giờ, trong hội có vô số trăm ngàn hữu tình, được lợi ích lớn, hoặc đắc quả Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, hoặc gây nhân Độc giác, hoặc tạo nhân duyên thành bậc Chánh giác.

 

Lại có vô lượng chúng sinh quy y Tam bảo thọ trì các học xứ phụng hành lời Phật dạy. Các Thích chủngthành Kiếp Tỷ La được pháp lợi này xong, đảnh lễ Thế Tôn từ giã ra về.

 

Khi ấy, Vua Ác Sinh thống lĩnh bốn loại binh đóng gần thành Kiếp Tỷ La.

 

Cụ thọ Mục Kiền Liên đến gặp Thế Tôn, lạy sát chân Phật, ngồi qua một bên, bạch:

 

- Thế Tôn! Con nghe kẻ ngu si Ác Sinh thống lĩnh bốn loại binh đến tiêu diệt họ Thích. Thần lực của con có thể dời binh lính ấy đến nơi xa xôi khác. Cầu xin Thế Tôn từ bi cho phép, con lại dùng thần lực biến thành hóa ra sắt, dùng lưới sắt lớn che ở trên, làm cho Ác Sinh không thấy được thành Kiếp Ty La, làm sao tru diệt được.

 

Phật nói:

 

- Ta cũng biết thầy có sức thần thông của bậc giải thoát, nhưng do túc nghiệp Thích chủng đã gây, nay nghiệp thành thục phải chịu quả báo, như nước thác chảy không thể ngăn lại, nên phải tự nhận ... như trên. Thế Tôn nói kệ:

 

    Giả sử trăm ngàn kiếp

    Nghiệp đã làm không mất

    Khi nhân duyên gặp nhau

    Tự nhận lấy quả báo.

 

Phật bảo Đại Mục Liên:

 

- Nên biết thế gian nhận lấy quả báo đều do nghiệp lực, do nghiệp lực mà sinh, do nghiệp lực mà trụ. Tất cả chúng sinh đều do nghiệp thiện ác mà nhận lấy quả báo.

 

Không đuợc mãn nguyện, Mục Kiền Liên lễ Phật từ giã.

 

Tại thành Kiếp Tỷ La, nghe vua Ác Sinh đưa đại binh đến muốn tiêu diệt, các Thích chủng liền ra lệnh bốn loại binh trang bị vũ khí xuất thành cự địch, họ chẳng phòng bị quân xung phong của vua Ác Sinh. Đều là bậc kiến đế nên các Thích Chủng này không làm việc sát hại, chỉ dùng roi gậy, quơ trái vẫy phải để đánh, hoặc dùng cung bắn tên làm cho đứt dây đai dưới bụng voi ngựa, hoặc bắn làm rơi mão, giáp xuống đất, hoặc bắn hai bên tai, trúng vào dây cương đai giáp, chỉ làm té ngã không gây thương tích cho đầu thân, không giết chết.

 

Khi ấy, quân của Ác Sinh bị tán loạn, các Thích Chủng đắc thắng.

 

Sau khi tất cả binh tướng đều vào trong, đóng cửa, lên trên thành, họ ra lệnh:

 

- Chúng ta không được gây hại cho Ác Sinh và quân lính, ai vi phạm không phải thuộc họ Thích.

 

Ác Sinh thấy các Thích Chủng này đầy đủ nhân từdũng lực lớn, nên bảo Khổ Mẫu:

 

- Chúng ta hãy thu quân, tạm thời về nước.

 

Khổ Mẫu tâu:

 

- Đại vương chớ buồn, Thích chủng ở Kiếp Tỷ La đều là bậc kiến đế, đến nổi không giết cả ruồi muỗi, huống chi hại người. Nếu không tin, vua hãy nghiệm xem, trận lớn vừa rồi chẳng thương tổn ai cả. Họ lại ra lệnh, không được làm hại chúng sinh Ác Sinh và quân lính, ai vi phạm không phải là họ Thích.

 

Nghe tâu, chúng sinh Ác Sinh vẫn im lặng. Có một Thích chủng tên Thiểm Bà đang ở ngoài thành kiểm soát nông nghiệp, nghe vua Ác Sinh thống lĩnh bốn loại binh đến thành Kiếp Tỷ La tiêu diệt Thích chủng, nhưng không nghe lệnh truyền của các Thích chủng và cũng chưa kiến đế, nên dẫn quân đến đánh úp Ác Sinh. Hai bên giao chiến, quân Thiểm Bà thua nặng bị quân Ác Sinh tàn sát gần hết.

 

Bấy giờ, Ác Sinh bảo Khổ mẫu:

 

- Vừa rồi, ngươi nói các Thích chủng kiến đế đến ruồi muỗi cũng không giết, huống chi với người, nay một mình Thiểm Bà dẫn quân đến đánh, giết hại cũng nhiều, huống chi các Thích chủng khác ở Kiếp Tỷ La dẫn binh đến đánh thật khó đối phó, tạm thời trở về, muốn thắng chỉ có chết.

 

Khổ mẫu tâu:

 

- Đại vương, Thiểm Bà đến từ bên ngoài, trước đây chưa vào thành Kiếp Tỷ La, không biết quy chế, cho nên phát tâm hung bạo chiến đấu, trong ngoài họ không liên lạc nhau, xin ngài chớ lo.

 

Bấy giờ, Thích tử Thiểm Bà muốn vào thành, đến cửa thành kêu mở cửa. Người giữ cửa hỏi:

 

- Ông là ai?

 

- Đáp:

 

- Ta là Thiểm Bà ngươi hãy báo với các Thích chủng.

 

Trong thành sai sứ ra bảo:

 

- Từ đây về sau, ngươi không còn thuộc họ Thích Ca, hãy đi đâu tùy ý, vì ngươi đã vi phạm pháp lệnh trong thành, thế nên không được vào trong thành.

 

Thiểm Bà hỏi:

 

- Họ chế lệnh gì mà nói ta phạm tội?

 

Đáp:

 

- Chúng tôi ra lệnh không được sát hại binh lính của Ác Sinh, ai vi phạm thì không còn là Thích chủng.

 

Đáp:

 

- Tôi thật không nghe, xin dung thứ cho.

 

Khẩn cầu như vậy nhưng mọi người vẫn không đồng ý, Thiểm Bà bảo họ:

 

- Nếu không cho vào, xin đưa gia đình tôi ra.

 

Họ đưa gia đình Thiểm Bà ra khỏi thành.

 

Sau khi đoàn tụ gia đình, Thiểm Bà đến gặp Thế Tôn, lạy sát chân Phật, ngồi qua một bên bạch Phật:

 

- Các Thích chủngthành Kiếp Tỳ La đuổi con ra, xin Phật từ bi ban cho con vật kỷ niệm, để thường cúng dường kính thờ Như Lai.

 

Với từ bi, đức Phật đem tóc và móng của mình trao cho Thiểm Bà.

 

Với tâm trân trọng, Thiểm Bà nhận lấy tóc và móng của Như Lai rồi đi đến nước Bà Cụ Trà.

 

Nghe nói có vị giàu có khỏe mạnh thuộc họ Thích tên Thiểm Bà đến đây, muốn làm chủ, nhân dân ở đó bàn nhau:

 

- Chúng ta hãy cùng nhau thương nghị nên theo ông ta hay không?

 

Dân trong nước đều tập trung đến dưới núi để bàn tính việc này. Khi ấy, để tùy tùng tại một nơi khuất, tự mình giả làm sứ giả mang thư, dấu đao bén dưới nách, đến chỗ họ tập họp, Thiểm Bà nói: - Các bạn nên biết, Thích tử Thiểm Bà có thế lực lớn sức mạnh khó chống lại, sai tôi đem thư đến cho quý vị.

 

Hỏi:

 

- Để làm gì?

 

Đáp:

 

- Ông ta muốn làm vua thống lĩnh quý vị. Hãy ngồi vào để cùng đọc thư.

 

Mọi người nói:

 

- Nơi đây không có vật để ngồi vậy ngồi vào đâu?

 

Sứ giả liền rút đao chặt tảng đá thành từng miếng để ngồi và mời mọi người cùng ngồi. Thấy vậy, mọi người đều thán phục là kỳ lạ, hỏi:

 

- Bậc trượng phu như bạn, ông ấy có bao nhiêu người?

 

Đáp:

 

- Tôi là người đưa thư có gì đáng nói, có những người khác giỏi gấp bội tôi.

 

Nghe như vậy, mọi người rất kinh sợ, bảo nhau:

 

- Sứ giả còn như vậy, huống chi Thiểm Bà, hơn hết là lập ông ta làm vua.

 

Sau khi đọc thư, họ viết thư báo lại và nói với sứ giả:

 

- Lành thay đại vương! Chúng tôi khâm phục phong độ, rất mong ngài giáng lâm sớm.

 

Sau khi từ giã, về lại chổ cũ, Thiểm Bà trang sức lại thân quyến, chỉnh đốn tùy tùng đi vào nước Bà Cụ Trà. Già trẻ mọi người đều vui mừng hết lòng phục vụ các nhu cầu, chọn ngày lành đưa lên làm vua.

 

Từ xa, các nước đều nghe trong nước Bà Cụ Trà có Thích chủng tên Thiểm Bà lên làm vua, lập hiệu nước là Thiểm Bà quốc.

 

Sau khi lên ngôi, Thiểm Bà xây một tháp lớn, an trí tóc và móng của Như Lai để cúng dường, đặt tên là tháp Thiểm Bà.

 

Trước đây, người vợ không tin Phật, hạ lệnh trong nước lập miếu thần, thờ cúng theo tục mãi đến nay.

 

CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ

TỲ-NẠI-DA TẠP SỰ

 

Quyển thứ tám hết.

 

--- o0o ---

Quyển thứ chín

 

--- ooOoo ---

 

(Tiếp theo nhiếp tụng bốn trong biệt môn thứ hai).

 

Bấy giờ, Ác Sinh bảo Khổ Mẫu:

 

- Thật khó chống lại các Thích chủng dũng mãnhthành Kiếp Tỳ La, họ đóng cửa thành và phòng thủ ở trên, vậy chúng ta làm sao sát hại họ được, thôi hãy lui binh.

 

Khổ Mẫu đáp:

 

- Đối với các thành lớn, dùng phương pháp tấn công thì phá tan được. Thần từng nghe các vị tiên xưa nói: Có năm việc quyết định thắng họ. Năm việc ấy là:

 

    Giao hảo, ngầm hối lộ

    Lừa gạt, dùng kế độc

    Sau đó, dùng binh lực

    Là hành động người trí.

 

Theo mưu lược này, đầu tiên dùng những phương pháp để lừa gạt, sai sứ mang lệnh vua đến nói với họ:

 

- Đối với ngài, ta rất thương mến, không có ác ý, nhưng có việc nhỏ cần phải vào thành, mong ngài mở cửa cho phép vào chốc lát rồi lui ra ngay không dám ở lâu.

 

Theo kế này, sau khi sứ giả thi hành, những người trong thành cùng nhau thương nghị:

 

- Nên cho họ vào hay không? Có người nói cho vào, có người không cho, có người nói nên tập trung lại rút thẻ, bên nào nhiều thẻ nghe theo bên ấy. Theo ý kiến ấy,mọi người cùng nhau rút thẻ.

 

Khi ấy, sau khi suy nghĩ: "Ta thường theo dõi Sa-môn Kiều Đáp Ma tìm sự sơ suất của ông ấy nhưng không được, nay chính là lúc ta nên hại quyến thuộc của ông ta". Ma vương liền biến thành một Thích tử già ngồi trên ghế cao bắt thẻ trước. Thấy ông ta bắt thẻ, đến lượt những người khác, họ đều nói:

 

- Bậc kỳ túc đã nhận, tại sao ta không lấy?

 

Bấy giờ, trong hội có nhiều người nhận thẻ. Thấy bên nhận thẻ nhiều, nên họï mở cửa thành cho quân lính vào. Vua Ác Sinh ra lệnh:

 

- Ta đã vứt bỏ những tên họ Thích, hãy tùy ý chém giết.

 

Nghe như vậy, tướng sĩ xua bốn loại binh, cờ trống vang trời, tiếng reo dậy đất, chém giết khắp nơi, không chút thương xót. Thấy sự việc này, rất thương xót cho thân quyến, mang đầu tóc rối tung, Thích tử Đại Danh vội vàng chạy đến gặp Ác Sinh thưa:

 

- Xin đại vương ban cho tôi ước nguyện.

 

Vua hỏi:

 

- Cần việc gì?

 

Thưa:

 

- Xin ngài cho các Thích chủng được bình an!

 

Vua nói:

 

- Ta không tha các Thích chủng khác được, nhưng gia quyến của ngươi được tùy ý ra đi.

 

Đáp:

 

- Tôi sẽ lặn xuống đáy hồ, trong lúc tôi chưa nổi lên xin cho quyến thuộc tôi được chạy đi.

 

Nghe như vậy, vua nhìn quần thần. Họ tâu vua:

 

- Đại Danh này là bạn thân của tiên vương, nên cho hắn được toại nguyện.

 

Vua phán:

 

- Nếu vậy, thả họ trong một lúc.

 

Được nhà vua cho phép, với tâm ý đau buồn thương xót thân quyến, Đại Danh vội vàng nhảy vào hồ, lặn xuống đáy nước, rồi lấy tóc mình cột vào rễ cây nên chết ở đó. Khi ấy, những Thích chủng không cộng nghiệp trong thời quá khứ, chạy ra khỏi thành, hoặc đến nước Mạt La, hoặc đến nư?c Nê Ba La, hoặc đến các tụ lạc thành phố khác. Những người cộng nghiệp trong thời quá khứ, chạy ra cửa Đông lại vào cửa Nam, chạy ra cửa Nam chạy vào cửa Tây, chạy ra cửa Tây chạy vào cửa Bắc, chạy ra cửa Bắc chạy vào cửa Đông.

 

Thấy vậy, quần thần tâu vua:

 

- Các Thích chủng đang tự đốt mình. Vì sao biết như vậy? Những người ra khỏi thành đều chạy vào lại. Sau khi hỏi:

 

- Hãy xem vì sao Đại Danh lặn lâu vậy, nhà vua sai người xem xét. Thấy Đại Danh đã chết, họ tâu vua. Biết ông ta đã chết, càng thêm phẫn nộ, vua ra lệnh đại thần:

 

- Hãy làm tòa cao, ta sẽ lên tòa, để chính mắt thấy, nếu không thấy máu người tuôn chảy tràn ngập khắp các nẻo đường, thì không bao giờ rời khỏi tòa này.

 

Sau đó, nhà vua lên tòa. Khi những người mạnh mẽ bị giết, máu cũng không chảy nhiều. Quần thần bàn nhau:

 

- Quý vị nên biết, nay vua Ác Sinh gây tội lỗi lớn, tự muốn thấy máu chảy lan tràn, làm sao có được như vậy, hãy lấy khoáng chất đỏ tía nấu ra màu đỏ, rót đầy cả ngàn bình, đổ khắp các nẻo đường, xem nó chảy không khác gì máu cả.

 

Sau khi làm theo kế này, họ tâu lên:

 

- Máu chảy đến!

 

Trông thấy nước này cho là máu, Ác Sinh suy nghĩ: "Ta đã nhìn thỏa mãn, vậy hãy trở về".

 

Trong trận này, kẻ ngu Ác Sinh giết oan bảy vạn bảy ngàn Thích chủng. Trong số, có nhiều vị đã kiến đế. Sau khi giết hại các vị hiền thiện như thế xong, phe Ác Sinh dẫn năm trăm đồng nam và năm trăm đồng nữ Thích chủng đến một khu vườn là trú xứ của ngoại đạo.

 

Khổ Mẫu tâu:

 

- 1000 tên này đều là oán gia, tại sao không giết hết đi?

 

Vua nói:

 

- Nên giết thế nào?

 

Tâu:

 

- Sai bầy voi giày họ.

 

Khi ấy, trong năm trăm Thích chủng có người rất khỏe mạnh, đánh voi ngã và dùng tay xô ra. Thấy vậy, Khổ Mẫu tâu vua:

 

- Đại vương thấy những người mạnh khỏe này không?

 

Vua đáp:

 

- Ta thấy!

 

Tâu:

 

- Nếu thả ra, bọn này sẽ gây bất lợi cho ngài.

 

Vua nói:

 

- Có cách gì giết họ được?

 

Đáp:

 

- Đào hố chôn sống cho ló đầu lên, dùng sắt đóng cho tan nát.

 

Khi ấy, có hai đồng tử chạy đến chỗ Phật. Thế Tôn muốn làm cho mọi người biết nghiệp báo thật có, nên dùng thần lực hóa bát lớn lên và để họ núp vào, nhưng vẫn bị chín rục trong bát.

 

Khi hai Thích chủng bị chết, Phật rất đau đầu, bảo A Nan:

 

- Hãy múc bát nước đầy, đem đến cho ta.

 

Khi A Nan dâng bát nước, có hai ba giọt mồ hôi trên cổ Đức Thế Tôn nhỏ vào bát nước, làm cho bốc khói phát tiếng kêu như lấy miếng sắt nóng bỏ vào nước.

 

Bấy giờ, sau khi sai một người:

 

- Ngươi hãy ở lại đây, nếu Phật có nói gì về ta, hãy mau đến báo lại, vua Ác Sinh đem năm trăm đồng nữ về nước.

 

Thấy sự việc như vậy, các Bí-sô đều có thắc mắc nên bạch Phật:

 

- Đại đức! vì nghiệp gì mà Ngài đau đầu? Các Thích chủngthành Kiếp Tỷ La đã tạo nghiệp gì, nay tuy không phạm tội mà bị kẻ ngu Ác Sinh tiêu diệt?

 

Thế Tôn bảo A Nan Đà:

 

- Thầy hãy đi gọi các Bí-sô tập trung tại vườn ngoại đạo, ta sẽ nói về nhân duyên túc nghiệp về việc kẻ ngu si chúng sinh Ác Sinh tàn sát các Thích chủng.

 

Vâng lệnh Phật, Tôn giả đi thưa với chúng tăng.

 

Bấy giờ, Thế Tôn cùng các Bí-sô đi đến vườn ấy. Giữa đường, có Bà-la-môn trông thấy Thế Tôn, nói:

 

- Này Kiều Đáp Ma, kẻ ngu si Ác Sinh tạo rất nhiều nghiệp ác, đang giết oan nhiều Thích chủng vô tội.

 

Phật bảo Bà-la-môn:

 

- Đúng vậy! Đúng vậy! Ngu si Ác Sinh tạo ra vô lượng nghiệp ác nặng nề, Thích chủng vô tội bị tàn sát oan uổng.

 

Đến vườn kia, Phật thấy những đồng nam đồng nữ bị sắt đóng còn đang sống thoi thóp. Khi thấy Phật, họ đều gào khóc.

 

Sau khi đứng lại một bên, trải tọa cụ, ngồi xuống, Thế Tôn bảo các Bí-sô:

 

- Các Thích chủngthành Kiếp Tỷ La đã ba lần bị người khác sát hại, kêu khóc vang trời. Quá khứ, là những người đánh cá giết hại thủy tộc, lại giết hại nhiều người trong làng xóm, hiện nay họ đang bị Ác Sinh giết hại, còn chút hơi tàn kêu khóc vang dậy không khác ngày xưa. Này các Bí-sô! Có từng nghe các thợ săn đồ tể, nuôi sống bằng nghiệp này mà có voi ngựa xa bộ uy nghiêm mạnh mẽ không?

 

- Bạch Thế Tôn! Chưa từng thấy sự việc như vậy.

 

Phật dạy:

 

- Lành thay Bí-sô! Ta cũng chưa từng nghe thấy sự việc, bọn thợ săn mà có binh lính hùng mạnh như vậy. Vì sao? Do bọn đồ tể có tội ác vì tâm luôn tìm cầu sinh mạng thú vật. Ai gây nghiệp ác này, không thể có được quân đội tượng mã xa bộ hùng mạnh, tài sản phong phú. Vì sao? Khi các loại cầm thú như dê v.v ... bị giết, dùng tâm ác độc nhìn người giết, do đó họ không có được tượng mã xa bộ hùng mạnh và nhiều tài sản. Này các Bí-sô! Khi những kẻ bị súc sinh nhìn bằng mắt ác độc còn làm cho họ không có bốn loại binh và nhiều tài sản, huống chi Ác Sinh quá ngu si giết hại các vị hữu học đầy đủ uy đức trì giới thanh tịnh, mà phát triển được tượng mã xa bộ tài sản, và được an ổn không bị tiêu diệt, thì không có việc này. Các thầy nên biết! Như rồng độc nhìn đến đâu thì nơi ấy bị tiêu diệt, thành Kiều Tát La này cũng vậy, kẻ ngu Ác Sinh cùng với Khổ Mẫu bị lửa đốt cháy kêu khóc vang trời, bị đọa vào ngục Vô gián khổ não vô cùng. Thế nên, các thầy nên biết! Đối với cây khô còn không nên có tâm ác, huống chi với các loại chúng sinh khác.

 

Thấy sự việc này, các Bí-sô đều nghi ngờ, bạch Thế Tôn:

 

- Năm trăm Thích chủng không phạm lỗi đã từng làm nghiệp gì và do nghiệp lực ấy nên bị kẻ ngu Ác Sinh giết oan? Lại do nghiệp gì, khi họ bị sát hại, Phật bị đau đầu?

 

Phật bảo các Bí-sô:

 

- Các thầy lắng nghe về nghiệp của các Thích chủng và Ta đã làm. Nghiệp đã tạo kia khi hội đủ nhân duyên làm cho chín mùi, như nước cuồng lưu không thể ngăn cho cạn, không ai chịu thay được, v.v... cho đến quả báo tự mình phải chịu.

 

Này các Bí-sô, thời quá khứ, bên bờ sông kia có năm trăm ngư dân sống ở đó. Có hai con cá lớn từ biển lội vào sông, ngoi lên mặt nước. Thấy hai cá này, ngư dân rất vui mừng, thả lưới lớn và bắt được chúng. Thấy chúng quá lớn, họ bàn nhau:

 

- Giờ phải làm sao, cá to quá, nếu giết hết thì thịt chúng sẽ bị ương rã vì dùng không hết.

 

Có người bàn:

 

- Giết một con và cột một con dưới nước. Hoặc bàn:

 

- Cả hai đều lớn, nếu giết một con thì thịt nó cũng bị ương rã vậy nên cột vào trụ dưới nước, đừng cho chết, khi cần cắt lấy thịt sống để ăn.

 

Tất cả đều đồng ý rồi cùng nhau chia cắt thịt. Bị đau đớn khổ sở, cá kêu rống vang trời.

 

Bấy giờ, có một đồng tử trong đám ngư dân, thấy vậy nên thích thú. Hai con cá lớn suy nghĩ: "Ta thật bất hạnh tự dưng bị đau khổ, trong đời tương lai họ sinh đến đâu ta sinh đến đấy. Tuy họ vô tội, ta cũng sát hại làm cho đau khổ ".

 

Này các Bí-sô! Đừng suy nghĩ khác, hai con cá ấy nay là Ác Sinh và Khổ Mẫu, năm trăm ngư dân nay là năm trăm Thích tử. Vì năm trăm ngư dân làm cho hai con cá bị đau khổ kịch liệt nên nay bị Ác Sinh và Khổ Mẫu chôn sống dùng sắt đóng lên làm cho Thích chủng đau khổ vô cùng. Các Thích chủng khác chính là những người trong lúc ấy vui vẻ theo. Đồng tử trong số ngư dân ấy, nay chính là Ta, vì thấy giết cá, sinh tâm hoan hỷ nên tạo thành nghiệp. Do nghiệp ấy, tuy đã chứng đắc Vô thượng Bồ đề nhưng Ta vẫn còn bị đau đầu. Nếu Ta không có được phước tụ như vầy, với vô biên công đức, thì cũng bị tàn sát như những người kia.

 

Lại nữa, này các Bí-sô! Hãy lắng nghe về nghiệp của các Thích chủng thành Kiếp Tỷ La đã gây trong thời quá khứ. Có năm trăm tên giặc đến thôn nọ cướp đoạt tài vật. Có hai trưởng giả đang ở trên lầu bị giặc gọi xuống nhưng không tuân lệnh. Bọn giặc lại bảo:

 

- Nếu không xuống, làm cho ngươi chết hết.

 

Trưởng giả đáp:

 

- Ta thà chết chứ không xuống.

 

Bọn giặc liền chất củi phóng hỏa thiêu lầu. Lửa cháy bùng lên, thiêu đốt rất đau khổ, Trưởng giả suy nghĩ: "Ta không có tội gì mà bị khổ thế này, trong đời tương lai ngươi sinh về đâu, ta cũng sinh đến đó, làm cho ngươi bị khổ này ".

 

Này các Bí-sô! Chớ nghĩ gì khác, hai Trưởng giả kia nay là Ác Sinh và Khổ Mẫu, năm trăm tên giặc nay là năm trăm Thích chủng. Vì bọn giặc giết hai Trưởng giả, nên nay hai người này giết lại bọn họ. Thế nên, này các Bí-sô! Gây nghiệp đen bị quả báo đen, làm nghiệp trắng được quả báo trắng, tạo nghiệp tạp bị quả báo tạp. Vì vậy, các thầy nên từ bỏ hai nghiệp đen và tạp, cần tu tập nghiệp trắng, nên học như vậy.

 

Giết Thích chủng xong, về đến thành Thất La Phiệt, vua Ác Sinh sắp đi vào. Trên lầu cao, thái tử Thệ Đa đang cùng các thể nữ ca tấu âm nhạc, hưởng thụ năm dục. Nghe như vậy, Ác Sinh hỏi là ai, quần thần đáp:

 

- Thái tử Thệ Đa.

 

Vua phán:

 

- Hãy gọi đến đây.

 

Thái tử vâng lệnh đi đến.

 

Vua trách:

 

- Ta đi dẹp kẻ thù vô cùng mệt nhọc, tại sao ở nhà ngươi hưởng dục lạc?

 

Thái tử đáp:

 

- Đại vương! Thần không rõ, vậy kẻ thù là ai?

 

Vua nói:

 

- Các Thích tửthành Kiếp Tỷ La là kẻ thù của ta.

 

Thái tử nói:

 

- Nếu Thích tửkẻ thù vậy ai là bạn thân?

 

Nghe nói, vua rất giận dữ, bảûo các đại thần: - Đây cũng là phe đảng của Thích tử, hãy mau tru diệt.

 

Các quan liền giết thái tử. Sau khi qua đời, thái tử sinh vào cõi trời 33. Vì chưa hết quả báo thù thắngcõi người, nên thái tử vẫn hưởng thụ diệu lạccõi trời.

 

Bấy giờ, Thế Tôn muốn nói lại ý nghĩa này, nên nói tụng:

 

    Đời này hoan hỷ, đời sau hỷ

    Vì làm việc phước, hai đời vui

    Tự biết vui này do nghiệp trước

    Lại được chuyển sinh vào thiện xứ.

 

    Đời này an lạc, đời sau lạc

    Vì làm việc phước, hai đời lạc

    Tự biết lạc này do nghiệp trước

    Sinh đến nơi khác cũng an lạc.

 

Nghe Phật thuyết kệ xong, Cụ thọ A Nan Đà bạch Phật:

 

- Đại đức, con không hiểu ý nghĩa của bài kệ này.

 

Phật dạy:

 

- Này A Nan Đà, thái tử Thệ Đa không có lỗi lầm, bị kẻ ngu Ác Sinh giết oan, nhưng quả báo thù thắngnhân gian chưa hết, nên vẫn hưởng thọ diệu lạccõi trời. Vì vậy, Ta thuyết bài kệ ấy.

 

A Nan Đà im lặng hoan hỷ tín thọ.

 

Sau đó, cùng các thể nữ đang ở trong cung điện, vua Ác Sinh tự khoe khoang:

 

- Ta là bậc có sức dũng mãnh hiếm có, vô song, trong thế gian có ai bằng không?

 

Nghe nói xong, năm trăm thể nữ do Ác Sinh mang về đồng nói kệ:

 

    Họ là con nhà Phật

    Vì giữ gìn giới luật

    Nay ngài giết hết rồi

    Tự khoe để làm gì?

 

Nghe Thích ca nữ nói kệ xong, vua rất phẫn nộ, nói kệ bảo đại thần:

 

    Giết rồng, giữ long nữ

    Sinh sân độc với ta

    Hãy mau chặt tay chân

    Để mau theo thân tộc.

 

Các đại thần dẫn năm trăm Thích-nữ đến bên bờ hồ Ba Thát La, chặt tay chân của họ. Vì vậy, hồ này tên là hồ Chặt Tay Chân. Câu ở đầu các kinh: "Phật ở bên bờ hồ Chặt Tay Chân, chính do việc này " . Bị chặt tay chân, quá đau khổ không thể chịu nổi, năm trăm Thích nữ suy nghĩ: "Chúng ta đang bị đau đớn thống khổ không chịu nổi, Thế Tôn đại từ lẽ nào không thương xót ".

 

Thường pháp của chư Phật là không việc gì không biết. Khi ấy, Thế Tôn với tâm đại bi đi đến chỗ ấy, thấy các Thích nữ đang ngồi lỏa hình.

 

Thấy vậy, Thế Tôn khởi lên trí Thế gian. Theo thường pháp của chư Phật là khi khởi Tâm thế tục, cho đến côn trùng cũng biết ý Phật. Nếu khởi tâm xuất thế, cho đến Duyên giác Thanh văn cũng không biết ý Phật, huống chi chúng sinh khác mà có thể biết được. Phật suy nghĩ: "Lành thay! Nếu được thiên nữ Xá Chi đem y phục và nước đến đây thì thật thích hợp ". Phật vừa suy nghĩ, thiên nữ Xá Chi liền biết ý Phật, nên suy nghĩ: "Vì sao Thế Tôn khởi thế gian niệm, theo ta biết Thế Tôn muốn tuyên thuyết diêäu pháp cho năm trăm Thích nữ nên cần y phục và nước ".

 

Sau khi suy nghĩ, thiên nữ cầm năm trăm thiên y, đến ao Vô Nhiệt dùng bình múc đầy nước đem đến chỗ Ph?t, lạy sát chân Ngài, bạch:

 

- Đại đức! Chúng con đem đến năm trăm thiên ynước thơm vi diệu.

 

Phật dạy:

 

- Ngươi hãy đến an ủi các Thích ca nữ, cho họ tắm rửa và mặc y phục.

 

Xá Chi lần lượt làm theo lời Phật dạy. Khi ấy, đức Như Lai dùng sức thần thông làm cho năm trăm Thích nữ không còn đau khổ nữa và dạy:

 

- Này các thiện nữ nhân! Tự mình gây nghiệp nay đã thành thục, phải tự chịu lấy, không ai thay thế được.

 

Dạy xong, đức Phật đi đến nơi khác. Sau khi phát tâm tịnh tín với Thế Tôn, các Thích nữ qua đời, sinh lên trời Tứ thiên vương. Khi nam hay nữ vừa sinh đến thiên giới đều có ba ý nghĩ: "Ta chết từ chỗ nào, nay sinh đến nơi nào, do đã làm nghiệp gì? " Họ nhớ lại mình đã chết từ cõi người, nay sinh lên cung trời Tứ thiên vương, vì nhờ sinh tâm rất thanh tịnh kính trọng Thế Tôn.

 

Năm trăm thiên nữ suy nghĩ nếu chúng ta không đến lễ bái Thế Tôn thì bất kính và không đúng, nên trang sức anh lạc xinh đẹp sáng chói, dùng thiên y đựng các loại hoa Ôn bát la, Bát đầu ma, Câu vật đầu, Phân đà lợi, Mạn đàn la. Vào lúc nữa đêm, với hào quang rực rỡ chiếu sáng cả rừng Thệ Đa, năm trăm thiên nữ đến gặp đức Phật, cúng dường thiên hoa, lạy sát chân Ngài rồi ngồi qua một bên lắng nghe diệu pháp. Thế Tôn tùy theo căn cơ sở thích của các thiên nữ mà thuyết diệu pháp, làm cho họ được ngộ lý Bốn thánh đế.

 

Bấy giờ, các thiên nữ dùng chày trí Kim cương phá tan 25 núi ngã kiến, chứng quả Dự Lưu. Sau khi kiến đế, ba lần bạch Thế Tôn:

 

- Đại đức! Nhờ Phật Thế Tôn làm cho con chứng đắc được quả giải thoát, không phải do cha mẹ, quốc vương, chư thiên, Sa-môn, Bà-la-môn, bạn bè, thân quyến làm cho. Con được gặp Thế Tôn là bậc thiện tri thức giúp đỡ làm cho thoát khỏi địa ngục, bàng sinh, ngạ quỷ, ở yên nơi cõi trời thắng diệu, sẽ hết sinh tử đến đường Niết bàn, khô cạn biển máu vượt qua núi xương, dùng chày trí Kim cương đập nát ngã kiến đã tích tụ từ vô thủy, chứng quả Dự Lưu. Từ nay cho đến trọn đời, con xin quy y Phật, Pháp, Tăng bảo, thọ trì năm học xứ không sát sinh cho đến không uống rượu. Cầu xin Thế Tôn chứng tri cho con là Ô Ba Tư Ca.

 

Ngay trước Đức Phật, họ chắp tay cung kính nói kệ:

 

    Chúng con nhờ Phật lực

    Đóng hẳn ba đường ác.

    Sinh cõi trời thắng diệu

    Hướng mãi đường Niết bàn

 

    Con nhờ vào Thế Tôn

    Được con mắt thanh tịnh

    Kiến đạo thấy chân lý

    Sẽ thoát khỏi biển khổ

 

    Vượt qua cõi trời người

    Viễn ly khổ sinh tử

    Biển hữu khó gặp Phật

    Con gặp nên được thoát

 

    Con trang nghiêm thân

    Tịnh tâm lạy chân Phật thể

    Nhiễu phải trừ thù oán

    Xin trở lại thiên cung.

 

Sau khi trình bày ý nguyện của mình, như người đi buôn được nhi?u tài lợi, như nông phu thu hoạch nhiều nông sản, như người dũng mãnh chiến thắng kẻ giặc thù, như người bệnh nặng được khỏe mạnh hẳn, năm trăm thiên nữ hoan hỷ từ giã đức Phật trở về thiên cung.

 

Nghe nói như vậy, các Bí-sô đều nghi ngờ, thưa với Thế Tôn:

 

- Năm trăm Thích nữ này từng tạo nghiệp gì và do sức nghiệp ấy làm cho đời này tuy không phạm tội lỗi mà bị kẻ ngu Ác Sinh chặt oan tay chân, lại nhân nghiệp gì được sinh lên trời, nghe chánh pháp của Phật chứng chân đế lý?

 

Phật bảo các Bí-sô:

 

- Nghiệp của các Thích nữ kia đã làm, khi thành thục, nhân duyên gặp nhau ... như nói ở trên, đều tự chịu lấy quả báo của mình. Này các Bí-sô! Thời quá khứ trong Hiền kiếp này, khi loài người thọ hai vạn tuổi, có đức Phật ra đời hiệu là Ca Nhiếp Ba Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Năm trăm Thích nữ này xuất gia trong giáo pháp đức Phật ấy, làm Bí-sô ni thường đến mắng chưởi đòi chặt tay chặt chân các vị Bí-sô ni hữu học, vô học. Do nghiệp lực này, họ bị đọa trong địa ngục chịu thiêu đốt khổ não trong vô lượng năm, vì dư nghiệp này nên thường bị chặt tay chân trong năm trăm đời, cho đến đời này bị khổ sở như vậy. Nhờ phát tâm thanh tịnh đối với Ta, nên họ được sinh lên trời. Lại do ngày xưa làm Bí-sô ni có thọ trì đọc tụng chánh pháp, nên được gặp Ta, nghe pháp chứng đắc kiến đế. Này các Bí-sô! Việc này đều do nghiệp ... như nói ở trên.

 

Bấy giờ, nghe Phật dự báo, người mà vua Ác Sinh để lại, trở về gặp vua. Hỏi:

 

- Thế Tôn nói gì về ta?

 

Đáp:

 

- Đại vương, Như Lai nói như vầy: "Qua bảy ngày, nước Kiều Tát La sẽ bị phá diệt, Ác Sinh và Khổ Mẫu bị lửa thiêu đốt, đọa vào đại địa ngục Vô gián ".

 

Nghe nói như vậy, Ác Sinh rất phiền não, tay ôm trán. Thấy vậy, Khổ Mẫu hỏi:

 

- Vì sao đại vương ưu sầu?

 

Đáp:

 

- Này Khổ Mẫu! Làm sao ta không ưu sầu. Thế Tôn có dự báo vào bảy ngày sau ta cùng khanh bị lửa dữ thiêu đốt và đọa vào đại địa ngục Vô-gián.

 

Khổ Mẫu tâu:

 

- Đại vương! Như Bà-la-môn, khất sĩ vào nhà cầu xin. Khi không được cho vật gì, họ muốn làm cho nhà ấy bị trăm ngàn việc chẳng lành. Huống chi Sa-môn Kiều Đáp Mathân tộc bị đại vương giết hết, làm sao không nói lời oán hận nặng nề, tuỳ theo tâm ác mà trù rủa. Nếu vua sợ thì trong hồ nước ở vườn sau, làm một lầu đ?p và đến ở đó trong bảy ngày, qua thời gian đó mới trở vào thành.

 

Vua đồng ý và sai làm lầu rồi đưa các cung nhân cùng Khổ Mẫu lên ở trên lầu. Sau một đêm, Khổ Mẫu tâu:

 

- Đại vương! Đã qua một đêm chỉ còn sáu đêm, sẽ cùng nhau vào thành.

 

Như vậy hai, ba cho đến ngày thứ bảy, Khổ Mẫu tâu:

 

- Hôm nay an ổn, hãy cùng vào thành.

 

Khi ấy, bỗng nhiên mây nổi che bốn phía. Thông thường người nữ ưa ngắm nữ trang, nên sau khi bảo nhau:

 

- Hãy trang sức cho xong để vào trong thành.

 

Bọn cung nhân lo sửa soạn y phục. Có một cung nữ lấy ngọc Nhật quang để trên cái gối, rồi lo trang điểm. Bấy giờ, mây tan trời sáng, ánh sáng mặt trời hiện ra chiếu vào viên ngọc, hội tụ phát ra lửa đốt cái gối, lửa ngọn phụt lên đốt cháy ngôi lầu. Bọn cung nhân bỏ chạy tứ tản. Bị lửa đốt, Ác Sinh và Khổ Mẫu muốn bỏ chạy, nhưng có phi nhân đóng kín cửa nên họ không thoát ra được. Bấy giờ, bị lửa thiêu đốt đau đớn thấu tâm can, Ác Sinh bảo Khổ Mẫu:

 

- Tai hại thay! Ta đang bị đau khổ vì lửa đốt!

 

Khổ mẫu nói:

 

- Đại vương! Thần cũng vậy.

 

Thân thể cả hai bị lửa hừng hực đốt cháy chín rã nên kêu gào dữ dội, liền đọa vào địa ngục đại Vô gián, chịu các khổ não.

 

Thế Tôn nói kệ:

 

    Đời này bị đốt, đời sau đốt

    Tạo tội, hai đời đều bị đốt

    Tự biết bị đốt do nghiệp ác

    Sau đó bị đọa vào đường ác

 

    Đời này chịu khổ, đời sau khổ

    Người gây ra tội hai đời khổ

    Tự biết khổ này do nghiệp ác

    Lại còn chịu khổ nơi cõi khác.

 

Nghe Phật nói kệ xong, Cụ thọ A Nan Đà bạch Phật:

 

- Đại đức! Con không hiểu ý nghĩa bài kệ này.

 

Phật dạy:

 

- Này A Nan Đà! Kẻ ngu Ác Sinh cùng với Khổ Mẫu bị lửa thiêu đốt đọa vào đại địa ngục A tỳ. Nhân sự việc đó, Ta thuyết kệ này với ý ấy ... rộng như nói trên.

 

Sau khi Ác Sinh tru diệt họ Thích, trong thành ấy còn để lại những vật trang sức như anh lạc, vòng nhẫn ... Thấy những vật ấy, các Thích nữ khóc lóc, sầu não. Sau khi suy nghĩ: "Khi những người chủ vật này còn sống rất kính trọng chúng Tăng, vậy nên đem chúng làm phước bằng cách dâng lên chư Tăng ". Họ dâng các vật ấy đến chư Tăng. Được cúng các vật ấy, Lục chúng đem ra trang sức thân thể, đi vào thành Kiếp Tỷ La thứ lớp khất thực. Trông thấy những vật trang sức này, các Thích nữ lại khóc lóc như trước, thưa:

 

- Thánh giả! Chúng con không muốn nhìn lại những vật này nên dâng đến các vị để không còn ưu phiền. Nay, các vị lại làm cho chúng con nhớ lại chuyện cũ.

 

Lục chúng im lặng. Các Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật suy nghĩ: "Vì các Bí-sô trang sức anh lạc, vòng xuyến, mang dây bằng vàng nên có lỗi như vậy ". Ngài chế định:

 

- Từ nay về sau, các Bí-sô không được trang sức bằng những vật nhiều màu. Ai vi phạm bị tội vượt pháp.

 

 

 

Nhiếp tụng năm trong biệt môn thứ hai:

 

    Xuất gia hữu ngũ lợi

    Bất tróc tiền thọ học

    Đại chúng thuyết già đà

    Yên đồng thấu thính hứa.

 

* Duyên khởi tại thành Thất La Phiệt. Trong tụ lạc kia, có trưởng giả lấy vợ sống hạnh phúc. Sau đó chẳng bao lâu, gia tộc ly tan, tài sản không còn, nên ông ta suy nghĩ: "Ta đã lớn tuổi, không thể làm ra tiền tài để sử dụng, thân tộc của ta cũng không còn. Vậy ta hãy bỏ tục xuất gia ". Sau khi suy nghĩ, ông ta bảo vợ:

 

- Hiền thủ! Tôi đã già, không thể làm ra tiền tài, mà sản nghiệp cùng thân tộc không còn, nên muốn xuất gia.

 

Người vợ đáp:

 

- Tốt! Nhưng phải trở về thăm tôi.

 

-Được! Người chồng đáp.

 

Sau khi đến rừng Thệ Đa, gặp các Bí-sô, làm lễ sát hai chân, người chồng thưa:

 

- Thánh giả! Con cầu xin xuất gia.

 

Đáp:

 

- Hiền thủ! Đấy là việc tốt, ông sẽ được toại ý. Như Thế Tôn dạy: "Những người có trí thấy năm điều lợi nên ưa thích xuất gia. Năm điều ấy là:

 

    - Một, ta được tự lợi người khác không có; Vậy người trí nên cầu xuất gia.

    - Hai, tự biết ta là kẻ ti tiện bị người khác sai khiến, sau khi xuất gia được họ cung kính khen ngợi lễ bái ; Vậy người trí nên cầu xuất gia.

    - Ba, sẽ chứng đắc Niết bàn an ổn vô thượng ; Vậy người trí nên cầu xuất gia.

    - Bốn, qua đời ở đây sẽ sinh cõi trời ; Vậy người trí nên cầu xuất gia.

    - Năm, thường được chư Phật, chúng Thanh văn và các bậc thắng nhân khen ngợi ; Vậy người trí nên cầu xuất gia trong pháp luật toàn thiện ".

 

Ông phát tâm này, thật là tốt đẹp.

 

Các Bí-sô cho vị này xuất gia và thọ cận viên. Qua hai ba ngày, sau khi dạy bảo các pháp thức, họ bảo vị này:

 

- Hiền thủ! Nai không nuôi nai, thành Thất La Phạt rộng lớn là cảnh giới của Phật, nên đi khất thực để nuôi mạng sống.

 

Vào sáng sớm, mặc y ôm bát vào thành Thất La Phạt khất thực, gặp một phụ nữ giống vợ mình, nên vị ấy suy nghĩ: "Trước đây ta có hứa với vợ, sau khi được xuất gia sẽ về thăm viếng. Ta đã xuất gia, vậy hãy giữ lời hứa, chớ làm cho bà ấy buồn rầu ". Khất thực xong, về lại rừng Thệ Đa, sau đó vị ấy thưa với Ô Ba Đà Da:

 

- Trước đây con có hứa với vợ cũ là sau khi được xuất gia sẽ về thăm viếng. Xin thầy cho phép.

 

Vị thầy đáp:

 

- Ông đi tùy ý nhưng khéo hộ trì tâm mình.

 

Thưa:

 

- Xin vâng.

 

Sau khi từ giã, vị ấy đi dần về làng cũ. Vừa trông thấy, người vợ vội chạy ra trước đón rước, kêu to:

 

- Kính chào! Thánh tử mới về! Và muốn nắm y giữ bát.

 

Bí-sô nói:

 

- Hiền thủ muốn làm gì?

 

Đáp:

 

- Muốn đón lấy y bát.

 

Bí-sô nói:

 

- Đừng đụng vào y bát.

 

Hỏi:

 

- Vì sao vậy?

 

Đáp:

 

- Tôi phụng hành lời dạy của Ô Ba Đà Da là khéo hộ trì tâm ý.

 

Đáp:

 

- Thánh tử! Người hãy tự giữ tâm, tôi nào gây trở ngại gì! Bà ấy vẫn thu xếp y bát, trải tòa mời ngồi và lấy nước rửa chân.

 

Hỏi:

 

- Muốn làm gì?

 

Vợ đáp:

 

- Muốn rửa chân.

 

Nói:

 

- Đừng chạm vào chân tôi.

 

Hỏi:

 

- Vì sao?

 

Đáp:

 

- Tôi vâng lệnh của thầy bảo phải hộ trì tâm ý.

 

Vợ nói như trước và cứ rửa chân cho, rồi đem dầu đến muốn thoa. Bí-sô thấy vậy hỏi và vợ đáp muốn thoa chân. Bí-sô nói:

 

- Chớ thoa cho tôi.

 

Hỏi đáp như trước ... thầy tôi dạy phải hộ trì tâm.

 

Vợ nói:

 

- Thánh tử! Người hãy tự hộ trì tâm.

 

Bà ta lại dọn ăn và muốn ăn chung.

 

Hỏi:

 

- Làm gì vậy?

 

Đáp:

 

- Xa cách đã lâu, không ăn chung mâm, ý muốn ăn chung.

 

Bí-sô không đồng ý, hỏi đáp như trước. Bà ta lại trải tấm nệm, thưa:

 

- Thánh tử! Đi xa mệt nhọc, xin nghỉ ngơi một lúc.

 

Sau khi rửa chân, Bí-sô nằm nghỉ. Người vợ đến, muốn cùng nằm chung.

 

Bí-sô hỏi:

 

- Người muốn làm gì?

 

Đáp:

 

- Thánh tử! Đã lâu không nằm chung, nay muốn nằm chung.

 

Hỏi đáp như trước ... Bí-sô không cho, nhưng bà ấy vẫn đến ôm đại. Người nữ tiếp xúc thật độc hại. Khi tiếp xúc, tâm Bí-sô bị loạn động phát ra ý niệm xấu liền giao hợp. Sau khi sống chung nhiều ngày, Bí-sô bảo vợ:

 

- Tôi muốn trở về chùa.

 

Sau khi suy nghĩ, ông ấy tư thông với ta, người ngoài không thấy, ta nên làm cho mọi người biết việc ấy, chắc chắn các Bí-sô trục xuất và trở về lại với ta, người vợ thưa:

 

- Thánh tử chẳng nên đi không, hãy mang theo ít lương thực và bối xĩ (tiền thời đó).

 

Bí-sô nói:

 

- Tôi không được cầm các vật như vàng, bối xỉ ... làm sao mang đi.

 

Người vợ nói:

 

- Tôi sẽ tìm cách làm để không bị xúc chạm.

 

Sau khi đem các vật ấy treo trên tích trượng, bà ta nói:

 

- Hãy đem đi.

 

Bí-sô cầm tích trượng đi đến thành Thất La Phiệt. Thông thường, Lục chúng Bí-sô giữ cửa chứ chẳng chịu ở không. Đang kinh hành trước cửa, trông thấy Bí-sô ấy đến với đầu như chim cú, lông mi dài rũ xuống, sau khi suy nghĩ: "Đấy là Tôn giả nào đến đây, ta hãy đón tiếp ". Ô Ba Nan Đà đi ngược lại, kêu lên:

 

- Xin chào! Xin chào Tôn giả!

 

Bí-sô kia đáp:

 

- Xin kính lễ! Kính lễ A Dá Lợi Da.

 

Sau khi suy nghĩ: "Bí-sô này chắc là Bí-sô già cả ngu độn nên không biết Ô Ba Nan Đà, không rõ A Dá Lợi Da, ta hãy hỏi hắn từ đâu đến ". Ô Ba Nan Đà đến hỏi:

 

- Lão già từ đâu đến?

 

Đáp:

 

- A Dá Lợi Da! Con đi thăm vợ cũ về.

 

Ô Ba Nan Đà nói:

 

- Ông là người tốt nên còn giữ ân cũ, ai cũng khen ngợi người nhớ ân cũ. Thế Tôn cũng có nói: "Này các Bí-sô! Nên thường học cách báo ân, ân nhỏ còn báo huống chi ân lớn!" Ông còn nhớ ân cũ, vậy gặp vợ không?

 

Đáp:

 

- Con có gặp.

 

Hỏi:

 

- Bình an không?

 

Đáp:

 

- May mắn được che chở nên vẫn bình an.

 

Hỏi:

 

- Vật gì treo trên tích trượng của ông vậy?

 

Đáp:

 

- Đó là bối-xỉ của vợ cho để đổi lương thực đi đường.

 

Sau khi khen: - Lão già, ông thật có phúc đức, đi thăm vợ lại được lợi này nữa, Ô Ba Nan Đà suy nghĩ: "Xem hình dáng cử chỉ của hắn chắc có việc riêng, ta hãy ôn hòa tra hỏi hắn. Với bẩm tính chất phác, Ma Ha La kể hết ra những sự việc đã làm.

 

Ô Ba Nan Đà nói:

 

- Hãy đem những việc ông đã làm đến thưa cho Ô Ba Đà Da nghe, vị ấy tất vui mừng.

 

Đến gặp thầy, ông này kể lại tất cả. Nghe như vậy, vị thầy nói lại các Bí-sô về chuyện này. Bí-sô đem sự việc bạch Phật, Phật bảo các Bí-sô:

 

- Bí-sô già cả ngu độn này không biết khinh trọng, không cố ý phạm. Nếu ai chưa từng được nghe bốn pháp Ba La Thị Ca, cũng không phạm.

 

- Này các Bí-sô! Vì lý do này, sau khi truyền cận viên, phải thuyết giảng bốn pháp Ba La Thị Ca (cho người thọ). Nếu ai không thuyết bị tội vượt pháp.

 

CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ

TỲ-NẠI-DA TẠP SỰ

 

Quyển thứ chín hết.

 

--- o0o ---

Quyển thứ mười

 

--- ooOoo ---

 

(Tiếp theo tụng năm trong biệt môn hai).

 

* Duyên tại thành Thất La Phạt. Bí-sô tên Hoan Hỷ sống nơi tịch tịnh A Lan Nhã, thường thích an tọa tu tập thiền định nên vị ấy được mọi người khen là Hoan Hỷ trụ định. Một hôm, sắp nhập định, bị ma nữ đến mời hành dục, Hoan Hỷ không chấp nhận. Khi khác, sắp nhập định, ma nữ lại đến, ngồi trên đầu gối của Hoan Hỷ. Như vậy, phải biết cảnh giới của người nữ rất độc, tiếp xúc là hại người, nhiễm tâm đã sinh nên họ cùng hành dục.Sau khi hành dục, như bị mũi tên cắm vào ngực, tâm tư rất đau khổ, Hoan Hỷ suy nghĩ: "Tại sao ta ngu si phá hoại hạnh thanh tịnh, làm việc dâm ô thì phải hoàn tục". Vị này lại nghĩ: "Ta thật không có tâm che dấu vậy hãy đến thưa đầy đủ việc này với Thế Tôn". Nếu có quy chế còn được xuất gia, ta sẽ thực hành như pháp, nếu không được, sẽ hoàn tục. Tay phải ôm pháp-y, tay trái che phần xấu của thân, vị ấy buồn bã khóc lóc đến gặp Thế Tôn.

 

Khi ấy, đang thuyết giảng chánh pháp cho vô lượng trăm ngàn đại chúng vây quanh, trông thấy vị ấy đến, sau khi suy nghĩ: "Nếu Ta không chào trước: - Lành thay mới đến! Tất vị ấy trào máu nóng ra chết ngay". Thế Tôn bảo với Hoan Hỷ:

 

- Lành thay mới đến! Vì sao khóc lóc vậy?

 

Đáp:

 

- Đại đức Thế Tôn! Trước đây con là Hoan hỷ, nay không còn hoan hỷ nữa.

 

Phật hỏi:

 

- Thầy có lỗi gì mà nói như vậy?

 

Đáp:

 

- Thế Tôn! Con không xả học xứ, mà phá hủy phạm hạnh thanh tịnh, làm việc dâm dục. Tuy gây lỗi này nhưng con không có tâm che dấu chút nào cả.

 

Phật nói:

 

- Này Hoan Hỷ! Ông có thể thọ học xứ trọn đời không?

 

Đáp:

 

- Bạch Đại đức! Con có thể thọ trì.

 

Khi ấy, Thế Tôn bảo các Bí-sô:

 

- Các thầy nên biết, Bí-sô Hoan Hỷ tuy phạm tịnh giới nhưng không có tâm che dấu, chẳng phải Ba-la-thị-ca. Các thầy nên cho Hoan Hỷ thọ học xứ trọn đời. Nếu có trường hợp như vậy, cũng nên truyền cho họ thế này:

 

- Trải tòa, đánh kiền chùy thưa khắp chúng, khi tăng đã tập họp, bảo Bí-sô Hoan Hỷ làm lễ Tăng,sau đó ngồi xổm trước Thượng tọa chắp tay cầu xin như sau:

 

- Đại đức Tăng già lắng nghe. Con là Bí-sô Hoan Hỷ không xả học-xứ, hủy phạm hạnh thanh tịnh làm việc dâm dục, nhưng không có tâm ý che dấu. Con là Hoan Hỷ, nay theo Tăng cầu xin học xứ trọn đời, cầu xin thương xót cho.(lần thứ hai, thứ ba cũng cầu xin như vậy). Sau khi bảo Hoan Hỷ đứng nơi mắt thấy nhưng tai không nghe, Tăng già sai một Bí-sô tác yết ma:

 

- Đại đức Tăng lắng nghe, Bí-sô Hoan Hỷ không xả học xứ, hủy phạm hạnh thanh tịnh, hành dâm dục, nhưng không có tâm che dấu chút nào. Nay theo Tăng già cầu xin học xứ trọn đời. Nếu thời gian thích hợp với Tăng, Tăng đồng ý, nay Tăng cho Bí-sô Hoan Hỷ học xứ trọn đời. Đây là lời tác bạch. Thứ đến tác Yết ma:

 

- Đại đức Tăng già lắng nghe, Bí-sô Hoan Hỷ không xả học xứ, hủy phạm hạnh thanh tịnh, hành dâm dục, nhưng không có tâm che dấu chút nào. Bí-sô Hoan Hỷ theo cầu xin Tăng cho học xứ trọn đời. Nay Tăng cho Bí-sô Hoan Hỷ học xứ trọn đời. Các cụ thọ nào đồng ý cho Bí-sô Hoan Hỷ học xứ trọn đời thì im lặng. Vị nào không đồng ý thì nói ra.( lần thứ hai, thứ ba cũng nói như vậy). Tăng đã cho Bí-sô Hoan Hỷ học xứ trọn đời. Tăng đã đồng ýim lặng. Tôi xin ghi nhận như vậy.

 

Phật bảo các Bí-sô:

 

- Ta sẽ nói những việc mà người thọ học phải làm. Bí-sô thọ học đối với Bí-sô còn nguyên Bí-sô tánh, không được nhận sự cung kính lễ bái nghênh đón chắp tay; không được ngồi chung một tòa, phải ngồi chỗ thấp; không được kinh hành chung, nếu đi phải sau một bước; đi đến nhà trưởng giả Bà-la-môn không được cùng Bí-sô còn nguyên Bí-sô tánh làm bạn, nếu đi chung phải để họ đi trước; không được ngủ chung phòng; không được cho người khác xuất gia và thọ cận-viên; không nhận làm y chỉ cho người; không được nuôi Sa di; không được tác pháp Đơn-bạch Bạch-nhị Bạch-tứ yết-ma; không được sai làm người Bỉnh yết-ma; không được sai giáo giới Bí-sô ny; nếu có sai, đến đâu nếu thấy Bí-sô khác phá giới, phá hiến, phá uy nghi, phi chánh mạng, đều không được cử tội họ; cũng không được đưa ra những quy định; không được đồng trưởng tịnh và tùy-ý sự; hằng ngày phải dậy sớm, mở các cửa thu dọn đèn, quét dọn phòng chùa, dùng Tân-cù-ma trát láng tùy nơi, cũng trát sạch nơi nhà xí, múc nước, để đất lá không được thiếu sót; cấp nước cần dùng phải hợp lúc lạnh ấm; quét dọn cống rãnh nước cho sạch; đánh kiền chùy, trải tòa; chu tất các việc cắm hoa đốt hương cúng dường; nếu có khả năng tùy lúc tụng niệm tán thán công đức của Phật, nếu không làm được thì mời người khác; vào tháng nóng phải cầm quạt quạt các Bí-sô; khi muốn ngồi phải ngồi chỗ dưới Bí-sô trên Sadi; khi thọ thực phải làm tâm an ổn; khi ăn xong phải thu dọn chỗ ngồi; đem vật đựng thức ăn để lại chỗ cũ; quét dọn chỗ ăn; thường cáo tri cho chúng biết số ngày, thưa như sau:

 

- Đại đức Tăng lắng nghe, hôm nay là ngày đầu tháng, mỗi người trong chúng đều phải dụng tâmthí chủ tạo chùa, thiên thần hộ chùa, quốc vương, đại thần, sư tăng, cha mẹ, tín thí mười phương mà thuyết về diệu kệ trong kinh nói về phước thí, nếu không có khả năng thì thỉnh vị khác làm.

 

Cùng nhau phân phòng, các Bí-sô không phân cho người thọ học. Phật dạy:

 

- Nên phân cho họ.

 

Bí-sô không phân lợi dưỡng, Phật dạy:

 

- Nên phân cho họ.

 

Có Bí-sô thọ-học không tu thiện pháp, Phật dạy:

 

- Nên tu tập, nên tùy thuận làm theo những pháp phải hành này cho đến khi đoạn trừ hết các phiền não, không làm thì bị tội.

 

Sau khi các Bí-sô tuần tự làm theo lời Phật chế, Bí-sô Hoan Hỷ chí tâm ân cần siêng năng không lười biếng, liền đoạn trừ các phiền não trói buộc vào năm nẻo, chứng quả A-la-hán, đủ ba minh sáu thông tám giải thoát, biết rõ như thật:- Ta sinh đã hết, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không thọ đời sau; tâm không chướng ngại như tay vỗ hư không, như dao cắt bột hương, không còn thương ghét, xem vàng với đất bình đẳng không khác, đối với danh lợi không còn vướng mắc gì cả, Thích-Phạm chư Thiên đều cung kính. Sau khi chứng quả, Hoan Hỷ vẫn tuân theo pháp chế trước đây không dám vi phạm. Phật dạy:

 

- Không nên làm nữa, nên ngồi tùy theo thứ tự lớn nhỏ, được sống chung với người còn nguyên Bí-sô tính.

 

* Duyên tại thành Vương-xá. Sau khi xuất gia, Cụ thọ Tất Lân Đà Bà Ta thường bị bệnh.Vị đồng phạm hạnh đến hỏi thăm:

 

- Đại đức! Đi lại sinh hoạtan lạc thoải mái không?

 

Đáp:

 

- Cụ thọ! Tôi thường đau bệnh, làm sao an lạc.

 

Hỏi:

 

- Bệnh gì?

 

Đáp:

 

- Bị ho.

 

Hỏi:

 

- Đã uống thuốc gì?

 

Đáp:

 

- Trước đã từng nuốt khói thuốc cũng có giảm bớt.

 

Hỏi:

 

- Nay sao không dùng nữa?

 

Đáp:

 

- Phật chưa cho phép.

 

Bấy giờ, các Bí-sô đem việc này bạch Phật. Phật dạy:

 

- Người bệnh được phép nuốt khói thuốc để trị liệu.

 

Bí-sô không biết, để thuốc trên lửa, nhưng nuốt không được khói. Phật dạy:

 

- Có thể dùng hai cái tô chụp lại nhau, đáy trên xoi lỗ, bên trong để lửa đặt thuốc để nuốt ...

 

Nhưng họ vẫn chưa làm cho hoàn hảo. Phật dạy:

 

- Nên làm ống.

 

Họ làm ống trúc nhưng vẫn bị lỗi. Phật dạy:

 

- Không nên dùng trúc hãy làm bằng sắt.

 

Họ làm quá ngắn. Phật dạy:

 

- Đừng làm quá ngắn.

 

Họ làm quá dài. Phật dạy:

 

- Không nên làm quá dài, nên dài chừng 12 ngón tay, không được có mũi nhọn cũng không quá thô kệch, đặt lỗ trống của bát lên trên và dùng miệng nuốt khói.

 

Họ dùng xong vứt bừa bãi. Phật dạy:

 

- Không nên vứt tùy tiện, nên làm túi nhỏ để đựng.

 

Họ để túi dưới đất. Phật dạy:

 

- Không nên để dưới đất, sẽ hư, nên treo trên vòi voi, trên cọc, trên sào.

 

Ống đồng bị sét, Phật dạy:

 

- Nên dùng dầu thoa.

 

Sau đó, khi dùng phải lau rửa mệt nhọc, Phật dạy:

 

- Không nên rửa bằng nước, nên đốt trong lửa cho sạch.

 

 

 

Nhiếp tụng sáu trong biệt môn hai:

 

    Dược thang ưng tẩy dục

    Quán tỷ khai đồng trản

    Thừa dư lão bệnh thính

    Tu tri tiện lợi sự.

 

* Duyên tại thành Thất La Phạt. Bí-sô nọ bị bệnh, đến gặp thầy thuốc, nói:

 

- Hiền thủ! Tôi bị bệnh mong ngài chữa trị.

 

Đáp:

 

- Thánh giả, hãy tắm bằng nước nóng có thuốc thì có thể bình phục.

 

Đáp:

 

- Phật chưa cho phép.

 

Thầy thuốc nói:

 

- Thánh giả! Thế Tôn đại bi tất cho phép việc này.

 

Các Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Nếu y sĩ bảo tắm nước nóng thì tùy ý được làm.

 

Phật đã cho phép tắm bằng nước nóng làm thuốc, các Bí-sô không biết thuốc gì là nước nóng nên trở lại thưa với thầy thuốc:

 

- Phật đã cho phép tôi tắm bằng nước nóng có thuốc, vậy không biết dùng thuốc gì?

 

Y sĩ đáp:

 

- Thánh giả! Tôi cũng không biết loại thuốc gì, từng đọc sách của Luân Vương, thấy trong ấy gọi nước nóng này là nhân-đẳng. Đại-sư là bậc Nhất Thiết Trí, nếu hỏi Ngài sẽ đáp.

 

Các Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Nếu chỉ trị phong thì dùng rễ cành hoa quả vỏ-cây ... nấu chung lấy nước nóng tắm thì hết bệnh.

 

Các Bí-sô tắm bằng nước nóng, làm da thịt biến màu. Phật dạy:

 

- Dùng dầu xoa bóp.

 

Họ thoa nhiều dầu làm bẩn y phục. Phật dạy:

 

- Dùng tháo đậu để lau sạch nên da biến sắc.

 

Phật dạy:

 

- Khi tắm sắp xong, nhỏ một hai giọt dầu vào trong nước nóng, làm cho thân thể tươi sáng.

 

Cụ thọ Tất Lân Đà Bà Ta có bệnh ... cho đến... Bí-sô hỏi vì sao bệnh?

 

Đáp:

 

- Tôi bị bệnh mũi chảy nước.

 

Y sĩ hỏi:

 

- Với bệnh này từng trị bằng thuốc gì?

 

Đáp:

 

- Từng nhỏ thuốc vào mũi.

 

Hỏi:

 

- Đại đức, nay sao không nhỏ nữa?

 

Đáp:

 

- Thế Tôn chưa cho phép.

 

Các Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Nếu người có bệnh, Ta cho phép được nhỏ tô dầu vào mũi.

 

Bí-sô đổ thuốc vào mũi, bị chảy ra ngoài làm bẩn thân thể. Phật dạy:

 

- Không nên như vậy.

 

Bí-sô lại dùng lá để nhỏ thuốc, vẫn chưa được hoàn hảo. Phật dạy:

 

- Không nên dùng lá.

 

Họ lại nhỏ thuốc bằng miếng vải vụn, có lỗi như trước. Phật dạy:

 

- Không nên nhỏ thuốc bằng miếng vải vụn, có thể dùng đồng sắt hay thiết để làm ống nhỏ mũi.

 

Bí-sô làm một đầu đưa ra. Phật dạy:

 

- Nên làm hai đầu.

 

Họ lại làm bén nhọn ghê gớm, Phật dạy:

 

- Không được làm bén nhọn dữ dằn.

 

Bí-sô tay bẩn nhỏ thuốc vào mũi. Phật dạy:

 

- Nên rửa sạch tay mới được nhận thuốc nhỏ vào mũi.

 

Cụ thọ Tất Lân Đà Bà Ta bị bệnh khát. Bí-sô đến thăm hỏi:

 

- Thầy bị bệnh gì?

 

Đáp:

 

- Bị bệnh khát nhưng không có đồ để uống nước.

 

Họ bạch Phật. Phật dạy:

 

- Nên sắm chén bằng đồng để uống nước.

 

Sau khi người thân tộc của cụ thọ Tất Lân Đà Bà Ta đến nghe pháp, trở về bảo với vợ:

 

- Thánh giả Tất Lân Đà Bà Ta thuyết pháp vi diệu, tôi đã được nghe và thọ trì.

 

Vợ nói:

 

- Nhờ Phật ra đời nên anh được lợi ích.

 

Chồng nói:

 

- Vì sao các người không đi nghe pháp?

 

Đáp:

 

- Em phận đàn bà ra ngoài rất xấu hổ. Nếu thánh giả Tất Lân Đà Bà Ta đến đây thuyết pháp cho, em sẽ nghe và thọ trì.

 

Khi người chồng đến thỉnh, Tôn giả nói:

 

- Hiền thủ! Tôi bị bệnh nên không thể đến nhà được.

 

Thưa:

 

- Thánh giả! Con đem xe đưa ngài đi.

 

Đáp:

 

- Phật chưa cho phép Bí-sô đi xe.

 

Các Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Do việc này nên cho phép các Bí-sô có bệnh được đi xe.

 

Sau khi Phật cho phép, Tất Lân Đà Bà Ta đi xe cùng các đệ tử đến nhà người thỉnh. Tình cờ gặp nhau trên đường đi, lục chúng Bí-sô hỏi các đệ tử kia:

 

- Ai đi xe vậy?

 

Đáp:

 

- Là Ô Ba Đà Da của tôi.

 

Lục chúng nói:

 

- Thế Tôn cho phép các Bí-sô đi xe à?

 

Đáp:

 

- Đã cho.

 

Sau khi tán dương, Thế Tôn đại từ biết các Bí-sô thân thể mềm yếu không thể đi bộ nên cho đi xe, Lục chúng bàn nhau: "Chúng ta cũng nên trang trí xe cho đẹp".Đến ngày thứ hai, dùng các lông đẹp và các chuông linh treo trang trí đẹp đẽ trên xe, họ đi đến các ngã đường. Thấy vậy, các trưởng giả Bà-la-môn hỏi:

 

- Thánh giả! Đây là vật gì?

 

Đáp:

 

- Thế Tôn cho phép chúng tôi đi xe.

 

Họ nói:

 

- Chẳng lẽ Sa-môn các vị còn hưởng thụ dục lạc hay sao?

 

Lục chúng im lặng. Các Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Bí-sô không bệnh mà đi xe bị tội vượt pháp. Có hai lý do được đi xe:

 

    l.) Tuổi già sức yếu;

    2.) Bị bệnh suy nhược.

 

* Duyên tại thành Thất La Phiệt. Trưởng giả nọ có chánh tín, cùng Bà-la-môn không có tín tâm vào rừng Thệ Đa tham quan khắp nơi. Đến dưới gốc cây, thấy chỗ vệ sinh, Bà-la-môn nói:

 

- Này Trưởng giả! Sa-môn Thích tử rất nhơ bẩn nên tiểu tiện nhơ bẩn dưới dưới gốc có hoa trái.

 

Trưởng giả nói:

 

- Các thánh giả đều là bậc đại đức, chả lẽ tự tiện phóng uế hay sao, hay là người bạch y làm việc không nên này?

 

Trong lúc nói chuyện, bỗng thấy một Bí-sô già cả, dùng y che đầu ngồi dưới gốc cây đại tiện. Bà-la-môn không tín tâm thấy vậy nói với trưởng giả:

 

- Ngài nói bạch y làm việc bất tịnh này, hãy xem Bí-sô này dùng y che đầu, ngồi đại tiện dưới gốc cây, chẳng lẽ là bạch y hay sao?

 

Nghe nói, trưởng giả rất xấu hổ, đành im lặng không đáp được. Các Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Bí-sô không được đại tiểu tiện dưới gốc cây. Ai cố vi phạm bị tội vượt pháp.

 

Sau khi Phật chế định, đang đi trên đường, đến khu rừng lớn, các Bí-sô muốn đi ngoài, vì giữ giới phải cố nhịn, nên bị són ra. Các Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Khi đi đường, đến chỗ rừng cây, các Bí-sô tùy ý đi ngoài.

 

Khi Thế Tôn đã cho phép khi đi đường đến rừng cây, được đi ngoài, có Bí-sô ở trong làng xóm, không dám đi ngoài dưới gốc cây, nên giữa ngày bị bón nóng khổ sở. Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Nếu là dưới bụi gai, tùy ý đi ngoài.

 

Ô Ba Nan Đà vì đại tiện làm bẩn vườn rau của người. Phật chế Bí-sô không được đại tiểu tiện trên rau cỏ sống. Đi đến những nơi không có cỏ sống, các Bí-sô đi ngoài để phẩn nhơ bừa bãi. Thấy vậy, các trưởng giả Bà-la-môn cùng nhau chê cười:

 

- Sa-môn Thích Tử rất ưa nghi thức, cùng ngồi ăn một chỗ, cùng đi ngoài một nơi.

 

Các Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Vì lý do này, Ta cho phép các Bí-sô làm nhà xí.

 

Làm chỗ vệ sinh bên ngoài chùa, ban đêm đi ngoài, họ sợ hổ lang, sư tử, giặc ... nên đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Nên làm trong chùa.

 

Các Bí-sô không biết nên làm chỗ nào, Phật dạy:

 

- Nên làm ở góc Tây Bắc sau chùa.

 

Họ hỏi làm ra sao, Phật dạy:

 

- Có hai loại nhà xí:

 

    l) Nhà vệ sinh riêng;

    2) Bên cạnh.

 

Nhà riêng là phòng vuông một trượng, chỗ vệ sinh ở giữa. Bên cạnh là sau phòng, ngăn bằng vách gỗ và che chung quanh, vệ sinh bên trong. Bên ngoài nên bố trí chỗ rửa tay chân và để bình nước. Nhà xí phải có cửa và khóa, bên ngoài để guốc gỗ dùng khi đi vào.

 

Có lúc, một Bí-sô đã vào nhà xí, Bí-sô khác lại vào nữa, Phật dạy:

 

- Không nên như vậy, khi muốn vào nhà xí phải búng ngón tay tằng hắng; người đang ở trong cũng vậy.

 

Nhà xí có mùi hôi, Phật dạy:

 

- Nên chia nhau quét dọn cho sạch, khi vứt lá đất chớ cho chết trùng.

 

Các Bí-sô rửa nhà xí bằng tay nên cảm thấy gớm, Phật dạy:

 

- Nên dùng nước dội và quét sạch, không cần dùng tay.

 

Có những Bí-sô rửa tay chân quá lâu trong nhà xí làm người khác chờ, Phật dạy:

 

- Nên bố trí chỗ rửa tay chân bên ngoài.

 

Họ bố trí quá xa, Phật dạy:

 

- Nên gần, vì vậy Ta cho phép các Bí-sô khi làm nhà xí nên làm đủ các vật dụng cần dùng.

 

Khi Phật cho làm phòng xí, các Bí-sô cũng tiểu tiện trong phòng xí, làm cho người muốn đại tiện phải chờ, chờ mãi sinh bệnh. Phật dạy:

 

- Nên làm chỗ tiểu tiện riêng.

 

Các Bí-sô không biết nên làm chỗ nào. Phật dạy:

 

- Nên làm nơi tiểu gần nhà xí, có chỗ dẫn nước ra, làm cửa riêng như nhà xí.

 

 

 

Nhiếp tụng bảy trong biệt môn hai:

 

    Thủy bình tri tịnh xúc

    Nguyện Thế Tôn trường thọ

    Nhân tư ny Niết bàn

    Hám tước câu khai ngũ.

 

* Duyên tại thành Thất La Phạt. Trời đang nóng nực, bị khát cần nước uống, nên Bà-la-môn vào chùa đến gặp Bí-sô, nói:

 

- Tôi đang khát xin cho nước.

 

Bí-sô đem bình nước rửa đến đưa cho họ uống. Thấy vậy, Bà-la-môn hỏi:

 

- Thánh giả! Bình này là nước sạch hay nước rửa vậy?

 

Đáp:

 

- Là nước rửa.

 

Hỏi:

 

- Nếu vậy, tại sao đưa bình này cho tôi?

 

Đáp:

 

- Bình để chung nên tôi đem lại.

 

Họ nói:

 

- Thánh giả! Bình rửa và sạch không nên lẫn lộn, hãy để riêng. Nếu có Sa-môn Bà-la-môn đến xin nước, giúp họ hết khát chẳng phải có phước hay sao?

 

Bà-la-môn này bỏ đi vì chê nước bẩn nên không uống. Bí-sô bạch Phật, Phật dạy:

 

- Đại chúng nên bố trí bình chứa nước sạch để cung cấp cho người bị khát.

 

Phật dạy đại chúng nên bố trí nước sạch, có trưởng giả nghe như vậy nên dâng cúng nhiều bình đựng nước vào chùa. Ai cần cứ tự tiện mang đi, kể cả người giữ vườn hay người thế tục cũng vậy. Thấy vậy nhưng Bí-sô không ngăn họ. Chẳng bao lâu, số bình kia hết sạch. Các Bí-sô nói với thí chủ:

 

- Hiện nay, những bình ngài cúng đã hư hết, nên mang lại thêm.

 

Đáp:

 

- Thánh giả! Con đã cúng rất nhiều vì sao mau hết vậy?

 

Bí-sô kể lại sự việc trên cho thí chủ.

 

Đáp:

 

- Thánh giả, con không cúng cho những kẻ thế tục, vì sao không ngăn họ, đến nỗi hao phí như vậy?

 

Các Bí-sô bạch Phật, Phật dạy:

 

- Chẳng nên bỏ qua không hỏi người ấy như vậy, nên sai người quản lý vật ấy cho Tăng.

 

Sau khi Phật cho phép, các Bí-sô không lựa chọn, sai người tùy tiện. Phật dạy:

 

- Người có năm việc không nên sai. Thế nào là năm? Ấy là có ái, nhuế, bố, si, không biết đã cất hay chưa cất vật đang có. Người có năm việc nên sai là: không có ái, nhuế, bố, si, biết rõ đã cất hay chưa cất vật dụng.

 

Nên sai theo trình tự:- Tập họp chúng Tăng như trước, đối trước Tăng hỏi: - Bí-sô tên ... có thể làm người quản lý vật dụng ... cho Tăng không? Vị kia đáp:

 

- Tôi có thể. Sai một Bí-sô bạch nhị yết-ma.Đại đức tăng lắng nghe. Bí-sô ... này vui lòng làm người quản lý vật dụng ... cho Tăng. Nếu thời gian thích hợp với Tăng. Tăng đồng ý, nay Tăng sai Bí-sô ... làm người quản lý vật dụng ... cho Tăng. Đây là lời tác bạch. Thứ đến tác yết-ma:

 

- Đại đức Tăng lắng nghe. Bí-sô ... này vui lòng làm người quản lý vật dụng ... cho Tăng. Nếu tăng đồng ý cho Bí-sô ... làm người quản lý vật dụng ... cho Tăng thì im lặng. Vị nào không đồng ý thì nói ra. Tăng đã đồng ý cho Bí-sô ... làm người quản lý vật dụng ... rồi vì im lặng. Tôi xin ghi nhận như vậy.

 

Có người thế tục bị khát đến xin nước, Bí-sô dùng bình mới đựng đầy nước đưa cho họ, đem bình cũ đưa cho Bí-sô. Phật dạy:

 

- Không nên như vậy, nên dùng bình mới cúng các Bí-sô, bình cũ cho người thế tục.

 

Dùng bình xong, Bí-sô cất giữ, người tục vất bỏ tùy tiện, Phật dạy:

 

- Phải thu cất lại.

 

Bí-sô không khéo giữ gìn, làm bình bị hư, Phật dạy:

 

- Nên làm kho chứa.

 

Bí-sô làm theo lời dạy. Có người thương chủ từ phương Bắc đến, thỉnh Phật và Tăng, cúng dường trong ba tháng. Sau khi suy nghĩ: "Ta cúng dường, không muốn dùng vật dụng của người khác, nên sắm vật khác, ông ta dùng đồng trắng đồng đỏ làm nhiều vật dụng để đựng thức ăn dâng cúng dường Như Lai và chúng Thanh văn trong ba tháng. Sau khi mãn hạn, ông ta đem các vật ấy dâng hết cho Tăng. Bí-sô đem hết các vật này cất trong kho chứa đồ gốm, làm cho đồ gốm bị hư vỡ. Phật dạy:

 

- Vật dụng bằng đồng và sắt không được để chung.

 

Có Bà-la-môn bị khát nước, đến gặp các Bí-sô thưa:

 

- Thánh giả! Xin cho tôi nước.

 

Bí-sô đưa gầu và dây múc nước cho Bà-la-môn. Họ hỏi:

 

- Thánh giả! Vật này để làm gì?

 

Đáp:

 

- Tôi không có nước sẳn, hãy tự lấy để uống.

 

Bà-la-môn nói:

 

- Các vị thương xót đến tất cả chúng sinh, nếu dự trữ một số nước uống, thật là việc thiện.

 

Bí-sô đáp:

 

- Đức Phật chưa cho phép. Các Bí-sô đem sự việc bạch Phật.

 

Phật dạy:

 

- Đại chúng nên để dành một số nước sạch.

 

Nghe như vậy, Bí-sô tùy tiện để nước, hoặc sân trước, trong phòng ở, trước hiên, bên cửa ... làm cho nước nhơ bẩn. Phật dạy:

 

- Không nên như vậy, nên làm nhà chứa nước.

 

Nghe như vậy, Bí-sô không biết để chỗ nào ... Phật dạy:

 

- Nên bố trí chỗ để nước bên phía Đông cổng chùa.

 

Trong phòng chứa tối tăm, Phật dạy:

 

- Nên làm cửa sổ. Trên nền đ?t có bùn, dùng gạch lát làm cho thông nước. Phòng nên có cửa và khóa. Bình chứa nước không để trên mặt đất, nên đặt trên kệ gỗ. Nếu không có kệ gỗ, nên dùng gạch lót, dùng vật kê không cho nghiêng ngã.

 

Bình luôn bị dơ phải thường chà rửa, họ không biết chà rửa bằng vật gì. Phật dạy:

 

- Nên dùng bàn chải và lá cây.

 

Tuy thường chà rửa, nhưng vẫn có mùi hôi. Phật dạy:

 

- Nên để nhiều bình thay nhau đựng nước; một số đựng nước, một số phơi cho khô.

 

Họ phơi vào giữa nắng, Phật dạy :

 

- Nên phơi chỗ mát cho khô.

 

Không đậy miệng làm đất rơi vào bình, Phật dạy:

 

- Cần phải đậy kín, không được dùng tay bẩn khuấy trong nước, phải rửa sạch tay.

 

Mỗi khi đụng vào bình phải rửa tay, làm cho họ mệt nhọc. Phật dạy:

 

- Nếu bình sạch bằng đồng hay đất, tay không đụng vào nước, lấy không phạm.

 

Hoặc dùng phân bò khô chà tay cho sạch cáu bẩn cũng được. Sau khi Phật cho phép dự trữ nước, họ không biết nên sai ai làm. Phật dạy:

 

- Nên sai đệ tử môn nhân làm. Những vật cần dùng nơi để nước, nên sắm đủ.

 

* Phật ở vườn nhiều cây, thành Kiếp Tỳ La. Khi ấy, Bí-sô ny Đại thế chủ Kiều Đáp Di cùng với năm trăm Bí-sô ny quyến thuộc đến gặp đức Phật, lạy sát chân Ngài, ngồi qua một nên nghe Phật thuyết pháp.

 

Bỗng nhiên, nghe đức Phật hách xì, Đại Thế Chủ Kiều Đáp Di bạch:

 

- Cầu mong Thế Tôn thọ mệnh lâu dài, sống hơn số kiếp.

 

Khi nghe Đại thế chủ Kiều Đàm Di thưa như vậy, năm trăm Bí-sô ny cũng đồng thanh nguyện như vậy.

 

Nghe năm trăm Bí-sô ny nguyện như vậy, Dược-xoa quỷ thần trên mặt đất cũng đồng thanh nguyện như vậy.

 

Nghe như thế, Dược-xoa quỷ thần trên hư không cũng phát nguyện này.

 

Nghe như vậy ... Tứ đại thiên cung, trời Ba Mươi Ba, trời Dạ Ma, trời Đô Sử Đa, trời Hóa Lạc, trời Tha Hóa Tự Tại cho đến trời Phạm Thiên cũng đồng phát nguyện này:

 

- Cầu mong Thế Tôn thọ mệnh lâu dài sống hơn số kiếp.

 

Thế Tôn bảo Bí-sô ny Đại thế chủ Kiều Đáp Di:

 

- Bà cùng với tất cả chúng sinh đã làm điều chướng ngại lớn. Do lời nguyện của bà, năm trăm Bí-sô ny và trên đất không trung cho đến Phạm Thiên nghe lời nói ấy, không nên cung kính với Phật như vậy. Ai cung kính như vậy, không gọi là thiện.

 

Đại thế chủ thưa:

 

- Đại đức Thế Tôn đối với Như Lai, bày tỏ sự cung kính như thế nào được gọi là thiện?

 

Phật bảo Kiều Đáp Di:

 

- Đối với Như Lai nên nói thế này:

 

    - Nguyện Phật và Tăng trường tồnthế gian, thường sống hòa hợp như nước với sữa, phát huy rực rỡ giáo pháp của đấng Đạo-sư.

 

Này Kiều Đáp Dy! Ai làm như vậy là cung kính bậc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, gọi là sự lễ bái hoàn hảo.

 

Khi ấy một Bí-sô nói kệ:

 

    Thế chủ Kiều Đáp Dy

    Lạy sát chân Như Lai

    Nguyện Mâu Ny sống lâu

    Hơn kiếp độ chúng sinh.

 

    Tâm Phật mẫu ân cần

    Thưa lên lời kính lễ

    Nhưng không nên với Phật

    Mà nguyện lời như vậy.

 

Sau khi suy nghĩ: "Đức Phật tán thán sự hòa hợp của chúng Tăng ... cho đến ... Đại sư còn đang trú trong đời, hiện nay chúng Bí-sô chưa bị chia rẽ, ta nên nhập Niết-bàn", Đại thế chủ Kiều Đáp Di đến gặp đức Phật, lạy sát hai chân Ngài, thưa:

 

- Thế Tôn! Ý con đang muốn vào Niết-bàn.

 

Nghe thưa như vậy, Thế Tôn im lặng; thưa đến lần thứ ba, Ngài cũng im lặng. Đại thế chủ lại thưa:

 

- Thế Tôn! Ý con đang muốn vào Niết-bàn.

 

Phật nói:

 

- Này Kiều Đáp Di! Thưa như vậy là vì Niết bàn phải không?

 

Đáp:

 

- Con vì Niết bàn nên thưa như vậy.

 

Phật nói:

 

- Người đã vì Niết bàn nên nói như vậy, Ta có gì để nói! Các hành vô thường phải đều như vậy.

 

Bấy giờ, năm trăm Bí-sô ny lại bạch Thế Tôn:

 

- Chúng con có ý muốn vào Niết-bàn.

 

Phật bảo các Bí-sô ny:

 

- Các người vì Niết bàn nên thưa như vậy phải không?

 

Thưa:

 

- Đúng vậy!

 

Phật dạy:

 

- Các người đã vì Niết bàn nên thưa như vậy, Ta có gì để nói! Các hành vô thường đều phải như vậy.

 

Nghe Phật dạy xong, Đại thế chủ và các Bí-sô ny rất hoan hỷ lạy sát chân Phật, đến gặp Nan Đà thưa:

 

- Thánh giả! Tôi có ý muốn nhập Niết bàn ngay.

 

Nan Đà nói:

 

- Thưa như vậy là vì Niết bàn phải không? ... rồi nói như Phật thuyết ...

 

Như vậy, họ lại đến gặp cụ thọ A Ny Lô Đà, La Hổ La, A Nan Đà ... các vị thượng tọa, đảnh lễ thưa:

 

- Thánh giả! Chúng con có ý muốn vào Niết bàn.

 

Bí-sô A Nê Lâu Đà và các vị thượng tọa hỏi:

 

- Thưa như vậy là vì Niết bàn phải không?

 

Thưa:

 

- Đúng vậy.

 

- Các vị đã vì Niết bàn nên nói như vậy, chúng ta biết nói gì, các hành vô thường đều như vậy.

 

Sau khi đảnh lễ Phật và các vị Tôn giả, từ giã trở về chùa thuộc trú xứ của mình, trong bảy ngày, Đại thế chủ và năm trăm Bí-sô ny diễn thuyết diệu pháp cho ba chúng.

 

Sau khi được nghe pháp, có vô lượng chúng sinh chứng đắc lợi ích thù thắng rộng lớn. Các Bí-sô ny đều ra khỏi chùa, đến nơi thanh tịnh theo thứ tự ngồi bán già, cả năm trăm vị đều như vậy.

 

Bấy giờ, đại thế chủ Kiều Đáp Di vào tam muội, dùng định lực thù thắng, bằng hành động tự tại toàn thân biến mất, vọt lên hư không ở phương Đông, biểu hiện bốn tư thế đi đứng nằm ngồi, vào định hỏa quang, từ thân phóng ra nhiều loại ánh sáng màu xanh vàng đỏ trắng hồng trong một lúc; duới thân phát ra lửa, trên thân phun nước trong; dưới thân phun ra nước; trên thân phát ra lửa, hiện như vậy ở phương Đông, phương Nam, Tây, Bắc cũng vậy. Năm trăm Bí-sô ny cùng Đại thế chủ Kiều Đàm Di hiện tướng không khác nhau.

 

Khi ấy, Đại thế chủ vào định thứ nhất, xuất định thứ nhất vào định thứ hai, xuất định thứ hai vào định thứ ba, xuất định thứ ba vào định thứ tư, xuất định thứ tư vào không xứ, xuất không xứ vào thức xứ, xuất thức xứ vào vô sở hữu xứ, xuất vô sở hữu xứ vào phi tưởng phi phi tưởng xứ, xuất phi tưởng phi phi tưởng xứ đi ngược vào tịnh lự thứ nhất, rồi vào Niết-bàn.

 

Năm trăm Bí-sô ny cũng như Đại thế chủ Kiều Đáp Dy, lần lượt nhập thuận và nghịch các thiền xong, cũng vào Niết-bàn. Khi ấy, cả mặt đất chấn động, sáu phương đều sáng rực. Trên hư không chư Thiên kêu vang, tiếng như đánh trống. Tại núi Diệu-cao, hoặc trong các núi khác, tại thành phố làng xóm, giữa rừng vắng, nơi thanh tịnh. Các Bí-sô thấy các tướng trạng này, đều chánh niệm quán sát Đại thế chủ và năm trăm Bí-sô ny nhập Ni?t-bàn. Các Bí-sô lại suy nghĩ: "Từ mẫu của Thế Tôn đã vào Niết-bàn, chúng ta hãy đến hỗ trợ nhau cúng cúng dường xá-lị ". Sau khi suy nghĩ, tùy theo sức mình, mỗi vị mang các loại gỗ thơm đến chỗ Đại thế chủ Kiều Đáp Ma bát Niết-bàn.

 

Bấy giờ, Thế Tôn cùng Kiều Trần Như, Bà Sáp Ba, Đại Danh, A Ny Lô Đà, Xá Lợi Phất, Đại Mục Liên ... cùng đại chúng thanh văn tập họp đến để cúng dường xá lị của Đại thế chủ Kiều Đáp Dy.v.v ... Vua Thắng Quang cùng thái tử, đại thần, quyến thuộc cũng đến nơi ấy để cúng dường xá lị. Trưởng giả Cấp Cô, trưởng giả Tiên Thọ, trưởng giả Cố Cựu và Lộc Tử Mẫu ... cùng quyến thuộc cũng đều đến đó. Lại có quốc vương các nước cùng vô số quyến thuộc của họ cũng đến nơi. Vua Thắng Quang dùng các loại y báu, vật trang sức, trang trí năm trăm chiếc xe quý đem đến, cùng với các loại hương hoa, tràng phan, lọng báu, âm nhạc ... Khi ấy, bốn vị Bí-sô là cụ thọ Nan Đà, A Ny Lô Đà, A Nan Đà, La Hổ La, cùng khiêng linh xa Đại thế chủ. Thế Tôn cũng dùng tay phải đỡ linh xa. Các Bí-sô khác cũng khiêng linh xa các Bí-sô ny. Với tâm ân cần kính trọng, tổ chức rất trang nghiêm, mọi người đưa linh xa đến chỗ yên tịnh rộng rãi bằng phẳng.

 

Bấy giờ, Thế Tôn nâng thượng y che trên Đại thế chủ Kiều Đáp Dy và năm trăm Bí-sô ny lên, bảo các Bí-sô:

 

- Các thầy hãy xem đây, Đại thế chủ Kiều Đáp Dy ... thọ một trăm hai mươi tuổi mà thân thể không già, trẻ như đồng nữ mười sáu tuổi.

 

Vua Thắng Quang cùng đại chúng dùng các loại gỗ thơm hỏa thiêu tử thi. Sau khi giảng dạy về pháp vô thường cho mọi người, trở về chùa, rửa sạch chân, ngồi trên tòa, Thế Tôn bảo các Bí-sô:

 

- Các thầy nên biết! Sự việc như vậy đều vì khi trông thấy người khác bị hách xì, lại cầu nguyện trường thọ. Thế nên, khi thấy người khác hách xì, Bí-sô không nên nói cầu trường thọ. Ai cố ý nói bị tội vượt pháp.

 

Thấy những sự việc như vậy, các Bí-sô đều có ý nghi ngờ, bạch Phật:

 

- Thế Tôn! Đại thế chủ Kiều Đáp Dy và năm trăm Bí-sô ny đã từng làm nghiệp gì, do nghiệp lực ấy nên sống đến 120 tuổi mà tướng mạo không già, trẻ như đồng nữ 16 tuổi?

 

Phật bảo các Bí-sô:

 

- Các thầy hãy lắng nghe về nghiệp của Đại thế chủ Kiều Đáp Di và năm trăm Bí-sô ny đã làm, và do nghiệp ấy tự nhận lấy quả báo.

 

Này các Bí-sô! Thời quá khứ trong kiếp Hiền này, khi loài người thọ hai vạn tuổi, có Phật Thế Tôn hiệu Ca Nhiếp Ba Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác, đầy đủ mười hiệu, xuất hiện trong đời, ở rừng Thi Lộc, tiên nhân đọa xứ, thuộc Ba La Ny Tư.Khi nhân duyên giáo hóa của đức Thế Tôn ấy đã mỹ mãn, Ngài vào Vô dư Niết bàn như củi hết lửa tắt. Có vị vua tên Kết Lị Chỉ xây bốn bảo tháp mỗi cạnh một du thiện na, cao nữa du thiện na để cúng dường xá lị của Như Lai ấy. Vị đại phi và năm trăm thể nữ của vua vì già cả nên bị vua không nhìn đến. Họ bàn nhau:

 

- Vì sao ngày nay đại vương bỏ chúng ta ra không hỏi han đến?

 

- Vì chúng ta đã già nên vua không hỏi đến.

 

một thể nữ đặt vấn đề:

 

- Các chị em tu tập nghiệp gì để không bị già cả và làm cho mãn nguyện?

 

Nghe vương phi đáp:

 

- Nếu cúng dường tháp Xá Lợi Phật Ca Nhiếp Ba thì sở nguyện thành tựu.

 

Họ đều tán thành và tâu xin vua. Được vua đồng ý, họ mang các loại hương bột, hương xoa, vòng hoa, anh lạc, cờ phướng, lọng báu, các món ăn thơm ngon, đến nơi tháp ân cần tôn trọng khen ngợi cúng dường, cả thân tâm lễ kính, đi nhiễu bên phải hành đạo, quỳ dài chắp tay phát nguyện: "Đem thiện căn do cúng dường vô thượng phước điền này, nguyện cho con đời nào cũng không có tướng già cho đến khi hết tuổi thọ".

 

Này các Bí-sô! Vị đại vương phi và năm trăm thể nữ kia của vua, nay là Đại thế chủ Kiều Đáp Di và năm trăm Bí-sô ny. Do phước lực ấy kéo dài đến đời này sống nên 120 tuổi mà tướng mạo không già, cũng như đồng nữ 16 tuổi.

 

- Này các Bí-sô nên biết! Đều do nghiệp lực của mình ... nói rộng như trước ... nên học như vậy.

 

* Duyên khởi tại thành Thất La Phiệt. Khi Thế Tôn chế cho các Bí-sô:

 

- Thấy người khác hách xì không được nói trường thọ.

 

Trong thành có trưởng giả đã cưới vợ nhưng chẳng có con. Khi tuổi già tài sản không còn, ông bảo với vợ:

 

- Tôi già cả, không có con cái, ý muốn xuất gia.

 

Vợ nói:

 

- Tùy ý.

 

Ông ta đến rừng Thệ Đa gặp các Bí-sô, được xuất gia và thọ cận viên. Vào lúc nọ, đức Phật đang thuyết pháp cho đại chúng, Bí-sô già này cũng đang ngồi bên ngoài chúng. Người vợ cũ đi ngang qua nghe chồng hách xì, nhưng không có một Bí-sô nào nguyện trường thọ cả. Thấy như vậy, không nhịn được, người vợ lấy tay trái bốc đất quay quanh đầu Bí-sô rồi ném ra ngoài, chú nguyện trường thọ. Trước sự chứng kiến của các Bí-sô, người vợ ra trước nắm tay Bí-sô già kia lôi đi, sau khi dùng lời thô ác mắng chưởi:

 

- Thánh tử! Nay vì sao ông xuất gia sống trong những kẻ oán thù? Trong rừng Thệ Đa này thường có năm trăm dược-xoa áo xanh. Do tôi chú nguyện làm cho ông được trường thọ. Nếu không như vậy, chắc chắn ông bị Dược xoa hút tinh khí, vậy không nên ở đây hãy đi về nhà.

 

Khi ấy, các Bí-sô nói:

 

- Này ông già hãy ở lại chớ đi.

 

Nhưng ông ta vẫn không chịu đứng lại. Khi bị Bí-sô nắm một tay kéo lại, ông ta la lên:

 

- Tôi đau quá! Đau quá!

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Hãy hỏi Bí-sô già ấy: Bên tay nào đau, bên tay bị Bí-sô nắm đau hay bên tay vợ cũ nắm đau? Nếu ông ấy nói tay bị Bí-sô nắm đau thì tâm đã muốn đi hãy để tùy ý ; Nếu nói tay bị vợ nắm đau thì tâm còn muốn ở lại không nên cho đi.

 

Khi hỏi theo lời Phật dạy, nghe ông ta đáp:

 

- Tay bị các vị nắm đau!

 

Các Bí-sô liền để thả ra, để ông ta đi về nhà. Nhân vì cho ông ta xuất gia thọ cận viên nên gây ra chướng ngại lớn, Phật dạy:

 

- Bí-sô già cả đều thích trường thọ, như vậy khi gặp họ hách xì nên nói trường thọ. Ai không nói bị tội vượt pháp.

 

* Duyên xứ như trước, trưởng giả nọ có tâm chánh tín, cùng một Bà-la-môn không tín tâm, đi vào rừng Thệ Đa. Bỗng nhiên trưởng giả tín tâm bị hách xì. Các Bí-sô không nói trường thọ, nhưng Bà-la-môn không tín tâm nguyện trường thọ và nói:

 

- Sao ngài có tín tâm với kẻ oán gia, trong rừng Thệ Đa này thường có năm trăm Được xoa áo xanh; Do tôi nguyện làm cho ngài được trường thọ; Nếu không như vậy chắc chắn bị Dược xoa hút tinh khí của ngài, không nên ở đây lâu hãy mau đi ra.

 

Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Những kẻ thế tục đều thích trường thọ, nếu thấy họ hách xì, nên nguyện họ trường thọ. Các Bí-sô thấy người già hách xì, người nhỏ nên đứng dậy làm lễ và nói mong ngài hết hách xì. Nếu người nhỏ hách xì, người lớn nên nói vô bệnh. Ai không làm như vậy, bị tội vượt pháp.

 

* Phật ở vườn Thi Lộc, tiên nhân đọa xứ, nước Ba La Ny Tư. Năm Bí-sô được Phật làm cho trụ chánh định vị, xuất gia trong pháp luật thiện thuyết, nhưng đối với các loại dùng để nhai nuốt ăn uống, uy nghi đi đứng đều chưa hiểu rõ, nên họ thưa với Phật:

 

- Việc ấy phải làm thế nào?

 

Phật dạy:

 

- Này các Bí-sô! Có năm loại để cắn nhai là rễ, cọng, lá, hoa, quả ; Năm thứ dùng để ăn nuốt là mỳ, cơm, đậu chín, cá thịt, bánh.

 

Họ không biết dùng loại gia vị gì, Phật dạy:

 

- Nên dùng sữa, lạc, bơ, mật, cá thịt, thịt khô, các loại rau. Nếu khôngcác loại này, có thể hòa với nước để ăn. Những gia vị tươi mát làm cho thân thể có sắc và sức để tu tập các thiện pháp.

 

 

 

Nhiếp tụng tám trong biệt môn hai:

 

    An môn phiến nựu khổng

    Bì thế xử trong song

    Nội khoát võng phiến xu

    Khai điếm tu dương giác.

 

* Duyên khởi tại thành Thất La Phạt. Làm phòng xá, nhưng các Bí-sô không biết bố trí cửa. Phật dạy:

 

- Nên làm cửa.

 

Họ không làm cánh cửa nên bỏ phế việc tu thiền định. Phật dạy:

 

- Nên làm cánh cửa.

 

Họ không làm bản lề cửa nên đóng mở khó khăn. Phật dạy:

 

- Nên làm bản lề cửa và lỗ khóa.

 

Khi mở cửa có tiếng, Phật dạy:

 

- Nên lót miếng da vào chổ kêu.

 

Trong phòng bị tối, Phật dạy:

 

- Nên làm cửa sổ.

 

Cửa sổ quá thấp, bị nạn trộm cắp, Phật dạy:

 

- Không nên làm quá thấp.

 

Họ làm quá cao, phòng bị tối như trước, Phật dạy:

 

- Không làm quá cao hay quá thấp, nên trung bình.

 

Bí-sô làm trong hẹp ngoài rộng, Phật dạy:

 

- Nên làm trong rộng ngoài hẹp.

 

Có quạ chim bay vào, Phật dạy:

 

- Nên ngăn bằng lưới.

 

Khi đã ngăn lưới nên không làm cửa, ban đêm rắn, bồ-cạp ... bò vào trong phòng. Phật dạy:

 

- Nên làm cửa sổ.

 

Cửa sổ bị gió thổi bật ra, Phật dạy:

 

- Nên làm chốt cửa ở trên.

 

Khi đóng mở bị khó khăn, Phật dạy:

 

- Nên dùng gậy móng dê để đóng mở cửa (làm cây nạng sắt xẻ đôi hình như móng chân dê).

 

 

 

Nhiếp tụng chín trong biệt môn hai:

 

    Thiết chùy cập thương tử,

    Thiết tráp tinh mộc khiên

    Phủ sàng táo ngũ bách,

    Phủ tạc chúng giai hứa.

 

* Duyên tại thành Vương Xá. Cụ thọ Tất Lan Đà Bà Ta có bệnh. Các Bí-sô đến thăm hỏi Tôn giả bệnh gì. Đáp:

 

- Tôi bị bệnh phong.

 

Hỏi:

 

- Đại đức từng uống thuốc gì?

 

Đáp:

 

- Trước đây, khi bị bệnh, lấy chày sắt nóng thả vào bình nước, tôi dùng nước nóng này lau tắm thân thể thì hết bệnh.

 

Hỏi:

 

- Nếu như vậy, vì sao nay thầy không làm?

 

Đáp:

 

- Thế Tôn chưa cho phép.

 

Các Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Nay Ta cho phép Bí-sô bị bệnh phong được dùng nước nóng từ chày sắt lau thân thể.

 

Nghe Phật cho phép như vậy, Bí-sô đốt chày nóng quá nên không lấy ra được. Phật dạy:

 

- Nên cột bằng dây sắt và chờ nóng kéo ra.

 

Bí-sô bỏ cả dây sắt vào lửa, nóng quá không thể nắm được. Phật dạy:

 

- Để dây sắt bên ngoài không được bỏ vào lửa, phần gần chày sắt dùng bùn bọc lại, nắm chỗ không bị nóng, kéo ra bỏ vào bồn nước, tùy ý xử dụng.

 

Dùng xong, Bí-sô dùng tháo-đậu, phân bò để rửa sạch chày sắt. Phật dạy:

 

- Không nên rửa vậy, bỏ vào lửa thì sạch.

 

Các Bí-sô nấu nước nóng để rửa trước, nấu nước sạch sau. Phật dạy:

 

- Nấu nước sạch trước, nấu nước rửa sau. Ai không làm như vậy, bị tội vượt pháp.

 

* Duyên xứ như trước. Bí-sô đến hỏi Tôn giả Tất Lan Đà Bà Ta bị bệnh gì.

 

Đáp:

 

- Tôi bị bệnh như vậy.

 

Hỏi:

 

- Tại sao đại đức không trị liệu?

 

Đáp:

 

- Cụ thọ! Trước đây tôi từng sắm cái vạc nhỏ để nấu thuốc sưởi ấm, nay không có nên bệnh tăng thêm.

 

Hỏi:

 

- Sao không sắm vật ấy?

 

Đáp:

 

- Phật chưa cho phép.

 

Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Cho phép Bí-sô có bệnh được sắm vạc sưởi ấm.

 

* Duyên tại thành Thất La Phiệt. Có trưởng giả làm phòng tắm cho Tăng già. Trong đó, có than lửa rơi vãi khắp nơi. Phật dạy:

 

- Nên gom lại một chỗ.

 

Bí-sô không biết dùng vật gì để gom lại. Phật dạy:

 

- Dùng sắt làm xuổng để xúc.

 

Sau khi Phật đã cho phép, các Bí-sô ở Lan Nhã không có sắt. Phật dạy:

 

- Dùng gỗ làm cái mai.

 

Mai bị lửa cháy. Phật dạy:

 

- Dùng phân bò trộn bùn trát lên mai rồi dùng.

 

* Duyên khởi như trước. Bí-sô bị bệnh đến y sĩ hỏi:

 

- Hiền thủ! Tôi bị bệnh như vậy, xin ngài chữa trị cho.

 

Y sĩ đáp:

 

- Thánh giả! Nên trị liệu như vậy. Bí-sô nấu thuốc nên cần nồi, phải mượn cuả Trưởng giả và sau đó trả lại.

 

Trưởng giả nói:

 

- Con xin cúng cho thánh giả.

 

Bí-sô đáp:

 

- Phật chưa cho phép.

 

Trưởng giả nói:

 

- Nếu vậy bỏ xuống đất rồi đi.

 

Bí-sô đem việc này bạch Phật. Phật dạy:

 

- Cho phép nhận.

 

Khi ấy, Tỳ Xá Khư mẹ Lộc Tử nghe Phật cho phép các Bí-sô được nhận nồi, nên đem đến năm trăm nồi sắt. Các Bí-sô không biết làm thế nào, Phật dạy:

 

- Theo thứ tự dâng đến các Bí-sô.

 

Phật cho phép chia, các Bí-sô nhỏ không được. Phật dạy:

 

- Nên cho họ nồi đất.

 

* Duyên xứ như trước, có một Bí-sô nằm trên đất lạnh nên ăn uống không tiêu, đến gặp trưởng giả mượn giường chiếu để làm vật lót nằm. Sau khi hết bệnh, vị này đem vật ấy trả lại. Trưởng giả nói:

 

- Con xin dâng cho thánh giả.

 

Đáp:

 

- Phật chưa cho phép.

 

Các Bí-sô đem việc này bạch Phật. Phật dạy:

 

- Được nhận.

 

Khi ấy, nghe Phật cho phép các Bí-sô nhận giường, Tỳ Xá Khư mẹ Lộc Tử đem đến cúng năm trăm cái giường. Các Bí-sô không biết thế nào, Phật dạy:

 

- Nên thứ tự chia đến các Bí-sô.

 

* Duyên xứ như trước. Có Bí-sô cần bếp lò, nên mượn của trưởng giả, khi dùng xong đem trả lại. Trưởng giả nói:

 

- Con xin cúng cho thánh giả.

 

Bí-sô nói:

 

- Phật chưa cho phép.

 

Các Bí-sô đem việc này bạch Phật.

 

Phật dạy:

 

- Nên nhận.

 

Tỳ Xá Khư mẹ Lộc Tử dâng đến năm trăm cái lò ... như trên ... thứ lớp phân đến các Bí-sô.

 

* Duyên xứ như trước. Có một Bí-sô cần nồi nhuộm y, đến mượn của trưởng giả, xong việc đem trả. Họ nói:

 

- Xin cúng cho thánh giả.

 

Bí-sô thưa:

 

- Phật chưa cho phép.

 

Các Bí-sô đem việc này bạch Phật.Phật dạy:

 

- Nên nhận cho đại chúng dùng.

 

* Duyên khởi như trước. Bí-sô bị gãy giường, mượn đục của trưởng giả, sau đó trả lại. Họ nói:

 

- Xin dâng Thánh giả.

 

Đáp:

 

- Phật chưa cho phép.

 

Các Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Nên nhận đục ấy cho đại chúng.

 

 

 

Nhiếp tụng mười trong biệt môn hai:

 

    Hứa cân phủ tam thê

    Trúc mộc thằng tùy sự

    Hạ quán tạo tự pháp

    Thuyết Nan-đà nhân duyên.

 

* Có Bí-sô bị gãy chân giường, nên cần búa,mượn Trưởng giả, sau đó trả lại ... như trên ... cho đến được nhận cho chúng Tăng.

 

* Duyên xứ như trước. Đức Phật ở trong vườn Lộc Tử Mẫu, cho phép các Bí-sô làm chùa và tháp. Làm xong cao quá, Bí-sô không biết làm sao leo lên. Phật dạy làm thang. Bí-sô không biết làm bằng vật gì. Phật dạy:

 

- Được tùy ý dùng ba loại là tre gỗ và dây để làm.

 

* Duyên tại thành Thất La Phiệt. Bí-sô thân bị bệnh, đến gặp y sĩ hỏi:

 

- Hiền giả! Tôi có bệnh như vậy trên thân, xin ngài chữa trị.

 

Y sĩ nói:

 

- Thánh giả! Hãy để trống bên dưới thì hết bệnh.

 

Đáp:

 

- Thế Tôn chưa cho phép.

 

Y sĩ nói:

 

- Thế Tôn từ bi cho phép không ngại gì cả.

 

Các Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Nếu có bệnh, khai cho để trống ở dưới.

 

* Duyên xứ như trước. Như lời Phật dạy, làm chùa cho Bí-sô, Tăng xá nên làm năm phòng; điện Phật làm bảy lớp; lầu cổng bảy tầng. Nếu làm phòng chùa Ny nên ba lớp; điện Phật năm lớp; lầu cổng năm tầng. Bí-sô không biết làm sao leo lên cao. Phật dạy:

 

- Bên góc cửa nên làm cầu thang để leo, có ba loại cầu thang là đá, gỗ, đất.

 

Bí-sô không hiểu, làm cầu thang tầng dưới bằng gỗ, tầng giữa bằng đất, tầng trên bằng đá, trên đè xuống làm dưới bị hư. Phật dạy:

 

- Tầng dưới làm bằng đá, giữa bằng đất, trên bằng gỗ.

 

CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ

TỲ-NẠI-DA TẠP SỰ

 

Quyển mười hết.

 

--- o0o ---

Quyển thứ mười một

 

--- ooOoo ---

 

Tiếp theo tụng mười (Nhân duyên về Nan Đà).

 

* Duyên tại vườn Nhiều Cây, thành Kiếp Tỷ La. Em của Thế Tôn tên Nan Đà, thân màu vàng ròng, đủ 30 tướng tốt, chỉ thấp hơn Phật bốn ngón tay. Vợ của Nan Đà tên Tôn Đà La, hình dáng xinh đẹp hiếm có trên đời, rực rỡ tuyệt trần, ai cũng yêu mến. Nan Đà yêu thương khắn khít không lúc nào rời xa cô ấy, tình ái đậm đà thề sống trọn đời bên nhau. Biết đã đến lúc giáo hóa, vào sáng sớm, mặc y mang bát cùng thị giả A Nan Đà vào thành khất thực, lần lượt đến đứng đầu cổng cung Nan Đà, với sức đại bi, Thế Tôn phóng ánh sáng hoàng kim chiếu vào cung Nan Đà, làm cho khắp nơi trở thành màu vàng rực. Thấy ánh sáng bỗng nhiên chiếu đến, biết chắc là đức Như Lai, Nan Đà liền sai sứ ra ngoài xem. Thấy đức Phật đến, sứ giả lui vào thưa với Nan Đà:

 

- Thế Tôn ở ngoài cửa.

 

Nghe như vậy, Nan Đà muốn ra ngoài nghênh tiếp làm lễ Thế Tôn. Với ý nghĩ: "Nếu ta để cho đi, chắc chắn Thế Tôn đưa chàng xuất gia". Tôn Đà La kéo áo giữ Nan Đà lại không cho đi. Nan Đà nói:

 

- Hãy thả ra một chút, sau khi lễ Thế Tôn, anh vào ngay.

 

Sau khi nói: - Chàng hãy cam kết, em mới cho đi; Tôn Đà La lấy son ướt bôi lên trán và nói thêm:

 

- Chàng hãy trở vào khi vết son này chưa khô, nếu trái lời, phạt năm trăm tiền vàng.

 

Sau khi chấp thuận, Nan Đà ra cửa đảnh lễ sát chân Phật, lấy bát của Như Lai đi vào cung, đặt vào đầy thức ăn thơm ngon rồi mang ra cửa, thấy Thế Tôn đang bước đi nên đưa cho A Nan Đà. Thế Tôn biểu hiện tướng không cho lấy bát. Vì tôn trọng uy nghiêm của Như Lai Đại-sư, Nan Đà không dám gọi Ngài đứng lại nên đưa bát cho A Nan Đà. A Nan Đà hỏi:

 

- Vừa rồi anh nhận bát này của ai?

 

Đáp:

 

- Nhận của đức Phật.

 

A Nan Đà nói:

 

- Hãy dâng cho Phật.

 

Sau khi đáp: - Tôi không dám xúc phạm đấng Đại-sư, Nan Đà im lặng đi theo. Về đến chùa, sau khi rửa tay chân, Thế Tôn trải tòa và ngồi yên. Nan Đà dâng bát lên Thế Tôn. Sau khi thọ trai, Thế Tôn bảo Nan Đà:

 

- Người ăn cơm thừa của Ta không?

 

Nan Đà đáp:

 

- Con ăn.

 

Sau khi đưa cơm cho Nan Đà ăn xong, Thế Tôn bảo:

 

- Ông có thể xuất gia không?

 

Đáp:

 

- Có thể.

 

Xưa kia, khi Phật Thế Tôn hành Bồ tát đạo, không bao giờ trái nghịch lại lệnh của cha mẹ sư trưởng và các Tôn giả khác, nên nay có phước báo lời nói được nghe theo. Ngài bảo A Nan Đà:

 

- Ông hãy cạo râu tóc cho Nan Đà.

 

Sau khi thưa: - Xin vâng Thế Tôn! A Nan Đà sai người thợ cạo cạo tóc cho Nan Đà.

 

Thấy vậy, Nan Đà bảo người kia:

 

- Ngươi biết không, không bao lâu nữa, ta sẽ làm Lực Luân Vương. Nếu ngươi cạo tóc, sau này ta sẽ chặt cổ tay ngươi.

 

Nghe nói, người kia sợ hãi, thu xếp dao cạo dụng cụ muốn từ giã. A Nan Đà đến bạch Phật. Tự mình đến gặp Nan Đà, Phật hỏi:

 

- Nan Đà, ngươi không xuất gia?

 

Đáp:

 

- Con xin xuất gia.

 

Thế Tôn tự cầm bình nước dội trên đầu Nan-Đà, để tịnh nhân cạo tóc. Nan Đà suy nghĩ: "Ta hãy kính phụng Thế Tôn, tạm xuất gia, chiều sẽ về nhà". Đến chiều, Nan Đà theo đường về nhà. Khi ấy, Thế Tôn hóa ra một hố lớn giữa đuờng. Thấy hố này, Nan Đà suy nghĩ: "Vậy còn phải xa Tôn Đà La, không cách gì vượt qua được, ta nhớ nàng chắc chết mất, nếu còn sống sáng mai ta sẽ đi về". Biết ý của Nan Đà, Thế Tôn bảo A Nan Đa:

 

- Ông hãy đến bảo Nan Đà làm tri sự. A Nan Đa đến bảo:

 

- Thế Tôn sai hiền giả làm tri sự.

 

Hỏi:

 

- Thế nào là tri sự và sẽ làm việc gì?

 

Đáp:

 

- Kiểm soát việc cho Tăng chúng trong chùa.

 

Hỏi:

 

- Phải làm thế nào?

 

Đáp:

 

- Cụ thọ! Người tri sự, khi các Bí-sô đi khất thực, phải quét dọn trong chùa, dùng Tân Cù Ma trát nền cho sạch, để ý giữ gìn vật của Tăng không cho thất lạc, Tăng có việc bình luận thì làm người tác bạch, nếu có hoa hương nên phân cho chúng Tăng, đêm đóng cửa chùa, sáng mở ra, chùi rửa nơi đại tiểu tiện, tu bổ những nơi bị hư trong chùa.

 

Nghe như vậy, Nan Đà nói:

 

- Đại đức! Tôi sẽ làm tất cả theo lời Phật dạy.

 

Vào buổi sáng, các Bí-sô mặc y mang bát, vào thành Kiếp Tỷ La khất thực. Thấy trong chùa không còn ai, Nan Đà quét dọn với suy nghĩ:

 

"Quét dọn xong, ta sẽ về nhà". Biết rõ như vậy, bằng sức thần thông, Thế Tôn làm cho những nơi đã quét sạch rồi, dơ bẩn đầy trở lại. Sau khi suy nghĩ: "Ta phải dọn sạch nhơ bẩn mới được gọi là quét", Nan Đà vứt chổi, hốt dọn phẩn uế, nhưng vẫn không hết.

 

Nan Đà lại nghĩ: "Hãy đóng cửa bỏ đi". Biết như vậy, Thế Tôn làm cho Nan Đàđóng cửa này xong cửa khác lại mở ra. Quá buồn bực, Nan Đà suy nghĩ: "Dù giặc có phá tan chùa này cũng chẳng hại gì, khi lên làm vua ta sẽ làm lại trăm ngàn chùa đẹp hơn cả chùa này; vậy ta hãy về nhà". Với ý nghĩ nếu đi đường lớn sợ gặp Thế Tôn nên Nan Đà đi đường nhỏ. Biết như vậy, Phật đi ngược lại theo đường nhỏ. Trông thấy Phật nhưng không muốn gặp, Nan Đà núp vào dưới tàng cây um tùm bên đường đi. Sau khi làm cho nhánh cây nâng cao lộ hình tích Nan Đà ra, Phật hỏi:

 

- Ông đi đâu vậy?

 

Quá ngượng ngùng, Nan Đà đi theo đức Phật. Đức Phật suy nghĩ:

 

- Ông này rất luyến ái vợ, hãy làm cho từ bỏ.

 

Để tiếp độ, đức Phật đưa Nan Đà ra khỏi thành Kiếp Tỷ La đến thành Thất La Phạt. Đến nơi, Nan Đà trú ở vườn Tỳ Xá Khư mẹ Lộc Tử. Bấy giờ, nghe đức Phật có người em tên Nan Đà, thân như vàng ròng, đủ 30 tướng, chỉ thấp thua Phật bốn tấc, đang cùng Phật đến đây, Ty Xá Khư mẹ Lộc Tử suy nghĩ: "Ta hãy đến làm lễ để được tương kiến".

 

Vào buổi sáng, Nan Đà mặc y mang bát vào thành khất thực, tuần tự đến nhà mẹ Lộc Tử. Khi trông thấy dung mạo Nan Đà tuấn tú rực rỡ hơn người, với suy nghĩ: "Đây chẳng phải là em đức Phật hay sao". Với lòng tin trong sạch, Tỳ Xá Khư lạy sát xuống đất, đặt tay trên chân mềm mại của Nan Đà. Người nữ thật nguy hiểm tiếp xúc dễ gây tổn hại. Với bản tính đa dục, Nan Đà sinh tâm ô nhiễm, xuất tinh rơi trên đầu Tỳ Xá Khư. Biết như vậy, Thế Tôn biến chất bất tịnh kia thành dầu thơm Tô Hạp. Tay tiếp xúc với dầu này, ngửi thấy thơm nên suy nghĩ: "Vì sao ở đây có dầu thơm mùi vi diệu như vậy, phải do thần thông của Phật biến ra vật thơm này". Nan Đà sinh tâm phấn chấn lạ thường, tán thán:

 

- Lành thay Phật Đà! Lành thay Đạt Ma! Lành thay Tăng Già! Khéo thuyết giảng pháp luật không thể nghĩ bàn, làm cho kẻ đam mê dục lạc như loại nam tử Nan Đà cũng xuất gia đầu Phật chuyên tu tập phạm hạnh.

 

Khi ấy, với tâm hối hận, suy nghĩ: "Có phải ta đã phạm tội chúng giáo (tăng tàn) không". Nan Đà bạch với các Bí-sô. Bí-sô bạch Phật. Phật tuyên bố:

 

- Nan Đà không phạm. Nếu có người đa dục như vậy, nên dùng túi da bọc lại, chớ nghi ngờ.

 

Như Phật dạy:

 

- Người đa dục được sắm túi da.

 

Bí-sô không biết làm bằng da gì. Phật dạy:

 

- Dùng ba loại là da dê, nai, chuột.

 

Bí-sô dùng da sống nên có mùi hôi, Phật dạy:

 

- Nên thục rồi dùng, rửa sạch phơi khô.

 

Túi da đang phơi, Bí-sô gặp người nữ, sinh dục nhiễm, xuất tinh làm bẩn hạ y. Phật dạy:

 

- Nên làm hai cái, một cái phơi, một cái xử dụng.

 

Bị dính nhiều tinh, túi da bị ẩm hư, Phật dạy:

 

- Nên để trên vật lót phơi trên nền cát.

 

Có Bí-sô mang túi này đi dùng cơm, hoặc nhiễu tháp, Phật dạy:

 

- Tháo ra để chỗ khuất, sau khi rửa sạch tay mới được dùng cơm, hoặc lễ kính.

 

Một hôm, ngồi trên tảng đá, Nan Đà nhớ đến Tôn Đà La, vẽ hình cô ấy trên đá. Nhân đi ngang qua, thấy hình ấy trên đá, Đại Ca Diếp Ba hỏi:

 

- Nan Đà! Thầy làm gì vậy?

 

Đáp:

 

- Đại đức! Con vẽ hình Tôn Đà La.

 

Đại Ca Diếp bảo:

 

- Cụ thọ! Thế Tôn bảo Bí-sô nên làm hai việc: Một: là thiền định; Hai là học giáo pháp. Thầy không làm việc ấy, lại đi vẽ hình phụ nữ.

 

Nghe dạy, Nan Đà im lặng.

 

Sau khi nghe Ca Diếp thưa việc này, Phật suy nghĩ: "Bí-sô vẽ hình có lỗi ". Như vậy nên bảo các Bí-sô:

 

- Kẻ ngu si Nan Đà nhớ Tôn Đà La nên vẽ hình cô ấy. Thế nên Bí-sô không được vẽ hình, ai vi phạm bị tội vượt pháp.

 

Nghe Phật không cho vẽ hình, Bí-sô không dám thoa hương trên tháp. Phật hỏi A Nan Đà:

 

- Vì sao không dùng dầu thơm và bột hương thoa ở tháp thờ tóc móng Như Lai?

 

A Nan Đà đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Được phép dùng bột hương thoa tùy ý, nhưng không được vẽ hình tượng chúng sinh. Ai vi phạm bị tội vượt pháp. Nếu vẽ hình người chết hoặc bộ xương khô, không phạm.

 

Đức Phật suy nghĩ: "Nan Đà ngu si mê nhiễm, vẫn nhớ đến vợ mãi không bỏ tình ái được, hãy tạo điều kiện làm cho vị ấy không còn tâm ái nhiễm". Nên bảo Nan Đà:

 

- Trước đây, thầy từng thấy núi Hương Túy chưa?

 

Đáp:

 

- Chưa thấy.

 

Phật bảo:

 

- Hãy nắm lấy góc y của Ta.

 

Nan Đà vâng lời nắm góc y. Bấy giờ, như vua Thiên Nga, Thế Tôn bay lên hư không đến núi Hương Túy, kéo theo Nan Đà đang liếc nhìn sang hai bên. Thấy dưới gốc cây ăn trái, có một vượn cái mù, Nan Đà liền ngước mặt lên nhìn Thế Tôn.

 

- Ông thấy con vượn mù này không? Thế Tôn hỏi.

 

- Bạch Thế Tôn! Con thấy.

 

Phật hỏi:

 

- Ý ông thế nào? Con vượn cái mù này so với Tôn Đà La thì ai xinh đẹp hơn?

 

Đáp:

 

- Tôn Đà La thuộc giòng Thích ca, cũng như thiên nữ sắc đẹp số một, tuyệt thế vô song, con vượn này không bằng một phần ngàn cô ấy.

 

Phật hỏi:

 

- Ông đã thấy thiên cung chưa?

 

Đáp:

 

- Chưa thấy.

 

Sau khi nghe, Phật bảo Nan Đà nắm lấy góc y, Nan Đà tuân lệnh. Như thiên nga chúa, Thế Tôn bay lên hư không đến cõi trời Ba Mươi Ba, bảo với Nan Đà:

 

- Ông hãy đi xem những nơi xinh đẹpthiên cung.

 

Nan Đà đi dạo vườn Hoan hỷ, vườn Thể thân, vườn Thô thân, vườn Giao hợp, cây Viên sinh, Thiện Pháp đường, quan sát khắp các nơi, các khu vườn ấy của chư thiên với hoa trái ao tắm, nơi chơi đùa hoan lạc đặc biệt. Sau đó, Nan Đà đi vào thành Thiện Kiến thấy các loại trống nhạc kèn sáo với âm thanh vi diệu, cung điện thông suốt, giường màn rực rỡ, khắp nơi đều có thiên nữ xinh đẹp vui chơi. Nan Đà trông thấy một nơi chỉ có thiên nữ không có thiên tử, nên hỏi:

 

- Vì sao những nơi khác nam nữ ở chung cùng nhau hưởng thụ khoái lạc, còn ở đây chỉ thấy thiên nữ không thấy người nam.

 

Thiên nữ đáp:

 

- Thế Tôn có người em tên là Nan Đà theo Phật xuất gia chuyên tu tập phạm hạnh, sau khi qua đời sẽ sinh đến nơi này nên chúng tôi chờ đợi ở đây.

 

Nghe như vậy, Nan Đà rất vui mừng trở về gặp Phật. Thế Tôn hỏi:

 

- Ông thấy những việc xinh đẹp vi diệu của chư thiên chưa?

 

Đáp:

 

- Đã thấy.

 

Phật hỏi:

 

- Ông thấy gì?

 

Nan Đà kể lại hết với Thế Tôn về những điều đã thấy. Phật hỏi Nan Đà:

 

- Thấy thiên nữ không?

 

Đáp:

 

- Đã thấy.

 

Phật hỏi:

 

- Những thiên nữ này so với Tôn Đà La, ai xinh đẹp hơn?

 

- Bạch Thế Tôn! Đem Tôn Đà La so với Thiên nữ ở đây, cũng như đem con vượn mù ở núi Hương túy so với Tôn Đà La, không bằng một phần trăm ngàn vạn lần.

 

Phật bảo Nan Đà:

 

- Người tu tịnh hạnhthắng lợi này, ông hãy cố tu tập phạm hạnh, sẽ được sinh thiên hưởng thụ những khoái lạc này.

 

Nghe như vậy, Nan Đà lặng yên vui mừng.Sau khi Thế Tôn đưa Nan Đà ra khỏi thiên cung trở về rừng Thệ Đa, Nan Đàái mộ thiên cung nên tu tập phạm hạnh. Biết ý ông ấy, Phật bảo A Nan Đà:

 

- Ông đi bảo với các Bí-sô không ai được cùng với Nan Đà ngồi chung, không đi kinh hành một nơi, không phơi y cùng một cây sào, không để bát và bình nước chung, không ngồi tụng kinh chung.

 

Sau khi nghe A Nan Đà truyền lệnh của Phật, các Bí-sô đều phụng hành đúng Thánh chỉ. Thấy mọi người không sinh hoạt chung với mình, Nan Đà rất xấu hổ. Một hôm, A Nan Đà cùng các Bí-sô đang giúp nhau may y trong nhà. Thấy vậy, với ý nghĩ: "Các Bí-sô này đều bỏ rơi không chịu sinh hoạt chung với ta, nhưng A Nan Đà là em ta lẽ nào cũng ghét hay sao", Nan Đà liền đến ngồi chung. A Nan Đà vội vàng đứng dậy tránh đi. Nan Đà nói với A Nan Đa:

 

- Các Bí-sô khác tránh đi còn được, thầy là em tôi, tại sao cũng ghét?

 

A Nan Đa nói:

 

- Thật đúng vậy! Nhưng anh hành đạo khác, tôi phụng hành theo đường khác nên tránh nhau.

 

Hỏi:

 

- Đạo của tôi là gì? Đường nào của thầy?

 

Đáp:

 

- Anh thích sinh thiên nên tu tập phạm hạnh. Tôi vì đến Viên tịch nên trừ dục nhiễm.

 

Nghe như vậy, Nan Đà càng buồn rầu thêm.

 

Biết tâm niệm vị ấy, Thế Tôn bảo Nan Đà:

 

- Ông từng thấy địa ngục chưa?

 

- Bạch Thế Tôn! Chưa thấy.

 

Phật bảo:

 

- Hãy nắm lấy góc y của Ta.

 

Sau khi Nan Đà nắm góc y, Phật đưa vị này vào trong địa ngục. Đến nơi, Thế Tôn đứng qua một bên, bảo Nan Đà:

 

- Ông hãy đi xem các địa ngục.

 

Đi xem ngục Khôi hà trước, rồi đến Kiếm thọ Phẩn niệu Hỏa hà, Nan Đà thấy các chúng sinh bị các loại đau khổ ở đó, hoặc thấy bị kềm kéo lưỡi, nhổ răng, móc mắt, bị cưa cắt thân thể, bị búa rìu chặt chân tay, dùng mâu dáo khoét thân, dùng tay đánh, dáo đâm, dùng chùy đồng đập tan thân, dùng nước đồng sôi rót vào miệng, hoặc leo lên núi dao rừng kiếm, giã trong cối, nghiền dưới đá, ôm trụ đồng nằm giường sắt cháy đỏ, đau khổ vô cùng, hoặc thấy vạc nước sắt sôi sùng sục cháy rực rỡ nóng chảy tràn lan đốt nấu hữu tình, thấy những sự việc làm cho đau khổ như vậy, lại thấy một vạc sắt nước sôi sùng sục nhưng bên trong không có hữu tình nào cả. Thấy vậy, với sợ hãi, Nan Đà hỏi ngục tốt:

 

- Vì sao các vạc khác đều có đốt nấu hữu tình, riêng vạc này chỉ có nước sôi sục cháy?

 

Đáp:

 

- Nan Đà, em của Phật vì nguyện sinh thiên nên tu tập phạm hạnh, được sinh lên trời hưởng thụ khoái lạc tạm thời, sau khi qua đời vị ấy bị rơi vào vạc này. Vì vậy, chúng tôi đốt vạc để chờ.

 

Nghe nói như vậy, sợ hãi vô cùng, toàn thân nổi ốc, mồ hôi túa ra, với suy nghĩ:

 

- Nếu hắn biết ta là Nan Đà chắc bắt sống ta bỏ vào vạc.

 

Nan Đà vội vàng chạy về gặp Phật. Phật hỏi:

 

- Ông đã thấy địa ngục chưa?

 

Nan Đà khóc lóc như mưa, thở hào hển thưa chẳng ra hơi:

 

- Bạch! Con đã thấy.

 

Phật hỏi:

 

- Ông thấy vật gì?

 

Sau khi nghe Nan Đà kể lại đầy đủ, Phật bảo:

 

- Nếu nguyện cõi người hay cầu cõi trời mà tu phạm hạnh đều có hại như vậy. Vì vậy, ông nên cầu Niết bàn mà tu phạm hạnh, chớ cầu sinh thiên mà đưa đến cực khổ.

 

Nghe dạy xong, Nan Đà rất xấu hổ im lặng chẳng biết nói gì. Biết ý nghĩ của vị ấy, Thế Tôn ra khỏi địa ngục, về rừng Thệ Đa, bảo Nan Đà và các Bí-sô:

 

- Có ba cấu uế bên trong: Đó là tham dục, sân hận, ngu si, cần phải vứt bỏ tránh xa chúng. Các thầy nên tu học như vậy.

 

Trú ở rừng Thệ Đa chưa bao lâu, muốn tùy duyên hóa độ chúng sinh, cùng với các môn đồ, Thế Tôn du hành đến nước Chiêm Ba, trú bên bờ hồ Yết ca. Nan Đà cùng năm trăm Bí-sô cũng đi theo đến gặp Phật, làm lễ sát chân Thế Tôn, ngồi qua một bên. Thấy mọi người đã an tọa, Thế Tôn bảo Nan Đà:

 

- Ta có giáo pháp, đầu giữa cuối đều thiện, văn nghĩa vi diệu, thuần nhất viên mãn, thanh bạch phạm hạnh, đó là kinh Vào Thai Mẹ. Thầy hãy lắng nghe, hết sức chú ý, ghi nhớ thật kỹ, Ta sẽ giảng thuyết.

 

Nan Đà thưa:

 

- Xin vâng Thế Tôn! Con xin được nghe!

 

Phật dạy:

 

- Này Nan Đà! Tuy có thai mẹ nhưng có khi nhập và không nhập. Thế nào là thọ sinh vào thai mẹ? Nếu cha mẹ có tâm ô nhiễm giao hội nhau, bụng người mẹ ổn định, đến nguyệt kỳ, trung uẩn hiện tiền, nên biết chính là lúc nhập thai mẹ được. Hình trung uẩn này có hai loại: Một: hình sắc xinh đẹp; Hai: dung mạo xấu xa. Trung hữu địa ngục dung mạo xấu xa như khúc cây cháy nám. Trung hữu bàng sinh có sắc như khói. Trung hữu ngạ quỷ có sắc như nước. Trung hữu trời người có hình vàng kim. Trung hữu Sắc giới có sắc tươi trắng. Trời vô sắc giới khôngtrung hữu vì vốn không có sắc. Trung uẩn của hữu tình có hai tay hai chân, hoặc bốn chân nhiều chân, hoặc không có chân. Tuỳ theo nghiệp đã tạo sẽ sinh vào đâu, trung hữu cảm ứng theo hình trạng ấy. Nếu trung hữu cõi thiên thì đầu hướng lên; Người, bàng sinh, quỷ thì nằm ngang mà đi; Trung hữu địa ngục thì đầu ngược xuống. Các trung hữu đều có thần thông nương hư không mà đi, từ xa thấy chổ sinh, như có thiên nhãn. Nói đến nguyệt kỳ là trong thời gian thọ thai được.

 

Này Nan Đà có những người nữ trải qua ba ngày, năm ngày, nữa tháng, một tháng ... có người chờ đợi thời gian lâu thủy kỳ mới đến. Người nữ nào không có uy thế, chịu nhiều khổ cực, hình dung xấu xí, ăn uống không ngon, nguyệt kỳ có đến nhưng chấm dứt ngay, như đất khô khan, rảy nước xuống rất mau khô. Người nữ nào có uy thế, thường hưởng thụ an lạc, hình dáng xinh đẹp, được ăn uống ngon, nguyệt kỳ đến không chấm dứt mau, như khi đất ướt rãy nước lâu khô.

 

Thế nào là không nhập thai? Khi tinh cha xuất mà tinh mẹ không xuất; Tinh mẹ xuất mà tinh cha không xuất; Hay tinh cả hai đều không xuất thì không nhập thai. Nếu mẹ không ổn định mà cha ổn định, cha không ổn định mà mẹ ổn định, hay cả hai đều không ổn định cũng không thụ thai. Nếu căn môn của mẹ bị bệnh phong, bệnh vàng, bệnh phổi, bệnh tim, hoặc huyết khí kết ở thai, hoặc mọc thịt thừa, hoặc uống thuốc, bệnh mạch phúc, bệnh eo quá nhỏ, hoặc sản môn như miệng ngựa, hoặc bên trong như cây nhiều rễ, hoặc như đầu cày, hoặc như càng xe, hoặc như khúc dây leo, hoặc như lá cây, hoặc như đầu hạt lúa mạch, hoặc dưới bụng trên bụng sâu quá, hoặc chẳng có dạ con, hoặc thường chảy máu, hoặc như mỏ quạ thường mở không khép, hoặc trên dưới bốn bên rộng hẹp không bằng nhau, hoặc cao thấp lồi lõm, hoặc bên trong có trùng ăn làm hư hoại bất tịnh. Nếu người mẹ có những bệnh này thì không thể thọ thai. Hoặc cha mẹ tôn quý mà trung hữu ty tiện, hay trung hữu tôn quý cha mẹ ty tiện, như vậy cũng không thành thai. Nếu cha mẹtrung hữu cùng tôn quý, nhưng không cộng nghiệp cũng không thành thai. Nếu đối với cảnh cha mẹ quan hệ nhau mà trung hữu không luyến ái về nam hay nữ, cũng không thọ sinh.

 

Nan Đà! Thế nào là trung hữu được vào thai mẹ? Nếu bụng mẹ ổn định, trung hữu thấy đang làm việc dâm dục, không có những bệnh hoạn như nói ở trên, con với cha mẹnghiệp lực cảm ứng nhau, mới vào được thai mẹ.

 

Lại nữa, khi sắp vào thai, tâm trung hữu điên đảo luyến ái với mẹ, oán ghét với cha; Nếu là nam, luyến ái với cha; oán ghét mẹ, nếu là nữ. Nếu đã tạo các nghiệp trong đời quá khứ liền sinh vọng tưởng với tâm hiểu sai lầm, như tưởng lạnh lẽo, gió lớn, mưa lớn, mây mù ... hoặc nghe tiếng nhiều người cãi cọ nhau. Sau khi sinh tưởng này, rồi tùy theo nghiệp mạnh yếu, phát sinh mười tưởng hư vọng. Đó là:

 

Ta đang vào nhà; Ta sắp lên lầu; Ta lên đài điện; Ta lên giường tòa; Ta vào thảo am; Ta vào nhà lá; Ta vào vùng cỏ rậm; Ta vào trong rừng cây; Ta vào kẻ tường hở; Ta vào giữa rào.

 

Nan Đà! Khi trung hữu có niệm này liền vào thai mẹ. Nên biết, vừa thọ thai gọi là yết la lam, chính là tinh cha huyết mẹ, nhờ nhân duyên tinh huyết cha mẹ hòa hợp để thức dựa vào đó mà tồn tại. Như đổ lạc vào bình dùng nhân công lắc đều sẽ được tô, làm khác vậy thì không có. Nên biết, thân yết la lam cũng như tinh huyết bất tịnh của cha mẹ.

 

Lại nữa, này Nan Đà! Có bốn ví dụ, ông hãy lắng nghe. Như trùng sinh ra nhờ vào cỏ xanh; Cỏ không phải trùng, trùng không rời cỏ, nhưng dựa vào nhân duyên hòa hợp với cỏ nên sinh ra thân trùng mang màu sắc xanh.

 

Nan Đà nên biết! Thân yết la lam với tinh cha huyết mẹ cũng như vậy, do nhân duyên đại chủng hòa hợp nên sinh ra căn. Như dựa vào phân bò nên trùng sinh ra, phẩn không phải là trùng, trùng không rời phẩn, nhưng y vào nhân duyên hòa hợp với phẩn nên sinh ra thân trùng màu vàng.

 

Nan Đà nên biết! Thân yết la lam với tinh cha huyết mẹ cũng như vậy, do nhân duyên đại chủng hòa hợp nên sinh ra căn. Như dựa vào gai sinh ra trùng, gai không phải là trùng, trùng không rời gai, nhưng y vào nhân duyên hòa hợp với gai nên sinh ra thân trùng màu đỏ.

 

Nan Đà nên biết! Thân yết la lam với tinh cha huyết mẹ cũng như vậy, do nhân duyên hòa hợp nên sinh ra căn. Như y vào lạc sinh ra thân trùng có màu trắng. Nói rộng ... cho đến nhân duyên đại chủng hòa hợp nên sinh ra căn.

 

Lại nữa, Nan Đà! Y vào thân yết la lam bất tịnh của cha mẹ, địa giới hiện tiền, với tính chất cứng, thủy giới hiện tiền với tính chất ẩm ướt, hỏa giới hiện tiền với tính chất ấm nóng, phong giới hiện tiền với tính chất nhẹ động.

 

Nan Đà! Thân yết la lam bất tịnh của cha mẹ nếu chỉ có địa giới không có thủy giới, thì bị khô khan và phân tán hết, như tay nắm lấy bột tro khô. Nếu chỉ có thủy giới không có địa giới, thì bị phân ly như giọt dầu trên nước. Do thủy giới nên địa gi?i không rã, do địa giới nên thủy giới không trôi đi. Này Nan Đà! Nếu thân yết la lam có địa thủy giới mà không có hỏa giới, thì bị hư nát, như mùa hạ để cục thịt trong chỗ râm.

 

Này Nan Đà! Nếu thân yết la lam có địa thủy hỏa giới mà không có phong giới thì không thể phát triển to lớn. Chúng đều do nghiệp từ trước làm nhân, lại cùng làm duyên hổ trợ, cùng nhau chiêu cảm, thức mới được sinh. Địa giới nâng đỡ, thủy giới kết dính, hỏa giới làm chín, phong giới làm tăng trưởng.

 

Này Nan Đà! Như có người hay đệ tử người ấy, điều chế đường cát dùng hơi thổi vào làm cho phồng lên nhưng bên trong rỗng như ngó sen. Đại chủng địa thủy hỏa phong trong thân do nghiệp lực làm tăng trưởng cũng như vậy.

 

Nan Đà! Chẳng phải chỉ có chất bất tịnh của cha mẹ mà có yết la lam, cũng chẳng phải riêng bụng mẹ, cũng chẳng phải riêng nghiệp, chẳng phải riêng nhân hay riêng duyên, mà phải do các yếu tố này hòa hợp mới trở thành thai. Như hạt giống mới không bị gió nắng làm hư hoại, chắc không bị lép, được cất giữ đúng cách, đem gieo xuống ruộng tốt đủ độ ẩm ướt, có các yếu tố hòa hợp nhau mới mọc thành mầm, lần lượt phát triển thành cành lá hoa trái. Như vậy, nên biết là không phải chỉ có cha hay mẹ hay riêng các duyên khác mà có thai, phải do tinh cha huyết mẹ hợp cùng các nhân duyên khác mới thành thai.

 

Nan Đà! Như người có mắt sáng tìm lửa, đem ngọc nhật quang đặt vào ánh sáng mặt trời, để trên phân bò khô thì lửa phát sinh. Như vậy nên biết nhờ vào tinh cha huyết mẹ và các duyên hòa hợp mới có thai. Bất tịnh của cha mẹ hợp thành yết la lam gọi là sắc, thọ, tưởng, hành, thức là danh, nên gọi là danh sắc. Tụ uẩn các danh sắc đáng chán này phát sinh các hữu, cho đến trong một sát na nhỏ nhất ta cũng không tán thán nó. Vì sao? Đời sống trong các hữu thật là khổ. Ví như phẩn uế, dù chút ít cũng hôi thối.

 

Như vậy nên biết! Đời sống trong các hữu dù nhỏ nhất cũng khổ. Năm thủ uẩn sắc, thọ, tưởng, hành, thức này đều có sinh trú tăng trưởng hoại diệt. Sinh là khổ, trú là bệnh, tăng trưởng hoại diệt là già chết.

 

Vậy nên, này Nan Đà! Đối với biển hữu, ai lại ưa thích mùi vị ái. Nằm trong thai mẹ chịu đau khổ khốc liệt như vậy.

 

Lại nữa, này Nan Đà! Như vậy nên biết rằng, phàm nhập thai, nói theo số lớn thì có ba mươi tám lần bảy ngày. Trong bảy ngày đầu, thai trong bụng mẹ như quặng, như ung nhọt nằm trong phẩn uế, như trong bầu dầu thân căn và thức cùng ở một chổ bị nung nấu nóng bức khổ vô cùng nên gọi là yết la lam, thể trạng như cháo lỏng hoặc như lạc tương. Trong bảy ngày bị nung nấu, tính cứng của địa giới, tánh ướt của thủy giới, tánh nóng của hỏa giới, tánh động của phong giới mới hiện tiền.

 

Này Nan Đà! Bảy ngày thứ hai, thai trong bụng mẹ nằm chung nơi nhơ uế như trong bầu dầu thần căn và thức cùng ở một chổ, bị nung nấu nóng nảy thật là cực khổ. Trong bụng mẹ có gió tự nổi lên gọi là xúc chạm khắp, do nghiệp trước sinh ra khi xúc chạm vào thai gọi là yên bộ đà, dạng như sữa đặc hay bơ, bị nung nấu, trong bảy ngày này có bốn đại chủng hiện tiền.

 

Này Nan Đà! Bảy ngày thứ ba, nói rộng như trước, trong bụng mẹ có gió tên dao cắt miệng do nghiệp trước kia sinh ra, khi tiếp xúc như cắt vào thai, gọi là bế thi, dạng như đũa sắt hay con giun, trong bảy ngày này, bốn đại chủng hiện tiền.

 

Này Nan Đà! Trong bảy ngày thứ tư, nói rộng như trước, trong bụng mẹ có gió tên là nội khai, do nghiệp trước kia sinh ra, thổi vào thai như tên bắn, gọi là kiện nam, dạng như chiếc hài hay như cục đá ôn (serpentine), trong bảy ngày này bốn đại chủng hiện tiền.

 

Này Nan Đà! Trong bảy ngày thứ năm, nói rộng như trên, trong bụng mẹ có gió tên là nhiếp trì. Gió này tiếp xúc với thai có năm tướng hiện ra, đó là hai chi tay, hai đùi, và đầu. Như mùa xuân, trời mưa nước ngọt, rừng cây phát triển cành nhánh rậm rạp, giống như năm tướng biểu hiện ở đây.Nan Đà! Trong bảy ngày thứ sáu, trong thai mẹ có gió tên là quảng đại. Khi gió này tiếp xúc vào thai, có bốn tướng hiện ra. Đó là hai khuỷu tay và hai đầu gối. Vào mùa xuân, mưa rơi cỏ tranh mọc cọng như bốn tướng hiển hiện ở đây.

 

Nan Đà! Trong bảy ngày thứ bảy, trong bụng mẹ có gió tên là toàn chuyển. Khi gió này tiếp xúc với thai có bốn tướng hiện ra, là hai bàn tay và hai bàn chân, bốn tướng này như bọt tụ hoặc như rêu nước.

 

Này Nan Đà! Vào bảy ngày thứ tám, trong bụng có gió tên là phiên chuyển. Khi gió này tiếp xúc thai, có 20 tướng hiện ra. Đó là 20 ngón tay chân mới mọc ra như trời mưa mới, rễ cây mọc ra.

 

Này Nan Đà! Vào bảy ngày thứ chín, trong bụng mẹ có gió tên là phân tán. Gió này tiếp xúc vào thai, có chín tướng trạng xuất hiện, đó là: Hai mắt, hai tai, hai mũi, miệng, và hai nơi đại tiểu.

 

Này Nan Đà! Vào bảy ngày thứ mười, trong bụng mẹ có gió tên kiên tiện, làm cho thai cứng lại. Trong bảy ngày này trong thai mẹ lại có gió tên phổ môn, thổi phồng bọc thai lên, như cái phao được thổi đầy khí.

 

Này Nan Đà! Vào bảy ngày thứ mười một, trong thai mẹ có gió tên sơ thông. Tiếp xúc với gió này, làm cho thai thông triệt, chín lỗ xuất hiện hết. Khi mẹ đi đứng nằm ngồi làm việc ... gió này xoay chuyển theo khoảng trống thông ra làm cho các lỗ lớn lên. Nếu gió thổi lên, làm lỗ trên mở ra, nếu thổi xuống, làm thông lỗ dưới. Như người thợ rèn và đệ tử họ, dùng ống bể quạt thổi khí lên xuống, luồng gió thổi qua rồi tự ẩn mất.

 

Này Nan Đà! Vào bảy ngày thứ mười hai, trong thai mẹ có gió tên khúc khẩu. Gió này thổi hai bên thai tạo thành đại tiểu trường quấn quít trong thân, cũng như tơ sen. Ngay trong bảy ngày này, có gió tên xuyên phát, ngay trong thai phát sinh đúng 120 chi tiết, lại do sức của gió làm thành 101 chỗ giữ lại.

 

Này Nan Đà! Vào bảy ngày thứ mười ba, trong thai mẹ do sức gió ở trước nên thai nhiđói khát. Khi mẹ ăn uống, những chất bổ dưỡng theo cuống rốn dẫn vào để nuôi thân thai nhi.

 

Nan Đà! Vào bảy ngày thứ mười bốn, trong bụng mẹ có gió tên tuyến khẩu. Gió này làm cho thai mọc ra một ngàn sợi gân. Trước thân có 250, sau thân có 250, bên phải có 250, bên trái có 250.

 

Nan Đà! Vào bảy ngày thứ mười lăm, trong bụng mẹ có gió tên liên hoa, làm cho thai nhi hình thành hai mươi loại mạch để hấp thụ chất bổ dưỡng. Trước thân có năm, sau thân có năm, bên phải có năm, bên trái có năm. Các mạch này có nhiều tên và nhiều màu sắc, hoặc tên bạn, hoặc tên lực, hoặc tên thế sắc, các màu sắc như xanh, vàng, đỏ, trắng, đậu tô, dầu lạc ... Lại có những màu xen lẫn nhau.

 

Nan Đà! Hai mươi mạch này, mỗi mạch lại có bốn mươi mạch phụ, hợp thành tám trăm mạch hấp thụ khí, ở trước sau hai bên thân mỗi nơi có hai trăm mạch.

 

Nan Đà! Tám trăm mạch này đều có một trăm đường mạch phụ thuộc, hợp lại có tám vạn, trước sau hai bên mỗi nơi có hai vạn.

 

Nan Đà, tám vạn mạch này có nhiều lỗ trống, một hai cho đến bảy lỗ. Mỗi lỗ tiếp nối theo lỗ chân lông, như ngó sen có nhiều lỗ trống.

 

Nan Đà! Vào bảy ngày thứ mười sáu, trong thai mẹ có gió tên Cam lộ hành. Gió này có khả năng tạo điều kiện hình thành chỗ hai ổ mắt, hai tai, hai mũi, cuống họng ngực và ức của thai nhi, làm cho thức ăn đi vào có chổ chứa lại, làm cho thống suốt hấp thụ hơi thở vào ra. Như người thợ gốm và đệ tử lấy cục đất sét nhuyễn đặt trên bàn quay, tuỳ theo hình dáng của vật mà nắn làm cho không bị sai lạc. Ở đây, do gió nghiệp mà tùy chổ bố trí ổn định vị trí con mắt ... Như vậy, cho đến làm cho hơi thở vào ra thông suốt không sai lạc.

 

Nan Đà! Vào bảy ngày thứ mười bảy, trong thai mẹ có gió tên Mao phất khẩu. Gió này làm chỗ cho chất dinh dưỡng đi vào mắt tai mũi miệng yết hầu, ngực ức của thai nhi, làm cho nó trơn láng để hơi thở ra vào tận nơi. Như người thợ giỏi hay đệ tử họ dùng dầu và tro chùi tấm kính bị bụi ố, hoặc dùng đất mịn chà làm sạch. Ở đây do gió nghiệp làm cho an trí nơi chỗ không có trở ngại.

 

Nan Đà! Vào bảy ngày thứ mười tám, trong thai mẹ có gió tên vô cấu, làm cho sáng sạch sáu căn của thai nhi. Như mây lớn che nhật nguyệt, có gió lớn nổi lên thổi mạnh mây tan tứ tản, làm nhật nguyệt sáng lạn.

 

Nan Đà! Sức gió nghiệp này làm cho sáng sạch sáu căn của thai cũng như vậy.

 

Nan Đà! Vào bảy ngày thứ mười chín, thai nhi trong bụng mẹ hình thành bốn căn mắt tai mũi lưỡi. Khi vào thai mẹ, trước tiên được ba căn là thân mạng và ý. Nan Đà! Vào bảy ngày thứ hai mươi, trong bụng mẹ có gió tên kiên cố. Gió này làm cho chân trái sinh ra 20 đốt xương ngón chân, chân phải cũng sinh 20 xương, bàn chân bốn xương, bắp tay hai xương, đầu gối hai xương, đùi vế có hai xương, bàn tọa có ba xương, xương sống mười tám cái, xương sườn có hai mươi bốn cái, bàn tay trái có hai mươi xương, bàn tay phải có hai mươi xương, cổ tay có hai xương, tay có bốn xương, ngực có bảy xương, vai có bảy xương, cổ sau có bốn xương, cầm có hai xương, răng có ba mươi hai cái, sọ có bốn xương.

 

Nan Đà! Như thợ làm tượng hay đệ tử ông ta, trước tiên dùng gỗ làm sườn, sau đó quấn dây chung quanh, cuối cùng đắp đất lên làm thành hình tượng. Sức gió nghiệp này, xếp đặt các đốt xương cũng như vậy, trừ các xương nhỏ khác.

 

Nan Đà! Vào bảy ngày thứ hai mươi mốt, trong bụng mẹ có gió tên sinh khởi, làm sinh ra thịt trên thân thai nhi. Như người thợ hồ trước hết nhồi bùn, sau đó tô lên vách, gió này sinh thịt cũng như vậy.

 

Nan Đà! Vào bảy ngày thứ hai mươi hai, trong bụng mẹ có gió tên phù lưu. Gió này làm cho thai nhi sinh máu.

 

Nan Đà! Vào bảy ngày thứ hai mươi ba, trong bụng mẹ có gió tên phù trì. Gió này làm cho thai nhi sinh da.

 

Nan Đà! Vào bảy ngày thứ hai mươi bốn, trong thai mẹ có gió tên tư mạn. Gió này làm cho da dẻ thai nhi bóng láng.

 

Nan Đà! Vào bảy ngày thứ hai mươi lăm, trong bụng mẹ có gió tên Trì thành. Gió này làm cho máu thịt thai nhi càng thêm dồi dào.

 

Nan Đà! Vào bảy ngày thứ hai mươi sáu,trong bụng mẹ có gió tên sinh thành, làm cho thai nhi sinh ra tóc lông móng tay móng chân chúng đều liên kết với các mạch máu.

 

Nan Đà! Vào bảy ngày thứ hai mươi bảy, trong bụng mẹ có gió tên Khúc nghiệp. Gió này làm cho tóc lông móng tay móng chân của thai nhi được hoàn thiện.

 

Nan Đà! Nếu nghiệp trước đây của thai nhi, là keo kiệt biển lận tài sản nên giữ chặt không bố thí, không nghe lời dạy của cha mẹ sư trưởng, vì thân miệng ý tạo nghiệp bất thiện, ngày đêm tăng trưởng thì thọ báo này:

 

- Sinh vào loài người thì bị quả báo không vừa ý. Nếu người đời cho dài là đẹp thì họ bị ngắn, nếu cho ngắn là đẹp thì họ bị dài, nếu cho thô là đẹp thì họ bị nhỏ bé, nếu cho nhỏ bé là đẹp thì họ bị thô, nếu cho chi tiết khít nhau là đẹp thì họ bị rời rạc, nếu cho rời rạc là đẹp thì họ bị khít nhau, nếu cho nhiều là đẹp thì họ bị ít, nếu cho ít là đẹp thì họ bị nhiều, nếu thích mập thì họ bị ốm, nếu thích ốm thì họ mập, thích khiếp nhược thì họ dũng mãnh, thích dũng mãnh thì họ khiếp nhược, ưa trắng thì họ đen, ưa đen thì họ trắng.

 

Này Nan Đà! Lại do nghiệp ác đưa đến quả báo điếc mù câm ngọng, ngu si xấu xí, ngôn ngữ nói ra mọi người không thích nghe, tay chân cong vẹo hình dáng như ngạ quỷ, thân thuộc đều ghét không thích nhìn đến huống chi người khác. Có ba loại nghiệp này nên khi nói với người, họ không tin và không để ý đến. Vì sao vậy? Do đời trước họ tạo nghiệp ác nên bị quả báo này.

 

Nan Đà! Do trước đây thai nhitu tập phước nghiệp, thích bố thí thương xót người bần cùng, không có tâm tham lam keo kiệt tài vật. Nghiệp đã làm này ngày đêm tăng trưởng, sẽ nhận ấy quả báo tốt. Nếu sinh vào loài người thì được nhận quả báo vừa ý. Nếu người đời cho dài là đẹp thì họ được dài, cho ngắn là đẹp thì được ngắn, thô hay nhỏ đều đúng cỡ, các chi tiết đều thích nghi, nhiều ít mập ốm dũng mãnh khiếp nhược nhan sắc ai thấy cũng thương mến, sáu căn đầy đủ xinh đẹp tuyệt trần, ngôn ngữ phân minh âm thanh hòa nhã, đầy đủ tướng mạo con người, ai cũng ưa nhìn, có ba nghiệp ấy khi nói với người, họ đều tin nhận và chú ý đến. Vì sao? Do đời trước họ tạo thiện nghiệp nên nay được quả báo này.

 

Nan Đà! Nếu thai ấy là nam thì ngồi xổm bên hông phải mẹ, hai tay ôm mặt hướng vào xương sống của mẹ. Nếu là nữ thì ngồi xổm bên hông trái mẹ, hai tay ôm mặt hướng ra ngoài bụng mẹ, dưới sinh tạng trên thục tạng, bị sinh vật đè xuống thục vật đẩy lên, như trói chặt thân thể để trên cọc nhọn, mẹ ăn nhiều hay ít thai nhi đều bị khổ não. Như vậy, nếu mẹ ăn quá béo hay quá khô cứng, quá lạnh quá nóng, quá mặn nhạt đắng chua ngọt cay, thai nhi đều bị thống khổ. Nếu mẹ hành dục hoặc đi nhanh, khi ngồi chỗ khó khăn, ngồi lâu, nằm lâu, nhảy nhót, thai nhi đều bị khổ.

 

Nan Đà nên biết! Thai nhi ở trong thai mẹ có những đau khổ như vậy, sự chèn ép thân thể không thể nói hết. Loài người còn chịu khổ như vậy huống chi khổ cực trong đường ác địa ngục khó ví dụ được. Thế nên Nan Đà! Ai là người trí lại thích sống trong sinh tử, nơi biển khổ vô biên chịu ách nạn như vậy.

 

Nan Đà! Vào bảy ngày thứ hai mươi tám, thai nhi trong bụng mẹ sinh ra sáu tưởng điên đảo. Đó là: tưởng về nhà, xe, vườn, lầu gác, rừng cây, giường tòa, sông, ao. Những thứ ấy không thật có chỉ do vọng tưởng phân biệt.

 

Nan Đà! Vào bảy ngày thứ hai mươi chín, trong thai mẹ có gió tên Hoa điều. Gió này thổi vào thai nhi làm cho màu sắc thân thể trở nên trắng đẹp sáng sạch, hoặc do nghiệp lực làm cho đen đúa, hoặc màu xanh, hoặc trở thành các loại nhan sắc xen lẫn khác, hoặc làm khô khan không có tươi nhuận, ánh sáng trắng hay đen tùy theo màu sắc mà có.

 

Nan Đà! Vào bảy ngày thứ ba mươi, trong bụng mẹ có gió tên Thiết khẩu. Gió này thổi làm cho tóc lông móng tay móng chân thai nhi tăng trưởng. Các màu sáng trắng đen đều tùy theo nghiệp hiện ra, như nói ở trên.

 

Nan Đà! Vào bảy ngày thứ ba mươi mốt, trong bụng mẹ, thai nhi lớn dần. Theo như vậy đến bảy ngày thứ ba mươi hai, ba mươi ba, ba mươi bốn, thai nhi phát triển to lớn.

 

Nan Đà! Vào bảy ngày thứ ba mươi lăm, trong thai mẹ, các chi thể của thai nhi đã đầy đủ.

 

Nan Đà! Vào bảy ngày thứ ba mươi sáu, thai nhi không thích ở trong thai mẹ nữa.

 

Nan Đà! Vào ngày thứ ba mươi bảy, trong thai mẹ, thai nhi bỗng sinh ra ba tưởng không điên đảo. Đó là bất tịnh tưởng, xú uế tưởng, hắc ám tưởng (nói theo như trước một phần)...

 

Nan Đà! Bảy ngày thứ ba mươi tám, trong bụng mẹ có gió tên Lam hoa. Gió này làm cho thai nhi di chuyển thân thể trở xuống, duỗi thẳng hai tay, hướng về sản môn. Lại có gió tên Thú hạ, do nghiệp lực nên gió thổi vào thai nhi làm cho đầu quay xuống dưới, chân hướng lên trên, sắp ra khỏi sản môn.

 

Nan Đà! Nếu đời trước, thai nhi ấy có tạo nghiệp ác và làm đọa thai người, do nhân duyên này khi sắp sinh ra, tay chân ngang ngược không nằm xuôi chiều, và bị chết trong bụng mẹ. Khi ấy, nếu người nữ có trí tuệ hoặc thầy thuốc giỏi, dùng dầu bơ ấm, nước vỏ cây du, và các chất trơn khác bôi lên tay, dùng ngón tay giữa kẹp dao nhỏ thật bén, mũi nhọn sắc bén. Bên trong như hầm phẩn tối đen hôi hám thật gớm. Có vô số vi trùng ở đó, nước hôi thường chảy ra, tinh huyết hư thật đáng nhàm chán, da mỏng che đậy, vết thương của thân ác nghiệp này nhơ bẩn như vậy. Đưa tay vào đó dùng dao bén cắt thân thai nhi thành từng mảng lấy ra ngoài. Do đó người mẹ chịu đau khổ vô cùng không vừa ý, vì vậy qua đời. Nếu còn sống không khác gì chết.

 

Nan Đà! Nếu thai nhi nhờ vào thiện nghiệp đã làm, dù có điên đảo nhưng không gây tổn hại mẹ, an ổn sinh ra không chịu đau khổ.

 

Này Nan Đà! Giai đoạn đó chỉ là tầm thường không thể so với ách nạn vào bảy ngày thứ ba mươi tám này. Khi sắp sinh, mẹ chịu khổ lớn, tính mệnh gần như chết mới sinh được thai.

 

Này Nan Đà! Ông hãy quán sát kỹ để câu xuất ly.

 

CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ

TỲ-NẠI-DA TẠP SỰ

 

Quyển thứ mười một hết.

 

--- o0o ---

Quyển thứ mười hai

 

--- ooOoo ---

 

Tiếp theo tụng mười trong biệt môn hai (nhân duyên về Nan-đà).

 

Phật bảo Nan Đà:

 

- Thai nhi vừa sinh ra rất cực khổ. Nam hay nữ khi mới sinh được đặt vào tay người, dùng tả quấn lại suốt ngày để tại nơi bóng mát, hoặc trên nôi lắc, hoặc trên giường chiếu, bị ôm trong lòng nên phải chịu nhiều khó chịu cực khổ.

 

Nan Đà! Như trâu bị lột da ở gần tường thì bị trùng ở tường rúc rỉa, ở gần cỏ cây thì trùng ở cỏ cây rúc rỉa, gần chỗ trống thì các loại trùng khác rúc rỉa, đều bị đau đớn, khi mới sinh cũng vậy. Dùng nước nóng tắm rửa, em bé phải chịu đau khổ, như người bị hủi da dẻ lở lói máu mủ tuôn ra, lại bị đánh đập bằng gậy, chịu khổ vô cùng. Đứa bé mới sinh phải uống máu đục của mẹ mới lớn lên được. Này Nan Đà! Sữa mẹ trong Thánh Pháp Luật gọi là máu đục.

 

Này Nan Đà! Cực khổ như vậy thật vô cùng chẳng có chút nào vui cả, có người trí nào lại luyến ái với biển khổ này để bị lưu chuyển mãi không ngừng nghỉ. Sinh được bảy ngày, trong thân có tám vạn hộ trùng tung hoành ăn rỉa.

 

Nan Đà! Có một loại hộ trùng tên ăn tóc, sống ở chân tóc và ăn tóc. Có hai loại hộ trùng: Một tên Trượng tạng, một tên Thô đầu, sống tên đầu và ăn ở đó. Có một loại hộ trùng tên Nhiễu nhãn, sống trong mắt và ăn ở mắt. Có bốn loại hộ trùng: Một tên Khu trục, hai tên Bôn tẩu, ba tên Ốc trạch, bốn tên Viên mãn sống ở não và ăn não. Có một loại hộ trùng tên Đạo diệp, sống trong tai và ăn tai. Có một loại hộ trùng tên Tàng khẩu sống trong mũi và ăn mũi. Có hai loại hộ trùng: Một tên Diêu trịch, hai tên Biến trịch sống ở môi và ăn môi. Có một loại hộ trùng tên Mật diệp, sống ở răng và ăn răng. Có một loại trùng tên Mộc khẩu, sống ở chân răng và ăn chân răng. Có một loại trùng tên là Châm khẩu, sống ở lưỡi và ăn lưỡi. Có một loại hộ trùng tên Lợi khẩu sống ở chân lưỡi và ăn chân lưỡi. Có một loại hộ trùng tên là Thủ viên sống trong răng và ăn ở đó. Có hai loại hộ trùng: Một tên Thủ cương, hai tên Bán khuất, sống nơi bàn tay và ăn bàn tay. Có hai loại hộ trùng: Một là Đoản huyền, hai là Trường huyền, sống ở cổ tay và ăn ở đó. Có hai loại trùng: Một là Viễn tý, hai là Cận tý, sống ở tay và ăn tay. Có hai loại trùng: Một là Dục thôn, hai là Dĩ thôn, sống ở yết hầu, ăn yết hầu. Có hai loại hộ trùng: Một là oán, hai là Đại oán, sống ở ngực, ăn ở ngực. Có hai loại hộ trùng: Một là Luy bối, hai là Luy khẩu, sống trong thịt ăn thịt. Có hai loại hộ trùng: Một là hữu sắc, hai là Hữu lực, sống trong máu ăn máu. Có hai loại trùng: Một là Dũng kiện, hai là Hương khẩu, sống trong gân ăn gân. Có hai loại hộ trùng: Một là bất cao, hai là hạ khẩu, ở xương sống, ăn xương sống. Có hai loại hộ trùng: đều tên là Chỉ sắc, sống trong mỡ ăn mỡ. Có một loại trùng tên là Màu vàng, sống theo màu vàng ăn màu vàng. Có một loại trùng tên Chân châu, sống ở thận ăn thận. Có một loại trùng tên là Đại chân châu, sống ở eo và ăn eo. Có một loại hộ trùng tên Vị chíbàn tọa ăn bàn tọa. Có bốn loại trùng: Một tên Thủy mạng, hai tên Đại thủy mạng, ba tên Châm khẩu, bốn tên Lực khẩu, sống trong ruột ăn ruột. Có năm loại hộ trùng: Một tên Nguyệt mãn, hai tên Nguyệt diện, ba tên Huy hoàng, bốn tên Huy diện, năm tên biệt trú, sống bên hông phải và ăn ở đó. Lại có năm loại trùng: Tên giống như trên, sống bên hông trái và ăn ở đó. Có bốn loại trùng: Một tên Xuyên tiền, hai tên Xuyên hậu, ba tên Xuyên kiên, bốn tên Xuyên trú, sống trong xương và ăn xương. Có bốn loại hộ trùng: Một tên Đại bạch, hai tên Tiểu bạch, ba tên Trùng vân, bốn tên Xú khí, sống theo mạch và ăn mạch. Có bốn hộ trùng: Một là Sư tử, hai là Bị lực, ba là Cấp tiễn, bốn là Liên hoa, sống trong sinh tạng và ăn sinh tạng. Có hai loại trùng: Một là An chí, hai là Cận chí, sống trong thục tạng và ăn thục tạng. Có bốn hộ trùng: Một là Diêm khẩu, hai là Uẩn khẩu, ba là Võng khẩu, bốn là Tước khẩu, sống nơi đường tiểu, ăn nước tiểu mà sống. Có bốn hộ trùng: Một tên Ưng tác, hai tên Đại tác, ba tên Tiểu hình, bốn tên Tiểu kích, sống trong đường đại tiện, ăn phẩn để sống. Có hai hộ trùng: Một tên Hắc khẩu, hai tên Đại khẩu, sống ở đùi vế ăn đùi vế. Có hai hộ trùng: Một tên lại, Hai tên tiểu lại, sống ở đầu gối ăn đầu gối. Có một hộ trùng tên Ngu căn, sống ở bắp chân ăn bắp chân. Có một hộ trùng tên Hắc cảnh, sống ở dưới chân, ăn dưới chân.

 

Nan Đà! Thân thể như vậy thật đáng nhàm chán. Thân thể bằng sắc chất này thường có tám vạn hộ trùng ngày đêm ăn nuốt. Do đó, làm cho thân thể bị nóng bức, gầy ốm, mệt mỏi, đói khát. Lại nữa, trong tâm có biết bao khổ não âu sầu buồn phiền ... các bệnh hiện hữu mà không có lương y nào có thể trị liệu được.

 

Này Nan Đà! Trong biển hữu lớn sinh tửkhổ não như vậy, tại sao sinh ưa thích sống trong ấy? Lại nữa sinh mạng bị các thần các bệnh nắm giữ, đó là Thiên thần, Long thần, Bát bộ và các quỷ thần cho đến Yết thát bố đơn na, hoặc bị các cầm thú quỷ quái khác nắm giữ, hoặc bị nguy ách bởi nhật nguyệt các sao. Các loại quỷ thần này gây ra bệnh hoạn, hành hạ gây khổ thân không thể nói cho hết được.

 

Đức Phật bảo Nan Đà:

 

- Ai đối với sinh tử lại ưa thích vào thai mẹ để chịu khổ cực vô cùng. Sinh thành như vậy, trưởng thành như vậy, uống máu sữa mẹ vọng tưởng là ngon, và uống các thứ khác dần dần trưởng thành. Giả sử thân thể được an lạc không bệnh, ăn mặc vừa ý, sống hết trăm năm, cũng đã ngủ gần một nữa đời sống. Trước tiên là trẻ sơ sinh, sau đó là đồng tử, dần dần trưởng thành bị ưu buồn khổ nạn áp bức. Vô lượng khổ não quấy nhiễu thân thể, không thể nói hết. Trong thân, khi bị các khổ không chịu nổi thì không muốn sống nữa, ý chỉ muốn chết. Thân như vậy có khổ nhiều vui ít, tuy duy trì tạm thời, nhưng chắc sẽ hoại diệt.

 

Này Nan Đà! Sinh đều phải chết, không có trường tồn. Giả sử dùng thuốc, thức ăn để nuôi dưỡng mạng sống kéo dài nhiều năm, cuối cùng cũng không thể thoát khỏi bị thần chết giết hại, bỏ ra đồng trống. Vì vậy, đời sống này thật không đáng thích thú, nên chuyên cần tích tụ tư lương cho đời sau, không nên phóng dật, siêng tu tập phạm hạnh chớ nên lười biếng ; Thường nên thích thú tu tập lợi hạnh, pháp hạnh, công đức hạnh, thuần thiện hạnh. Tự thân luôn quán sát hai nghiệp thiện ác, giữ gìn tâm ý, chớ để sau này hối hận lớn. Tất cả những gì đáng ưa thích, đều phải biệt ly, tuỳ theo nghiệp thiện ác đưa đến đời sau.

 

Nan Đà! Đời sống một trăm năm, có mười giai đoạn. 1- Khi là trẻ sơ sinh nằm trong tả lót. 2- Đồng tử thích đùa giỡn theo trẻ em. 3- Thiếu niên, cảm thọ các dục lạc. 4- Thiếu tráng mạnh khỏe sung sức. 5- Thịnh niên có trí đàm luận. 6- Đã trưởng thành có thể suy nghĩ đúng, tính toán giỏi. 7- Tay nghề và trí thức cạn dần. 8- Tuổi già, các việc suy nhược. 9- Quá già không làm gì được. 10- Trăm tuổi là chờ chết.

 

Nan Đà! Nói những giai đoạn lớn, đại khái là như vậy. Nếu tính bốn tháng là một mùa thì một trăm năm có ba trăm mùa. Mỗi mùa Xuân, Hạ, Đông đều có một trăm lần. Một năm có mười hai tháng, tổng số tháng trong một trăm năm là một ngàn hai trăm tháng. Nếu tính theo nữa tháng thì tổng số có 2400 lần nữa tháng. Trong ba thời đều có 800 lần nữa tháng. Tổng số có ba vạn sáu ngàn ngày đêm. Mỗi ngày ăn hai lần, tổng số có bảy vạn hai ngàn lần ăn, tuy có lúc không ăn nhưng cũng nằm trong số này. Lý do không ăn có: Sân hận nên không ăn, gặp khổ nên không ăn, mong cầu nên không ăn, khi ngủ nghỉ, giữ trai giới, vui đùa cũng không ăn, bận việc nên không ăn.

 

Ăn hay không ăn, cộng lại có số lượng như trên, cùng với uống sửa mẹ. Ta đã nói đầy đủ về số lượng năm tháng ngày đêm ăn uống của mạng người trong một trăm năm, ngươi nên sinh tâm nhàm chán.

 

Nan Đà! Như vậy từ khi sinh ra đến khi trưởng thành, thân có nhiều bệnh. Đó là: Đầu, mắt, tai, mũi, lưỡi, răng, yết hầu, ngực, bụng, tay, chân, ghẻ, hủi, điên cuồng, phù thủng, ho hen, phong vàng, tim bị nhiệt, nhiều loại bệnh sốt rét, thân thể đau nhức.

 

Này Nan Đà! Trong thân người có những bệnh khổ như vậy. Lại có 101 bệnh về phong, 101 bệnh về hoàng, 101 bệnh về đàm nhiệt, 101 các bệnh tổng hợp, gom lại có 404 bệnh sinh ra từ bên trong. Nan Đà! Thân như vết thương bị tên bắn do các bệnh gây ra, không ngừng nghỉ trong một niệm nào cả. Thân thểvô thường khổ không vô ngã, luôn sống chung với pháp hư hoại tử vong, nên không nên yêu mến gìn giữ.

 

Nan Đà! Các chúng sinh phải bị các đau khổ trong đời sống như chặt tay chân mắt tai mũi lưỡi đầu và các chi thể, lại bị gông cùm xiềng xích đánh đập tra khảo trong ngục, đói khát làm khổ, lạnh nóng mưa tuyết, ruồi muỗi, gió bụi, mãnh thú, bị các loại độc tiếp xúc gây nhiều khổ não vô lượng vô biên, không thể nói hết được. Hữu tình thường yêu thích đắm chìm trong sự khổ đau bền vững này. Các dục làm gốc cho khổ, không biết vứt bỏ lại còn tìm cầu. Ngày đêm nung nấu áp bức làm cho thân tâm khổ não, thiêu đốt không ngừng từ bên trong. Như vậy là khổ về sinh, già, bệnh, chết, yêu không được gặp, oán ghét gặp nhau, mong cầu không được, khổ về năm thủ ấm.Trong bốn uy nghi đi đứng nằm ngồi cũng đều là khổ. Nếu thường đi, không đứng ngồi nằm thì có cảm giác khổ khó chịu. Nếu chỉ đứng không đi ngồi nằm, hay chỉ ngồi không đi đứng nằm, hay chỉ nằm không đi đứng ngồi, đều cảm thấy cực khổ không an lạc.

 

Nan Đà! Những việc này đều là bỏ khổ lại cầu khổ, chỉ là sự sinh và diệt của khổ. Do nhân duyên, các hành tương tục phát sinh. Như Lai liễu tri nên giảng thuyết về pháp sinh tử của hữu tình. Các hành vô thường, không phải là cứu cánh chân thật, là pháp biến hoại không thể giữ gìn, nên cầu biết đủ, sinh tâm nhàm chán, siêng cầu giải thoát.

 

Nan Đà! Hữu tình trong các nẻo thiện có sinh xứ bất tịnh khổ cực như vậy với biết bao sự dối trá không nói hết được. Huống chi nói đến các hữu tình khác như ngạ quỷ, bàng sinh, địa ngục trong ba nẻo ác, nói không thể hết những khổ sở bệnh hoạn không thể chịu nổi.

 

Lại nữa, này Nan Đà! Có bốn trường hợp vào thai. Đó là:

 

    1- Hữu tình chánh niệm vào, chánh niệm ở, chánh niệm xuất thai.

    2- Chánh niệm vào, chánh niệm ở thai, nhưng khi xuất thai không chánh niệm.

    3- Chánh niệm vào thai nhưng không chánh niệm khi ở và xuất thai.

    4- Cả ba giai đoạn đều không chánh niệm.

 

Hạng nào chánh niệm khi vào, ở và xuất? Như có một loại phàm phu hữu tình tính thích trì giới, thường tu tập thiện pháp, ưa thích thắng sự, làm các việc phước, rất khéo phòng hộ, luôn suy nghĩ chân thật, không sống phóng dật, có trí tuệ lớn, lâm chung không hối hận liền thọ sinh ngay, hoặc là bậc Dự Lưu bảy lần sinh, hoặc là bậc Gia gia, hoặc là Nhất lai, hoặc là Nhất gian. Người này trước đây nhờ tu tập thiện hạnh, khi lâm chung có bị khổ áp bức, chịu nhiều đau đớn, nhưng tâm không tán loạn, chánh niệm qua đời. Họ lại chánh niệm khi vào thai mẹ, liễu tri các pháp do nghiệp mà sinh, đều từ nhân duyênsinh khởi, thường cùng các bệnh làm chổ cư trú.

 

Nan Đà, nên biết! Thân này là hầm chứa tất cả bất tịnh, bản chất vô thường, là vật ngu si, dối gạt người mê. Thân này nhờ bộ xương làm phần chính kết nhau, gân mạch thông đến các huyệt, mỡ thịt xương tủy ràng buộc với nhau, với lớp da che đậy ở trên nên không thấy lỗi của chúng. Trong thân thể như cái hầm nóng này, bất tịnh đầy tràn, với những tóc lông móng răng ở vị trí khác nhau, ta chấp cho đó là ngã ngã sở nên thường bị chúng lôi kéo không được tự do. Thân này thường chảy ra mũi dãi, những chất nhơ bẩn, nước vàng, đàm nóng, mỡ mồ hôi hư thối. Thận, mật, gan, phổi, ruột già, ruột non, phẫn, nước tiểu thật đáng gớm, có các loại trùng sống đầy bên trong. Lỗ trên, lỗ dưới thường chảy ra chất hôi hám. Sinh thục hai tạng được che đậy bằng da mỏng, là nơi nhà xí, ngươi nên quán sát chúng. Khi nhai thức ăn, hàm răng cắn thức ăn, thấm ướt với nước miếng, nuốt vào trong cổ họng, hoà với tủy não trôi vào trong bụng. Với bộ xương khô lớn kết nhau, vọng tưởng cho là đẹp. Thức ăn nuốt xuống dưới rốn, ói lên trên, lại nuốt xuống dưới.

 

Này Nan Đà! Thân này đầu tiên từ yết la lam, át bộ đà, bế thi, kiện nam, bát la xa khư, vật ô uế bất tịnh mà được sinh trưởng. Từ lúc sơ sinh chuyển dần đến già chết, bị trói buộc trong luân hồi, như trong hầm tối đen, giếng hôi thối, thường được nuôi dưỡng bằng thức ăn với các vị mặn nhạt đắng cay chua. Lại nữa, sức nóng trong thai mẹ thiêu đốt thân căn thai nhi, trong nồi bất tịnh thường bị khổ nóng. Khi mẹ đi đứng ngồi nằm, thai nhi như bị năm chỗ trói, như nướng trên lửa, thật khó chịu nổi, không ví dụ được.

 

Nan Đà! Thai nhi tuy ở trong hầm phẩn nhơ như vậy, bị nhiều đau khổ, nếu do lợi căn, thì tâm không tán loạn. Lại có một loại hữu tình bạc phước, nằm ngang hay ngược trong thai mẹ, vì do sức nghiệp đời trước đã tạo, hoặc do mẹ ăn các thúc ăn lạnh nóng mặn chua ngọt cay đắng, không điều hòa, hoặc uống nước quá nhiều, hoặc hành dâm quá nhiều, hoặc nhiều tật bệnh, hoặc nhiều sầu não, hoặc khi bị té ngã, hoặc bị đánh, nên thân thể mẹ bị nóng sốt. Do thân mẹ bị sốt nên thai cũng nóng theo, và chịu nhiều khổ não vì nóng. Thai nhi bị khổ nên chuyển động, nên thân nằm ngang không thể ra ngoài. Như có người phụ nữ giỏi biết cách, dùng bơ dầu thoa vào tay đưa vào lỗ nhơ bẩn kia, nhẹ nhàng xếp thai về vị trí cũ. Khi tiếp xúc với tay người, thai nhi bị rất đau đớn.

 

Nan Đà! Ví như với em bé nam hay nữ, bị người dùng dao bén cắt xẻ da thịt rồi rắc tro lên nên rất khổ não ; Thai nhi khổ sở cũng như vậy. Tuy bị đau khổ này, nhưng do lợi căn nên thai nhi chánh niệm không tán loạn.

 

Nan Đà! Ở trong bụng mẹ, thai nhi này chịu khổ cực như vậy. Khi sắp sinh, thai ra khỏi mẹ rất khổ cực, do gió nghiệp của nó làm cho tay nắm lại, các chi thể cuộn lại rất đau đớn. Khi sắp ra khỏi thai mẹ, thân thai nhi bị sưng tái xanh, như bị ung nhọt sưng lên không thể chạm vào, bị đói khát hành hạ, nóng bức trói tâm. Do nhân duyên của nghiệp, thai nhi bị gió đẩy ra, khi đã ra rồi bị gió bên ngoài chạm vào thân như bôi tro vào vết thương. Tay và áo chạm nhau, đều bị đau khổ. Tuy bị khổ này, nhưng là hạng lợïi căn bậc thượng nên chánh niệm không tán loạn. Trong bụng mẹ, hữu tình khi vào, trú, xuất thai đều bị khổ. Nan Đà! Ai lại ưa thích vào trong thai như vậy?

 

Nan Đà! Hạng nào chánh niệm khi vào, khi trú nhưng không chánh niệm khi xuất thai? Có một loại hữu tình, tính thích trì giới tu tập thiện pháp, thường vì thắng sự làm các việc phước. Tâm họ chất trực, không làm việc phóng dật, có ít trí tuệ, khi lâm chung không hối hận, hoặc là bậc Thất sinh Dự lưu, hoặc là bậc Gia gia, hoặc là Nhất lai, hoặc là Nhất gian. Người này trước đó có tu tập thiện hạnh, khi lâm chung tuy có bị khổ hành hạ, chịu nhiều phiền não, nhưng tâm không tán loạn, khi tái sinh vẫn chánh niệm vào thai mẹ, rõ biết các pháp do nghiệp mà sinh, đều sinh khởi từ nhân duyên ... như trước ... cho đến khi xuất thai tuy chịu nhiều khổ sở nhưng là hạng lợi căn bậc trung nên nhập và trú thai chánh niệm, xuất thai không chánh niệm ... nói rộng như trên, cho đến ai lại ưa thích vào trong thai mẹ.

 

Nan Đà! Hạng nào chánh niệm vào thai nhưng không chánh niệm khi trụ và xuất?

 

Nan Đà! Có một hạng hữu tình phàm phu, tính trì giới tu tập thiện pháp, thường vì thắng sự làm các việc phước ... như trên ... cho đến lâm chung không hối hận, hoặc là Thất sinh Dự lưu ... khi lâm chung vẫn bị các khổ hành hạ, tuy bị thống khổ nhưng tâm không tán loạn, chánh niệm tái sinh ngay vào thai mẹ. Do là hạng lợi căn bậc hạ nên khi vào thai mẹ thì biết nhưng khi trụ, xuất thì không biết, nói rộng như trên ... cho đến ai muốn vào thai như vậy?

 

Nan Đà! Hạng nào khi vào, trụ, xuất thai đều không chánh niệm? Có một hạng hữu tình phàm phu ưa hủy tịnh giới không tu tập thiện pháp thường vì việc ác làm các pháp ác, tâm không chân thật, thường hành động phóng dật, không có trí tuệ, tham lam tài sản, tay thường nắm của cải lại không thả ra để đem cho người khác, luôn luôn hy vọng, tâm ý rối ren, thấy và làm điên đảo. Khi lâm chung, họ hối hận, các nghiệp không thiện đều hiện ra hết, lúc chết rất đau đớn bị thống khổ hành hạ, tâm ý tán loạn, vì các khổ não nên không tự nhớ biết ta là ai, từ đâu đến đây và đang đi về đâu. Nan Đà! Đó là không chánh niệm cả trong ba giai đoạn, nói rộng như trên.

 

Nan Đà! Những hữu tình này sinh trong loài người, tuy có vô số khổ não như vậy, nhưng đó là chỗ thắng xứ, trong vô lượng trăm ngàn cu đê kiếp khó được làm thân người. Nếu sinh lên trời, thường sợ rơi vào khổ yêu thương phải xa lìa. Khi sắp qua đời, các vị thiên khác bảo: - Cầu cho bạn được sinh vào thiện xứ trong thế gian.

 

Thiện xứ trong thế gian là gì? Đó là cõi trời người. Thân người khó được, xa lìa các nạn xứ lại càng khó hơn. Thế nào là đường ác? Có ba đường ác là: Đường địa ngục thường bị khổ khốc liệt, không vừa ý, khổ sở ghê gớm không thể ví dụ được. Đường ngạ quỷ, tính tình nhiều sân hận, không có tâm nhu hòa, dối trá sát hại nhau tay bôi đầy máu, không có tâm từ. Hình dáng chúng xấu xí, ai thấy cũng sợ hãi. Giả sử gần với người thì bị chướng ngại bởi khổ luôn luôn đói khát. Loài bàng sinh có nhiều vô lượng vô biên, làm việc vô nghĩa, việc vô phước, việc phi pháp, việc bất thiện, việc dối trá, ăn nuốt lẫn nhau, lớn lấn hiếp bé. Có những loại bàng sinh từ khi sinh ra, lớn lên và chết đi đều sống trong chổ tối tăm bất tịnh phẩn tiểu nhơ bẩn, hoặc có thấy ánh sáng trong thời gian ngắn như các loại ong, bướm, ruồi, muỗi, bọ chét, rận, giòi ... Ngoài ra còn có vô lượng vô biên loại sinh trưởng luôn luôn trong tối tăm, do đời trước họ là kẻ ngu si, không nghe kinh pháp, buông lung thân miệng và ý, tham đắm năm dục gây các việc ác, sinh trong loại này chịu khổ ngu mê.

 

Nan Đà! Lại có vô lượng vô biên hữu tình bàng sinh, sinh và lớn lên trong nước. Đó là: Cá, ba ba, rùa, trạnh, lươn, đỉa, trai, nghêu, ễnh-ương. Do đời trước, thân miệng ý gây ác ... như nói ở trước. Này Nan Đà, lại có vô lượng vô biên hữu tình bàng sinh, nghe mùi phân, nước tiểu, vội đến chỗ ấy để ăn uống. Đó là các loại cầm thú như: heo, dê, gà, chó, cáo, hạc, điêu, kên kên, quạ, ruồi, bọ hung. Chúng đều do nghiệp ác đời trước đã tạo, nay nhận lấy quả báo này.

 

Nan Đà! Lại có vô lượng vô biên các loại bàng sinh thường lấy cỏ cây, các loại bất tịnh làm thức ăn, như voi, ngựa, lạc đà, bò, lừa, la ... cho đến qua đời đều do ác nghiệp trước đây nên chịu quả báo này. Lại nữa, này Nan Đà! Khổ thay, đau đớn thay sự sinh tử trong biển hữu với lửa cháy rực rỡ rất nóng bức, không một chúng sinh nào chẳng bị thiêu đốt. Đây đều do lửa ở mắt tai mũi lưỡi thân ý bốc cháy rực rỡ vì tham cầu cảnh sắc thanh hương vị xúc pháp ở trước.

 

Nan Đà! Vì sao gọi là lửa bốc cháy rực rỡ? Đó là lửa tham sân si, lửa sinh lão bệnh tử, lửa ưu bi khổ não độc hại, thường tự thiêu đốt không ai thoát khỏi cả.

 

Nan Đà! Người biếng nhác chịu nhiều thống khổ, phiền não trói buộc, làm theo pháp ác, luân hồi không ngừng, sinh tử mãi mãi. Người tinh tấn được nhiều an lạc, phát tâm dũng mãnh, đoạn trừ phiền não, tu tập thiện pháp, không lúc nào rời bỏ việc thiện. Thế nên, ngươi hãy quán sát thân này, không bao lâu nữa da thịt gân cốt máu mạch tủy sẽ tan rã, nên thường nhất tâm chớ nên biếng nhác, chưa chứng ngộ cầu chứng ngộ, nên học như vậy.

 

Nan Đà! Ta không tranh luận với thế gian, nhưng thế gian cố tranh luận với Ta. Vì sao? Những người biết pháp không tranh luận với người khác, đã thoát ly ngã và ngã sở vậy tranh luận vì ai? Người không có kiến giải nên sinh ra chấp trước sai lầm. Ta chứng Chánh Giác nên tuyên bố như vậy vì Ta đã liễu tri tất cả các pháp. Nan Đà! lời Ta nói có sai khác không?

 

Nan Đà thưa:

 

- Bạch Thế Tôn! Không! Lời đức Như Lai dạy không sai.

 

Phật dạy:

 

- Lành thay! Lành thay! Nan Đà! Lời nói của Như Lai chắc chắn không sai. Lời nói của Như Lailời nói đúng, nói thật, nói chính xác, nói không sai khác, nói không dối trá, muốn làm cho thế gian mãi mãi an lạc được thắng lợi lớn. Ta là bậc Tri đạo, bậc Thức đạo, bậc Thuyết đạo, bậc Khai đạo, bậc Đại đạo sư, là bậc Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.

 

Người đời không biết, không tin, nên thường làm nô lệ cho các căn, chỉ thấy trong phạm vi bàn tay chứ không xét đến lợi ích lớn, không sửa việc dễ, thích làm việc khó.

 

Nan Đà! Tạm gác cảnh giới trí tuệ này qua một bên, ngươi hãy dùng cái thấy của mắt thịtquán sát, biết rõ sự thấy đều là hư vọng, thì được giải thoát.

 

Nan Đà! Ngươi chớ tin theo cá nhân Ta, chớ tùy theo theo ý muốn của Ta, chớ y theo lời Ta nói, chớ nhớ đến hình tướng của Ta, chớ lệ thuộc theo kiến giải của Sa-môn, chớ sinh cung kính vì là Sa-môn, chẳng cần nói rằng Sa-môn Kiều Đáp Mađại sư của tôi, nhưng chỉ cần đối với pháp mà Ta đã chứng đắc, ở riêng nơi chỗ vắng, tư duy quán sát, thường xuyên tu tập, tùy theo sự dụng tâm đối với pháp cần quán sát, quán tưởng thành tựu pháp ấy, sống trong chánh niệm, tự mình làm hòn đảo cho mình, tự mình làm chỗ quy y cho mình, lấy pháp làm hòn đảo, lấy pháp làm chỗ quy y, không có dựa vào hòn đảo hay chỗ quy y nào khác.

 

Như vậy, này Nan Đà! Nếu có Bí-sô nào tự quán sát trong thân, tinh cần hệ niệm được chánh giải thoát, đối với các sân não trong thế gian, thường tư duy điều phục. Đó là quán sát khổ trong nội thân, quán ngoại thân, quán nội ngoại thân cũng như vậy. Thứ đến quán tập pháp trong thân, quán diệt pháp trong thân. Thứ đến quán sát tập diệt hai pháp trong thân, tức luôn chánh niệm ngay trong thân này, hoặc chỉ với trí, hoặc chỉ với kiến, hoặc chỉ với niệm, không trụ vào nơi nào cả, đối với thế gian này biết rõ không thể chấp thủ.

 

Như vậy, này Nan Đà! Đó là Bí-sô tự mình sống quán trên nội thân, quán trên ngoại thân, trên nội ngoại thân cũng vậy. Thứ đến tự mình sống quán trên nội thọ, ngoại thọ, nội ngoại thọ. Tự mình sống quán trên nội tâm, ngoại tâm, nội ngoại tâm. Tự mình sống quán trên nội pháp, ngoại pháp, nội ngoại pháp, tinh cần hệ niệm đắc chánh giải thoát. Đối với các sân hận phiền não trong thế gian, thường tư duy điều phục, sống quán sát trên tập pháp, quán sát trên diệt pháp.

 

Lại nữa, sống quán pháp trên hai pháp tập và diệt, ngay trên thân này luôn luôn chánh niệm hoặc chỉ có trí, hoặc chỉ có kiến, hoặc chỉ có niệm, đối với những gì ở thế gian biết rõ không thể chấp thủ.

 

Như vậy, này Nan Đà! Đó là Bí-sô tự mình làm hòn đảo, tự mình làm chỗ quy y cho mình, lấy chánh pháp làm hòn đảo, lấy pháp làm chỗ quy y cho mình, không có hòn đảo khác, không quy y chỗ khác. Này Nan Đà! Có bậc trượng phu nào bẩm tánh chất trực, xa lìa dối trá, vào sáng sớm đến gặp Ta, Ta sẽ tùy theo căn cơ, chỉ dạy giáo pháp. Vào buổi chiều, vị ấy tự trình bày sở đắc. Được dạy vào buổi chiều, vị ấy trình bày sở đắc vào buổi sáng sau.

 

Nan Đà! Thiện pháp của Ta đưa đến chứng ngộ trong hiện tại, trừ diệt phiền não, khéo thích ứng thời cơ, phương pháp thuận tiện, là pháp tự giác, được che chở hoàn toàn, tự mình đến nghe pháp của Ta thuyết, thuận với tịch tịnh, có thể đưa đến Bồ Đề, là chỗ hiểu biết của Ta. Thế nên, thấy pháp nào có tự lợi, có tha lợi và có lợi cho cả hai, đối với những pháp ấy ông hãy thường tu học, đối với pháp xuất gia phải cẩn thận hành trì chớ để đời sống trôi qua một cách trống rỗng, phải đạt được thắng quả vô vi an lạc, nhận các vật cúng dường như thức ăn, y phục, đồ nằm, thuốc thang ... của người khác phải làm cho thí chủ được phước lợi lớn, chứng đắc thắng quả tôn quý to lớn.

 

Này Nan Đà, cần phải học như vậy.Lại nữa, này Nan Đà! Có một sắc nào đáng ưa thích mà sau đó không bị tan hoại, việc ấy không có; không sinh ưu buồn phiền não là không có.

 

Nan Đà! Ông nghĩ thế nào? Sắc này là thường hay vô thường?

 

- Bạch Thế Tôn! Thể của sắc là vô thường.

 

- Nan Đà! Thể đã vô thường vậy có khổ không?

 

- Bạch Thế Tôn! Là khổ.

 

- Nếu vô thường khổ là pháp biến hoại, các chúng thánh đệ tử đa văn của ta có cho sắc là ngã, ngã có các sắc, sắc thuộc ngã, ngã trong sắc không?

 

- Bạch Thế Tôn! Không.

 

- Ý ông nghĩ sao! Thọ, tưởng, hành, thức là thường hay vô thường?

 

- Bạch Thế Tôn! Chúng đều là vô thường.

 

- Này Nan Đà! Bản chấtvô thường vậy có khổ không?

 

- Bạch Thế Tôn! Là khổ.

 

- Nếu vô thường khổ là pháp thay đổi, chúng Thánh đệ tử đa văn của Ta có cho thọ ... là ngã, ngã có thọ ..., thọ ... thuộc ngã, ngã trong thọ ... không?

 

- Bạch Thế Tôn! Không.

 

- Thế nên biết rằng phàm là các sắc ở quá khứ, vị lai, hiện tại, trong, ngoài, thô, tế, thắng, kém, xa, gần, các sắc ấy đều không phải là ngã, ngã không có sắc, sắc không thuộc ngã, ngã không ở trong sắc. Như vậy, cần phải dùng chánh niệm, chánh tuệ mà quán sát kỹ. Thọ, tưởng, hành, thức ở quá khứ, vị lai, hiện tại, trong, ngoài, thô, tế, thắng, kém, xa, gần, đều không phải là ngã, ngã cũng chẳng phải là chúng, ngã cũng không ở trong chúng. Như vậy nên dùng chánh niệm chánh tuệ mà quán sát kỹ.

 

Nếu chúng đa văn Thánh đệ tử của Ta quán sát như vậy thì nhàm chán với sắc, nhàm chán với thọ, tưởng, hành, thức. Nếu đã nhàm chán thì không còn đắm nhiễm, không đắm nhiễm thì giải thoát, đã giải thoát thì tự biết giải thoát, tuyên bố: Ta sinh đã tận, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, không nhận nghiệp nữa.

 

Khi Thế Tôn thuyết pháp này xong, Cụ thọ Nan Đà viễn ly trần cấu đắc pháp nhãn tịnh. Năm trăm Bí-sô đối với các hữu lậu, tâm được giải thoát.Thế Tôn lại nói kệ bảo Nan Đà:

 

    Người nào tâm không định

    Thì trí không thanh tịnh

    Không thể trừ các lậu

    Vậy ngươi hãy cần tu

    Ngươi thường tu diệu quán

    Biết các uẩn sinh diệt

    Thì thanh tịnh viên mãn

    Chư thiên đều vui mừng

    Thân hữu cùng hoan hỷ

    Qua lại thương mến nhau

    Kẻ tham danh, háo lợi

 

    Nan Đà! Hãy tránh xa

    Chớ thân cận tại gia

    Nên gần với xuất gia

    Niệm tạo biển sinh tử

    Cùng tận đến bờ khổ

    Đầu tiên yết la lam

    Thổi thành miếng thịt phồng

    Thịt phồng sinh bế thi

    Bế thi sinh kiện nam

    Kiện nam chuyển biến dần

    Sinh đầu và bốn chi

    Các xương hợp thành thân

    Hiện hữu đều do nghiệp

 

    Xương đầu có chín miếng

    Kiên kết hai xương cằm

    Răng có ba mưoi hai

    Các căn cũng như vậy

    Nhãn căn và xương cổ

    Xương răng và sống mũi

    Ngực ức và yết hầu

    Gồm có mười hai xương

    Hố mắt có bốn xương

    Xương vai cũng hai cặp

    Hai tay các ngón tay

    Tổng số năm mươi xương

    Sau cổ có tám xương

    Xương sống ba mươi hai

    Từ gốc này có thêm

    Số phụ bốn mươi tám

    Xương sườn phải liền nhau

    Số lượng có mười ba

    Xương sườn trái liền nhau

    Số lượng cũng mười ba

    Những xương này liền nhau

    Ba liên kết với ba

    Hai cái móc với hai

    Ngoài ra không liên tục

    Hai chân trái và phải

    Hợp lại năm mươi xương

    Cộng ba trăm mười sáu

    Phân bố giữ trong thân

    Xương cốt móc giữ nhau

    Hợp thành thân chúng sinh

 

    Nói rõ thật như vậy

    Hiểu biết của Chánh giác

    Từ đầu xuống đến chân

    Uế tạp, rất mong manh

    Cộng lại thành thân này

    Nguy hiểm như nhà cỏ

    Chỉ có xương chống đỡ

    Máu thịt phủ bên ngoài

    Như người máy bằng gỗ

    Cũng như tượng huyễn hóa

 

    Nên quán sát thân này

    Gân mạch quấn lấy nhau

    Che phủ bằng da ướt

    Chín nơi cửa lở lói

    Thường xuyên chảy tuôn ra

    Phẩn tiểu các bất tịnh

    Ví như kho, bồ lúa

    Đựng đầy những ngũ cốc

    Thân này cũng như vậy

    Đầy tạp uế bên trong

    Cơ quan xương vận động

    Nguy ách không chắc chắn

    Kẻ ngu thường yêu mến

    Bậc trí không đắm nhiễm

 

    Đờm dãi nhớt thường chảy

    Máu mủ luôn tràn đầy

    Mỡ vàng lẫn nhũ trấp

    Não chứa đầy đầu lâu

    Ngực, cách mô mủ nóng

    Trong có sinh, thục tạng

    Cao mỡ và bì mô

    Ruột bao tử, ngũ tạng

    Trong chứa chung những vật

    Hư nát và bất tịnh

 

    Thân tội này đáng sợ

    Đây chính là oán gia

    Kẻ không hiểu, tham dục

    Ngu si thường bảo hộ

    Thân xú uế thế này

    Như thành quách hư nát

    Ngày đêm phiền não ép

    Thay đổi mãi không ngừng

    Thành thân, xương là tường

    Tô trát bằng máu thịt

    Tô vẽ tham sân si

    Trang trí theo từng chổ

    Thành thân thật đáng chán

    Xương máu thịt hợp thành

    Thường bị ác tri thức

    Khổ trong ngoài nung nấu

 

    Nan Đà! Ngươi nên biết

    Như lời Ta dạy bảo

    Ghi nhớ suốt ngày đêm

    Chớ nghĩ đến cảnh dục

    Ai muốn xa lìa dục

    Thường tác như thị quán

    Siêng cầu cảnh giải thoát

    Mau vượt biển sinh tử.

 

Khi Thế Tôn thuyết kinh Nhập Thai này xong, Cụ thọ Nan Đà và năm trăm Bí-sô đều rất hoan hỷ tin thọ phụng hành.

 

Bí-sô Nan Đà vượt biển sinh tử, thoát chỗ hiểm nạn, đến chỗ an ổn cứu cánh Niết bàn, chứng quả A-la-hán, hoan hỷ tự nói kệ mừng:

 

    Kính dâng vật tắm rửa

    Nước sạch và hương thơm

    Và tu các nhân phước

    Được quả thù thắng này.

 

Khi nghe nói như vậy, các Bí-sô đều nghi ngờ và muốn hết nghi ngờ nên thưa với đấng Đại Sư:

 

- Bạch Đại Đức! Bí-sô Nan Đà trước đây đã làm nghiệp gì mà do nghiệp ấy nên nay được thân sắc vàng, đủ ba mươi tướng tốt trang nghiêm, chỉ thấp hơn Thế Tôn bốn ngón tay, lại rất luyến ái cảnh dâm dục, được Đại Sư thương xót cứu thoát khỏi biển sinh tử đưa an toàn đến nơi Niết bàn cứu cánh, cầu mong Ngài dạy cho.Phật bảo các Bí-sô:

 

- Những nghiệp mà Bí-sô Nan Đà đã làm trước đây, nay đều đã thành thục và biểu hiện ra, ...nói rộng như trên ...

 

Thế Tôn nói kệ:

 

    Giả sử qua trăm kiếp

    Nghiệp đã làm không mất

    Khi nhân duyên gặp nhau

    Tự nhận lại quả báo.

 

Này các Bí-sô, thời quá khứ cách đây chín mươi mốt kiếp, khi loài người sống tám vạn tuổi, có đức Phật Tỳ Bát Thi Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn xuất hiện trong thế gian, cùng saú vạn hai ngàn Bí-sô du hành trong nhân gian đến kinh đô của vua là thành Thân Tuệ và vào trú ở rừng Thân Tuệ.

 

Bấy giờ, đức Thế Tôn ấy có người em khác mẹ rất tham đắm cảnh dâm dục. Đức Tỳ Bát Thi Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác khuyến khích vị ấy xuất gia để thoát khỏi biển sinh tử, dùng phương tiện đưa đến cứu cánh Niết bàn. Khi ấy, quốc vương hiệu là Hữu Thân, dùng pháp trị đời, nhân dân phồn thịnh giàu có an lạc, không có dối trá trộm cướp bệnh tật, bò dê lúa mía sung mãn trong nước. Vua có người em khác mẹ tham đắm dâm dục. Nghe Phật và chúng Tăng đang ở rừng Thân Tuệ, vua đưa vương tử, thị vệ, đại thần, và cung nữ, nhân dân cùng nhau đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân Ngài, ngồi qua một bên. Khi ấy, Phật thuyết pháp cho đoàn người của vua, tuyên dương diệu pháp, chỉ dạy làm cho lợïi ích hoan hỷ, được hiểu biết thù thắng. Người em đam mê dâm dục kia không chịu ra khỏi thành. Khi ấy, con của đại thần và các bạn quen khác đã được phủi bụi trần đến bảo:

 

- Bạn biết không, vua cùng vương tử cùng các đại thần cung nhân đến gặp Phật Tỳ Bát Thi để lễ kính, nghe và nhận diệu pháp được hiểu biết thù thắng, thân người khó được, bạn đã được thân người vì sao đến nay vẫn tham đắm dâm dục không chịu ra khỏi cửa.

 

Nghe trách như vậy, vị ấy xấu hổ, miễn cưỡng cùng đi với bạn. Khi vị Bí-sô em của Phật thấy một nhóm người cùng nhau đi đến, hỏi:

 

- Vì sao các vị cùng đưa một người bạn đi? Đồng bọn của họ thưa lại sự việc như trên.

 

Bí-sô nói:

 

- Ta là em của Phật, khi còn ở nhà rất tham đắm việc dâm dục, may mắn được đức Đại Sư bắt ép xuất gia, an ổn tiến tới cứu cánh Niết bàn, lại có kẻ ngu si giống ta như vậy. Các vị từ bi cùng nhau lôi anh ta đi thật là việc tốt. Hãy đi gặp bậc Vô thượng Đại sư, đến gặp được Phật tất có lòng tin sâu xa.

 

Bấy giờ, vương đệ theo cùng bạn đến gặp Phật. Đức Phật quán sát căn cơ dục tính của anh ta mà thuyết pháp. Sau khi nghe pháp, anh ta có lòng tin sâu xa, rời chổ ngồi đứng dậy, bày vai bên phải, chắp tay hướng về đức Phật bạch:

 

- Thế Tôn! Cầu mong Đại sư và các thánh chúng ngày mai đến nhà con tắm rửa trong phòng nước ấm.

 

Đức Phật im lặng nhận lời. Biết Phật đã nhận lời, anh ta lạy sát dưới hai chân Phật từ giả ra về. Đến gặp nhà vua, anh ta cung kính tâu:

 

- Đại vương! Thần đến gặp đức Phật nghe pháp sinh lòng tin, nên nhàm chán với cảnh dâm dục, phụng thỉnh Phật và chư tăng ngày mai đến nhà thần tắm rửa trong phòng nước ấm. Đức đại sư Như Lai đã từ bi nhận lời. Phật là Bậc mà người trời nên cúng dường, xin vua hãy quét dọn đường xá, trang hoàng thành quách.

 

Sau khi suy nghĩ: "Đức Phật vào thành, ta phải trang hoàng, nhưng việc em ta tham dục khó can ngăn, nay được Phật điều phục được, thật là kỳ lạ ", nhà vua đáp:

 

- Rất tốt! Em hãy đi sửa soạn nơi tắm rửa và các vật cần dùng, ta sẽ tùy sức trang hoàng thành phố.

 

Người em rất vui mừng, từ giả anh ra đi. Vua bảo các đại thần:

 

- Hãy truyền lệnh khắp nhân dân, sáng mai Thế Tôn sẽ vào thành, những người đã sống trong thành hay những người từ xa đến, mọi người đều tùy theo khả năng của mình trang hoàng thành phố quét dọn đường xá, đem hương hoa nghênh đón đức Đại sư vào.

 

Các quan tuân mệnh vua truyền khắp nơi sắc lệnh của vua. Bấy giờ, nhân dân trong thành dọn sạch gạch đá, rưới nước thơm khắp nơi, đốt hương thơm, treo cờ lọng, rãi hoa cúng dường như trong vười Hoan hỷ của Thiên Đế Thích. Khi ấy, người em vua, sửa soạn nước thơm và dầu thơm, trang hoàng phòng tắm, bố trí ổn định giường chỗ ngồi. Khi Phật Tỳ Bát Thi sắp vào thành, nhà vua cùng các quan, thái tử, hậu phi, cung nhân, thể nữ, và mọi người cùng ra nghênh đón vói lạy dưới chân Phật, rước vào thành. Khi em vua đưa Phật Thế Tôn vào trong phòng tắm, dâng đầy đủ nước thơm ... để tắm rửa, thấy thân Phật Thế Tôn màu vàng kim trang nghiêm với ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, nên hoan hỷ phát sinh lòng tin sâu xa. Sau khi tắm, thấy đức Phật mặc y phục xong, em vua lạy sát chân đức Phật, phát nguyện:

 

- Nay con may mắn được gặp bậc phước điền vô thượng, tự thân cúng dường chút ít, nguyện nhờ nhân thiện này trong đời vị lai được thân thề màu vàng kim giống như đức Phật. Như em của Thế Tôn rất tham đắm đối với cảnh dục, nhưng được cứu thoát ra khỏi, đạt đến an ổn cứu cánh Niết-bàn, con nguyện trong đời tương lai được làm em của Phật, có thân thể màu vàng kim như vậy. Khi con bị chìm đắm trong cảnh dục, cố kéo con thoát ra khỏi sông ái nhiễm sâu thẳm, đạt đến nơi Niết bàn an ổn.

 

Này các Bí-sô chớ suy nghĩ khác, người em say đắm dục lạc của vua Thân Tuệ, nay tức là Bí-sô Nan Đà. Do đời trước có thỉnh đức Phật Tỳ Bát Thi tắm rửa nước thơm trong phòng tắm, tịnh tâm phát nguyện gây thiện nhân kia, nay được làm em của Phật với thân màu vàng kim. Ta kéo ra khỏi cảnh tham mê dâm dục, giúp cho bỏ thế tục xuất gia, đạt đến chổ an ổn cứu cánh Niết bàn.

 

Khi ấy, các Bí-sô lại có nghi khác, thưa Thế Tôn:

 

- Đại Đức! Bí-sô Nan Đà từng làm nghiệp gì mà nay được thân ba mươi tướng đại trượng phu?

 

Phật bảo:

 

- Này các Bí-sô, nghiệp vị ấy đã tạo ... như trước. Vào thời quá khứ, trong tụ lạc kia, có một trưởng giả giàu có nhiều tài sản sinh hoạt sung túc. Ông ta có một khu vườn hoa trái sum xuê suối chảy hồ nước rừng cây um tùm rất thích hợp cho người xuất gia trú ẩn. Bấy giờ, có vị Độc Giác xuất hiện trong thế gian, thương xót chúng sinh nên thích sống nơi nhàn tịnh. Khi thế gian không có Phật toàn giác, vị ấy là phước điền. Có một Tôn giả Độc Giác du hành trong nhân gian đến tụ lạc ấy, xem xét khắp nơi và trú lại vườn. Người giữ vườn thấy Tôn giả này, thưa:

 

- Lành thay! Ngài mới đến, xin nghỉ ngơi cho khoẻ.

 

Ban đêm, Tôn giả ấy trú lại đây, nhập định Hỏa quang. Thấy vậy, người giữ vườn suy nghĩ: "Đại đức này đã thành tựu thắng hạnh như vậy ".

 

Ngay trong đêm ấy, ông ta đến nhà người chủ thưa:

 

- Đại gia! Ngay bây giờ, ngài hãy phát tâm hoan hỷ. Trong vườn hoa có một vị đại đức đến nghỉ qua đêm, thành tựu diệu hạnh đầy đủ thần thông, chiếu ánh sáng lớn soi sáng khắp vườn.

 

Nghe nói xong, trưởng giả vội đến khu vườn, lạy sát dưới chân vị Độc Giác thưa:

 

- Thánh giả! Nếu Ngài cần thức ăn, con xin được làm phước, mong ngài trú lại vườn này để con được cúng dường thức ăn.

 

Thấy người này ân cần nên vị Độc Giác nhận lời, trú ở vườn này nhập thiền định thắng diệu, hưởng an lạc giải thoát. Vị này suy nghĩ: "Thân hôi hám của ta luân hồi sinh tử, việc cần làm ta đã làm xong, nên vào viên tịch vĩnh viễn không còn sinh tử nữa ".

 

Sau khi suy nghĩ như vậy, vị ấy bay lên hư không nhập định Hỏa quang, hiện các thần biến, phóng ánh sáng lớn, trên rực đỏ như đuốc, dưới tuôn nước trong. Sau khi xả thân, thần thức bất sinh, vĩnh viễn chứng vào cảnh giới vi diệu vô dư Niết bàn. Khi ấy, trưởng giả dùng gỗ thơm hỏa thiêu nhục thân vị Độc Giác và dùng sửa rưới tắt lửa, thu lấy xá lợi đặt vào bình mới, xây tháp và treo các cờ lọng, với tâm kính tín dùng ba mươi loại nước thơm để rưới cúng dường và phát đại nguyện cầu mong được các tướng đẹp.

 

- Này các Bí-sô chớ nghi ngờ, trưởng giả ngày xưa nay là Nan Đà. Do tạo nghiệp kính tín cúng dường việc thắng diệu, nay được quả báo có ba mươi tướng đẹp đặc biệt.

 

Khi ấy, các Bí-sô lại có nghi ngờ, thưa hỏi với Thế Tôn:

 

- Đại Đức! Bí-sô Nan Đà đã làm nghiệp gì mà nếu không bỏ tục xuất gia, tất thừa kế ngôi vị lực luân vương?

 

Phật bảo các Bí-sô:

 

- Nghiệp mà Nan Đà đã làm trước đây, khi quả báo chín mùi, tất tự thụ hưởng như nói ở trước. Thời quá khứ, trong Hiền kiếp này, khi loài người thọ hai vạn tuổi, có đức Phật Ca Nhiếp Ba xuất hiện trong thế gian đầy đủ mười hiệu, trú ở vườn Thi Lộc, Tiên nhân đọa xứ, thuộc Ba La Nại Tư. Trong thành có vua tên Ngật Lật Chỉ là bậc Đại Pháp vương dùng pháp trị dân ... như trên. Vua có ba người con là lớn, giữa và bé. Sau khi việc hóa độ đã viên mãn, Phật Ca Nhiếp Ba nhập Niết bàn như lửa tắt. Với tâm kính tín, nhà vua thỉnh nhục thân của Phật, dùng các loại gỗ thơm như chiên đàn, trầm thuỷ, hải ngạn, ngưu đầu, thiên mộc ... hỏa thiêu và dùng sửa rưới tắt, thu xá lợi đặt trong bình báu bằng vàng, xây tháp lớn bằng bảy báu, ngang dọc bằng một du thiện na, cao nữa du thiện na. Khi an trí tướng pháp luân, người con giữa của vua đích thân dựng lọng giữa lên.

 

- Này các Bí-sô! Chớ có nghi ngờ, người con giữa của vua nay là Nan Đà. Trong thời quá khứ kính tâm cúng dường an trí lọng giữa, nhờ thiện nghiệp này nên trong năm trăm đời thường làm vua Lực Luân vương cai trị trong một châu. Trong đời sống này, nếu không xuất gia, tất làm vị Lực Luân vươngthế lực lớn.

 

Khi ấy, các Bí-sô lại có nghi khác, thưa hỏi Thế Tôn:

 

- Đại Đức! Bí-sô Nan Đà từng làm nghiệp gì mà nay là vị đệ tử số một của Phật về mặt phòng hộ căn môn?

 

Phật dạy:

 

- Đây do nghiệp lực. Trong thời Phật Ca Nhiếp Ba, Nan Đà bỏ tục xuất gia. Thân giáo sư của vị ấy được khen là bậc đệ nhất về giỏi phòng hộ căn môn. Vị ấy trọn đời giữ gìn phạm hạnh, nhưng ngay trong đời ấy không chứng ngộ. Khi lâm chung, vị ấy phát nguyện: "Ta sống trong giáo pháp của Phật, trọn đời tự giữ gìn phạm hạnh, nhưng ngay thân này không chứng ngộ. Nguyện đem thiện căn tu tập này được Phật Th? Tôn này thọ ký trong đời vị lai sẽ có đồng tử thành chánh giác hiệu Thích Ca Mâu Ny, ta được bỏ tục xuất gia trong giáo pháp đức Phật ấy, đoạn trừ các phiền não, chứng quả A-la-hán. Thân giáo sư của ta là bậc đệ nhất phòng hộ căn môn trong giáo pháp đức Phật. Cũng như vậy, trong giáo pháp đức Phật kia, ta là bậc khéo hộ trì căn môn đệ nhất ". Do nguyện lực kia nên nay trong giáo pháp của Ta, vị ấy là bậc khéo hộ trì căn môn đệ nhất trong chúng đệ tử.

 

Như vậy, này các Bí-sô! Nếu nghiệp thuần đen chịu quả báo thuần đen, nghiệp thuần trắng hưởng quả báo thuần trắng, nghiệp xen tạp nhận quả báo xen tạp. Thế nên, các thầy nên xa lìa nghiệp đen và nghiệp tạp, tu tập nghiệp thuần trắng, nên tu tập như vậy.

 

CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ

TỲ-NẠI-DA TẠP-SỰ

 

Quyển thứ mười hai hết.

 

--- o0o ---

Quyển thứ mười ba

 

--- ooOoo ---

 

Nhiếp tụng tổng biệt môn thứ ba:

 

    Tam y cập y giá

    Hà biên tạo tự diêm

    Thức diện, thức thân cân

    Tự tọa đao ưng súc.

 

Nhiếp tụng một trong biệt môn thứ ba:

 

    Tam y điều diệp lượng

    Sàng khước phất du trần

    Hành xứ trước cù du

    Chử thạch tu thính hứa.

 

* Duyên khởi tại thành Thất La Phiệt. Như Phật dạy:

 

- Các Bí-sô nên dùng chi phạt la (y) cắt rọc.

 

Các Bí-sô cắt rọc vải, điều dài điều ngắn không đều nhau nên đem việc này bạch Phật.

 

Phật dạy:

 

- Điều dài, điều ngắn không nên so le, nên cắt cho bằng nhau.

 

Họ không biết cắt bằng nhau như thế nào. Phật dạy:

 

- Điều dài điều ngắn tùy theo cỡ của nó, nên dùng miếng tre để định cỡ dài ngắn.

 

* Duyên xứ như trước.

 

Các Bí-sô làm y, cắt từng lá điều không cân đối nhau làm cho tấm y không đẹp. Họ đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Khi làm y nên cắt lá điều cân đối nhau.

 

Bí-sô không biết thế nào là cân đối.

 

Phật dạy:

 

- Nên dùng miếng tre để đo cỡ rộng hẹp, sau đó mới cắt.

 

Như lời Phật dạy nên đo cỡ lá y, các Bí-sô làm lá y quá lớn. Phật dạy:

 

- Không nên làm quá lớn, nhưng có ba cỡ lá điều là lớn vừa và nhỏ. Cỡ lớn rộng bốn ngón tay, hoặc bằng gang chân con quạ. Cỡ nhỏ bằng hai ngón tay hay bằng mặt ngón cái. Cở vừa là trung bình hai khoảng trên.

 

Các Bí-sô may y nơi đất bẩn làm y bị dơ. Phật dạy:

 

- Nên quét sạch đất, dùng phân bò trát láng nền, chờ khô sạch rồi may y trên đó.

 

Phật dạy:

 

- Nên làm nền, gặp nơi khó có phân bò.

 

Phật dạy:

 

- Dùng nước rưới lên đất, quét sạch rồi làm y ở trên.

 

* Duyên xứ như trước. Các Bí-sô sắm giường chân nhọn làm nền đất bị hư. Phật dạy:

 

- Không được làm chân giường bén nhọn, nên cắt cho bằng.

 

Nhưng vẫn còn hư nền đất, Phật dạy:

 

- Nên dùng bọc trấu đặt dưới chân giường hoặc bó bằng vải cũ.

 

* Duyên xứ như trước. Có Bà-la-môn nọ ra khỏi thành, đi du ngoạn, muốn nghỉ mệt nên vào rừng Thệ Đa. Gặp giờ ăn, ông này thấy nơi dọn ăn bày biện chỗ ngồi xinh đẹpthức ăn uống thơm ngon, nên cho là hiến có và phát tín tâm, nên cổi tấm áo của mình trải lên chổ ngồi trên, rồi đi ra khỏi cửa. Sau đó một thời gian, tấm áo bị dơ bẩn, vị tri sự đem tấm áo trải xuống chỗ ngồi dưới. Sau đó, vì có việc cần, vị Bà-la-môn kia lại vào chùa, đến nơi nhà ăn, không thấy tấm áo ở chỗ ngồi trên nữa. Lần lượt đi tìm thấy trải ở tòa dưới, ông ta suy nghĩ: "Tấm áo của ta còn mới lại là vật quý giá, vì sao nay lại dơ bẩn thế này, hãy nán lại một lúc, xem vì sao như vậy ".

 

Ông ta thấy vị tri sự bố trí chỗ ngồi xong, dùng tấm áo quét đất. Thấy vậy, biết rõ vì sao tấm áo bị dơ nên ông ta nói với vị tri sự:

 

- Đây là việc nhỏ mà ngài không biết hay sao? Nên rưới nước trước, rồi quét cho sạch, sau đó mới trải chỗ ngồi. Vì không biết nên mới làm hư áo của tôi.

 

Vị tri sự xấu hổ bỏ đi. Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Mỗi khi sắp dọn chỗ ngồi nơi nào, trước rưới nước, sau đó quét cho sạch, rồi mới trải tòa là đúng pháp.

 

Khi ấy, người tri sự trải tấm nệm trên chỗ ngồi có bụi đất làm cho dơ bẩn, bị lỗi như trước. Phật dạy:

 

- Trước phải quét sạch sàng tòa, sau đó mới trải tấm nệm.

 

Bí-sô không biết lấy gì lau quét, Phật dạy:

 

- Nên lấy một góc áo lau sàng tòa.

 

Khi ấy, người tri sự dùng áo còn tốt để quét, Phật dạy:

 

- Nên dùng áo cũ.

 

Người tri sự dùng áo cũ để lau, lâu ngày hư rách nên vứt bỏ hết. Phật dạy:

 

- Không nên vứt ngay, xé ra từng tua nhỏ cột trên đầu gậy làm chổi quét sàng tòa.

 

Dùng chổi này quá lâu, không còn xử dụng được, họ đem bỏ. Phật dạy:

 

- Tuy không còn dùng được, nhưng không nên vứt bỏ, nên băm nhỏ trọn với bùn và phân bò để bít lỗ cột, hoặc tô vách bị nứt, vì muốn cho phước lợi của thí chủ tăng thêm.

 

* Duyên xứ như trước. Một Bí-sô trẻ tuổi thường xuyên kinh hành ở một chỗ, làm cho đất nơi kinh hành bị hư lở. Có một trưởng giả vào chùa chiêm bái, đến chỗ kinh hành, suy nghĩ: "Mặt đất còn hư như thế, vậy chân của thánh giả ấy như thế nào!" Sau khi suy nghĩ, ông ta hỏi:

 

- Thánh giả, ai làm cho mặt đất nơi này bị hư lở vậy? Mong ngài đưa chân lên cho con được xem.

 

Bí-sô giở chân lên, da chân đều bị rách lủng. Thấy vậy, trưởng giả sinh thương xót, thưa:

 

- Thánh giả, con có tấm thảm, muốn trải trên đường kinh hành để chân Ngài không bị thương.

 

Đáp:

 

- Trưởng giả, đức Phật chưa cho phép.

 

- Thánh giả, Đức Đại-sư của ngài có lòng từ niệm, chắc chắn cho phép việc này.

 

Bí-sô đem việc này bạch Phật. Phật dạy:

 

- Nay, Ta cho phép Bí-sô tinh cần sách tấn kinh hành, được tùy ý dùng tấm thảm, không phạm.

 

Bí-sô đến bảo trưởng giả được phép trải thảm. Bí-sô nhận lấy, đi kinh hành quá nhiều nên làm đứt ra hai đoạn, mỗi phần một bên. Trưởng giả thấy tấm thảm bị bỏ phế, hỏi:

 

- Thánh giả, vì sao tấm thảm bị bỏ phế ở đây, nếu thấy chỗ hư sao không may sửa lại?

 

Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Lành thay! Lời nói của trưởng giả thật đúng. Thấy có chỗ hư nên may lại hoặc dùng vật khác tu bổ. Nếu nó quá hư nát không thể sửa chửa được, nên dùng trộn bùn hoặc trộn phân bò trát láng nơi kinh hành, làm cho thí chủ tăng trưởng phước điền.

 

* Duyên xứ như trước. Có Bí-sô bị bệnh đến gặp y sĩ bảo:

 

- Hiền thủ, tôi có bệnh như vậy, xin ngài điều trị.

 

Y sĩ đáp:

 

- Thánh giả! Hãy dùng thuốc như vậy sẽ bình phục.

 

Nhận toa thuốc xong, Bí-sô trở về trú xứ. Khi điều chế thuốc, Bí-sô cần chày đá nên đến nhà khác mượn về dùng. Được họ cho mượn, Bí-sô dùng nghiền thuốc xong đem trả lại. Họ đáp:

 

- Thánh giả! Con cúng vật này, ngài tùy ý đem về.

 

Đáp:

 

- Đức Phật chưa cho phép.

 

- Nếu vậy, Ngài hãy để dưới đất rồi đi.

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Nay, Ta cho phép giữ chày đá và trục. Nếu họ dâng cúng tùy ý nhận lấy.

 

 

 

Nhiếp tụng hai trong biệt môn ba:

 

    Y giá tinh đăng lung

    Vật sử trùng thương tổn

    Nhiệt khai tam diện xá

    Khả ký Nan-đà thân.

 

* Duyên tại thành Thất La Phiệt. Các Bí-sô để bừa bải y phục có nhiều cáu bẩn, nên bị trùng muổi cắn phá hư lủng. Bí-sô bạch Phật.

 

Phật dạy:

 

- Không được để y phục một cách bừa bải, nên làm giá mắc y phục.

 

Bí-sô đục vách để mắc y phục làm vách bị hư. Phật dạy:

 

- Không nên đục vách. Khi xây chùa nên chừa giá gỗ, trên đặt sào mắc y phục.

 

Trong phòng, Bí-sô đặt sào mắc y phục, không làm trước hiên. Phật dạy:

 

- Trước hiên cũng làm chớ bỏ phế.

 

* Duyên xứ như trước. Như Phật dạy nên làm giá mắc y. Bí-sô ở Lan nhã không tìm được tre. Phật dạy:

 

- Nên dùng dây sắn treo ngang để mắc y.

 

* Duyên xứ như trước. Như Thế Tôn dạy, đêm tối nên tụng kinh. Khi họ tụng kinh, có rắn bò đến. Người nhỏ tuổi thấy vậy kinh sợ kêu lớn:

 

- Xương dài! Xương dài.

 

Các Bí-sô phàm phu đều kinh sợ, làm cho người nghe kinh bị gián đoạn. Họ đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Nên thắp đèn lên để tụng kinh.

 

Vào mùa hạ, Bí-sô đốt đèn làm chết trùng. Phật dạy:

 

- Nên làm lồng che đèn.

 

Bí-sô không biết làm. Phật dạy:

 

- Nên dùng thanh tre làm lồng, lấy vải mỏng che lại. Nếu khó tìm vật này thì dùng tấm vân mẫu để che. Nếu khó tìm vật này, thì làm bình trăm mắt.

 

Bí-sô không biết nên làm thế nào. Phật dạy:

 

- Bảo thợ gốm làm lồng che đèn bằng gốm, chung quanh xoi nhiều lỗ nhỏ.

 

Khó tìm thợ gốm, Phật dạy:

 

- Nên dùng ống bằng đất, bỏ phần đáy, xoi nhiều lỗ nhỏ chung quanh. Đặt dĩa đèn ổn định xong, chụp ống lên trên. Nếu có trùng chui vào lỗ, nên dùng giấy lụa hay vật mỏng để che lại.

 

* Duyên xứ như trước. Vào mùa nắng gắt, Bí-sô khổ vì nóng, thân thể vàng vọt, gầy ốm yếu ớt. Khi ấy, tuy biết nhưng Thế Tôn cố hỏi Cụ thọ A Nan Đà:

 

- Vì sao thân thể các Bí-sô bị vàng vọt gầy ốm yếu ớt?

 

Tôn giả thưa lại việc trên. Phật dạy:

 

- Nên làm nhà hóng mát.

 

Bí-sô không biết làm như thế nào. Phật dạy:

 

- Nên gần ngoài chùa làm nhà ba mặt. Ba mặt làm vách phên có cây chống lên, che sơ để gió lồng vào, không giống với chùa bốn mặt có vách.

 

Bí-sô làm vách bên trong, bên ngoài bố trí hàng cột. Phật dạy:

 

- Nên an trí cột ở giữa.

 

Họ lại không mở cửa sổ làm bên trong bị nóng. Phật dạy:

 

- Nên làm cửa sổ.

 

Khi họ làm cửa hoặc quá cao hay quá thấp. Phật dạy:

 

- Nên làm ngang bằng với giường.

 

Có nhiều chim sẻ bay vào phòng. Phật dạy:

 

- Nên làm song cửa ngăn chúng bay vào; bị mưa gió tạt vào, nên làm cánh cửa sổ.

 

Khi ăn, Bí-sô đóng cửa, làm phòng bị tối. Phật dạy:

 

- Khi ăn nên mở cửa. Trời nóng, Bí-sô ở trong phòng, chỉ mặc y dưới và tăng khước kỳ, tùy ý đọc tụng, thuyết pháp, làm y phục ... trong bốn uy nghi đều không phạm.

 

* Duyên xứ như trước. Bấy giờ, Thế Tôn đã cho Nan Đà cạo tóc xuất gia và thọ cận viên rồi đưa đến núi Hương túy, trời 33, và địa ngục, xem xét khắp một vòng rồi trở về rừng Thệ Đa. Các Bí-sô khách chưa biết Nan Đà. Thấy thân hình vị này màu vàng kim đủ ba mươi tướng trang nghiêm, Bí-sô già cho là đức Như Lai nên đứng dậy nghênh tiếp. Khi biết ra, Bí-sô này xấu hổ. Bí-sô đem việc này bạch Phật.

 

Phật dạy:

 

- Nên nhớ rõ y phục của Nan Đà. Nếu có người như vậy, cũng nên ghi nhớ, đây là Bậc Chánh Giác, đây là người khác.

 

 

 

Nhiếp tụng ba trong biệt môn thứ ba:

 

    Hà biên chế xỉ mộc

    La hổ khiển xuất môn

    Hợp ha, bất hợp ha

    Nhị hành ưng dữ phục.

 

* Duyên khởi tại thành Thất La Phiệt. Khi ấy, các Bí-sô ở bên bờ sông Thắng Tuệ, dùng phương tiện thiện xảo sách tấn siêng năng tu tập, đoạn các phiền não chứng quả A-la-hán. Khi ấy, các Bí-sô với uy nghi đĩnh đạc, hành động đàng hoàng, làm cho mọi người rất kính tín.Thế Tôn bảo các Bí-sô:

 

- Dân chúng trong những làng xóm gần trú xứ của các Bí-sô bên cạnh sông Thắng Tuệ được nhiều lợi ích tốt đẹp.

 

Nghe Phật nói như vậy, cụ thọ A Nan Đà hiểu được ý nghĩa ấy vì do làm thị giả gần gủi lâu ngày với bậc Đại Sư, hoặc nghe lời nói, hoặc thấy hành động, đều có thể hiểu ý. Nếu Thế Tôn muốn gặp nên nói ra lời khen ngợi, Tôn giả liền hiểu và gửi lời đến báo cho các Bí-sô ở bờ sông Thắng Tuệ:

 

- Các Cụ thọ! Thế Tôn khen ngợi muốn gặp, các vị hãy đến đây gặp Ngài.

 

Nghe như vậy, các vị ấy bảo nhau:

 

- Đức Thế Tônlời khen chúng ta,việc này cần phải gặp, chúng ta nên làm gì đây?

 

Một người bảo:

 

- Còn làm gì nữa, chúng ta nên đi, không quan sát thì biết làm việc gì, nếu không quan sát thì bậc A-la-hán cũng không dự liệu được.

 

Sau khi cùng bàn luận, đi là việc tốt, họ thưa với các Bí-sô:

 

- Quý vị nên biết, Đại sư Thế Tôn tán thán chúng tôi, ý Ngài muốn gặp, vậy lúc này có thể đi.

 

Các Bí-sô nói:

 

- Nếu vậy, chúng tôi cùng đi.

 

Họ cùng nhau lên đường, đi bộ dần dần đến thành Thất La Phiệt. Các Bí-sô cựu trú ra tiếp đón thăm hỏi làm cho ngoài chùa có tiếng ồn ào. Nghe như vậy, tuy biết nhưng Thế Tôn vẫn hỏi A Nan Đà:

 

- Vì sao ngoài chùa có tiếng ồn ào lớn vậy?

 

A Nan Đà thưa:

 

- Chúng Bí-sô ở bờ sông Thắng Tuệ cùng nhau đến, tạm thời đang ở ngoài chùa. Những vị trong chùa ra nghênh tiếp, cùng nhau thăm hỏi nên ồn ào như vậy.

 

Thế Tôn bảo A Nan Đà:

 

- Thầy hãy đến bảo các Bí-sô ở bờ sông Thắng Tuệ nên đi nơi khác, không được ở đây.

 

Tuân lệnh của Phật, Tôn giả đến bảo các Bí-sô:

 

- Cụ thọ nên biết! Thế Tôn có lệnh các vị hãy đi nơi khác, chớ có ở đây.

 

Nghe như vậy, các vị ấy thu xếp y bát đi vào nhân gian. Thế Tôn bảo các Bí-sô:

 

- Những thôn xóm chỗ ở nào, có các Bí-sô ở bờ sông Thắng Tuệ trú lại, dân chúng ở chung quanh vùng ấy đều được lợi ích lớn.

 

Nghe như vậy, A Nan Đà nhắn tin đến cho họ. Dù trở lại đến ba lần, các Bí-sô cũng mặc y mang bát du hành nhân gian.Khi ấy, Thế Tôn lại bảo các Bí-sô:

 

- Những người sống gần chỗ cư trú của các Bí-sô ở bờ sông Thắng Tuệ đều được lợi ích.

 

Nghe Phật tán thán họ, A Nan Đà lại sai người đưa tin cho họ. Các Bí-sô ấy cùng nhau bàn luận:

 

- Các Cụ thọ! Vì sao Thế Tôn khen ngợi và muốn gặp chúng ta, nhưng nhiều lần đến gặp đều bị Ngài bảo đi nơi khác. Chắc là chúng ta nói ồn ào với nhiều người nên bị đuổi đi. Nay, chúng ta nên bảo mọi người đến im lặng.

 

Bấy giờ, các Bí-sô lặng lẽ mang y bát, đến gặp Thế Tôn, lạy sát chân Phật, ngồi qua một bên. Đức Phật bảo cụ thọ A Nan Đà:

 

- Thầy hãy tìm căn phòng nào yên tịnh, xếp đặt chỗ ngồi cho Ta và các Bí-sô ở bờ sông Thắng Tuệ.

 

Vâng lời Phật, xếp đặt chỗ xong, Tôn giả A Nan đến gặp Phật, thưa:

 

- Đại Đức! Con đã xếp đặt chỗ ở tại một nơi, xin Phật định liệu.

 

Sau khi đi đến chỗ ở của các Bí-sô bờ sông Thắng Tuệ, rửa chân ngoài cửa, Thế Tôn vào phòng và trải tòa ngồi kiết già ngay thẳng đặt niệm trước mặt. Các Bí-sô cũng rửa chân, vào phòng ngồi yên đặt niệm trước mặt. Khi ấy, Thế Tôn nhập sơ định. Các Bí-sô bên bờ sông Thắng Tuệ cũng vào sơ định. Xuất khỏi sơ định, Thế Tôn nhập vào định thứ hai, thứ ba, thứ tư rồi lần lượt nhập vào không xứ, thức xứ, vô sở hữu xứ, rồi phi tưởng phi phi tưởng xứ. Các Bí-sô ở bờ sông Thắng Tuệ cũng như vậy, nhập và xuất các định theo Thế Tôn. Thế Tôn xuất khỏi phi tưởng phi phi tưởng vào vô sở hữu định ... cho đến vào sơ định. Các Bí-sô cũng như vậy, nhập vào sơ định.

 

Thế Tôn suy nghĩ: "Ta vào sơ định, các Bí-sô cũng vào sơ định. Ta vào đến phi tưởng phi phi tưởng định, các Bí-sô cũng vào định này. Ta lại từ phi tưởng phi phi tưởng xuất ra cho đến về lại sơ định, các Bí-sô cũng đồng như Ta. Nay, ta nên biểu hiện tướng trạng khác để vào sơ định, không thuộc cảnh giới hoạt động của Độc giác, Thanh văn". Sau khi suy nghĩ như vậy, Thế Tôn nhập vào định ấy.

 

Sau khi bảo nhau: - Các vị nên biết! Đại sư Thế Tôn đang trú trong định của mình, chúng ta cũng nên trú trong định của mình. Các Bí-sô liền trú trong định của mình.

 

Đến sáng sớm, Thế Tôn xuất khỏi định. Đại chúng đều tập họp. Đức Phật trải tòa ngồi giữa đại chúng. Khi ấy, cụ thọ A Nan Đà rời tòa đứng dậy, chỉnh y phục bày vai phải, lạy sát hai chân Phật, quỳ gối phải xuống đất, chắp tay cung kính bạch Phật:

 

- Đại Đức! Thế Tôn thường khen ngợi các chúng Bí-sô ở bờ sông Thắng Tuệ, ý muốn gặp họ. Khi các Bí-sô cùng đến đây lại không được Ngài thăm hỏi gì đến cả?

 

Phật bảo:

 

- Này A Nan Đà! Ta đã cùng nói chuyện với họ rồi, y vào thánh ngữ thánh pháp luật để an ủi họ.

 

A Nan Đà bạch Phật:

 

- Con chưa hiểu thế nào là dùng thánh ngữ thánh pháp luật an ủi nhau.

 

- Này A Nan Đà! Như Ta cùng các Bí-sô đều rửa chân ngoài cửa xong, thứ tự vào phòng an tọa, ngồi thẳng người đặt niệm trước mặt. Ta nhập sơ định, các Bí-sô bờ sông cũng vào sơ định. Ta xuất sơ định, vào nhị, tam, tứ định, rồi vào không xứ, thức xứ, vô sở hữu xứ, rồi vào định phi tưởng phi phi tưởng xứ. Các Bí-sô bờ sông cũng như vậy, nhập và xuất các định theo Ta. Ta xuất khỏi định phi tưởng phi tưởng xứ, vào vô sở hữu xứ định, rồi Ta lần lượt trở lại sơ định. Các Bí-sô ấy cũng vậy, về lại sơ định. Này A Nan Đà! Sau khi suy nghĩ: "Nay Ta nên biểu hiện tướng trạng khác để vào sơ định không thuộc cảnh giới hoạt động của Độc giác, Thanh văn, Ta nhập vào định ấy". Bấy giờ, các Bí-sô bờ sông nói với nhau: - "Đại sư Thế Tôn trú nơi định của mình, vậy chúng ta cũng nên trú nơi định của mình". Này A Nan Đà! Đây là dùng thánh ngữ, thánh pháp luật để an ủi nhau. Ta đã an ủi họ như vậy.

 

A Nan Đà bạch Phật:

 

- Lành thay! Thưa Đại Đức, an ủi nhau bằng thánh ngữ, thánh pháp luật. Rất tốt! Thưa Thế Tôn, an ủi nhau bằng thánh ngữ, thánh pháp luật. Thế Tôn đã cùng với các Bí-sô bờ sông an ủi nhau bằng thánh ngữ, thánh pháp luật.

 

Lời nói này được phổ biến khắp nơi, mọi người nói với nhau:

 

- Đức Phật cùng các Bí-sô bờ sông dùng thánh ngữ, thánh pháp luật để an ủi nhau.

 

Nghe sự việc như vậy, các trưởng giả, Bà-la-môn đều đến lễ bái các Bí-sô bờ sông. Các Bí-sô này thuyết giảng pháp yếu cho các trưởng giả Bà-la-môn nghe. Miệng các Bí-sô có mùi hôi. Bấy giờ, những người ở hai bên liếc tìm xem, bảo nhau:

 

- Mùi hôi này từ đâu bay đến đây?

 

Các Bí-sô nói:

 

- Mùi hôi này từ miệng tôi bay ra.

 

- Thánh giả! Chẳng lẽ hằng ngày quý ngài không đánh răng hay sao?

 

Đáp:

 

- Không đánh.

 

- Vì sao vậy?

 

Các Bí-sô nói:

 

- Phật chưa cho phép.

 

Đáp:

 

- Thánh giả! Nếu không đánh răng mà thanh tịnh hay sao?

 

Các Bí-sô đành im lặng chẳng biết nói gì, đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Các Bà-la-môn trưởng giả kia có hành động chê trách là đúng phép . Tại nơi khác, Ta đã dạy các Bí-sô đánh răng nhưng các ngươi không biết. Vì sao? Đánh răng có năm lợi ích. Thế nào là năm?

 

    1- Trừ bệnh nóng vàng

    2- Trừ đàm nóng

    3- Miệng không hôi hám

    4- Dễ ăn uống

    5- Mắt sáng sạch.

 

Khi Phật đã chế Bí-sô dùng cây xỉa răng. Có một Bí-sô trẻ tuổi dùng cây ngắn xỉa răng ở chỗ trống. Thấy Thế Tôn đi đến, Bí-sô này rất xấu hổ, suy nghĩ: "Làm sao trước mặt Thế Tôn mà nhả cây xỉa răng ".Vì vậy, vị này liền nuốt cây xỉa răng và bị mắc trong cổ họng. Thường pháp của chư Phật là luôn luôn chánh niệm. Khi ấy, Thế Tôn đưa bàn tay trái trang nghiêm bằng vô lượng trăm ngàn công đức với chữ Vạn xoay quanh có thể trừ sợ hãi, ban cho sự an ổn, giữ lấy đầu của Bí-sô trẻ tuổi, đưa ngón tay phải vào họng vị kia, móc cây xỉa răng ra kéo theo cả máu. Thế Tôn bảo:

 

- Thầy làm gì vậy?

 

Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Sau khi suy nghĩ, xỉa răng tại nơi trống trải có lỗi như vậy, Phật bảo các Bí-sô:

 

- Có một Bí-sô trẻ tuổi xỉa răng tại nơi trống trải gây ra lỗi lầm như vậy. Thế nên, các Bí-sô tại nơi trống trải không được xỉa răng và không được dùng cây xỉa răng ngắn. Bí-sô nào vi phạm bị tội vượt pháp.

 

Như lời Phật dạy, Bí-sô không được ngồi xỉa răng nơi trống trải, có Bí-sô trẻ tuổi ngồi xỉa răng trước vị lớn tuổi. Phật dạy:

 

- Không nên như vậy. Có ba việc nên làm chỗ khuất là đại tiện, tiểu tiện và xỉa răng. Không được dùng cây xỉa răng quá ngắn.

 

Bấy giờ, Lục chúng dùng cây xỉa răng quá dài, các Bí-sô thấy vậy cùng sinh cơ hiềm, bảo:

 

- Cụ thọ! Có phải các vị cầm gậy để giỡn hay sao?

 

Đáp:

 

- Phật dạy đánh răng, sao gọi là giỡn? Các vị không thấy người kia do xỉa răng bằng cây ngắn mà sắp chết, nhờ Phật cứu hộ mới được sống lại. Lẽ nào vì hy vọng được lấy y bát của tôi mà các vị mong tôi chết sớm để cùng nhau làm yết ma hay sao? Nhưng cây xỉa răng dài cũng có chỗ lợi ích: 1- Dùng nhen lửa nấu cơm; 2- Dùng đánh mấy thầy nhỏ.

 

Nghe như vậy, các Bí-sô im lặng bạch Phật. Phật dạy:

 

- Bí-sô không nên dùng cây xỉa răng dài. Ai dùng cây xỉa răng dài bị tội vượt pháp.

 

Bí-sô không biết thế nào là cây xỉa răng dài ngắn.

 

Phật dạy:

 

- Có ba loại là dài mười ngón tay, ngắn tám ngón, vừa trung bình giữa hai loại trên.

 

Phật dạy:

 

- Nên xỉa răng ở chỗ khuất.

 

Có Bí-sô già bệnh suy nhược không thể đi đến chỗ khuất. Phật dạy:

 

- Người bệnh nên sắm bồn súc miệng.

 

Bí-sô xử dụng bồn đất tùy tiện và để trong phòng, đụng vào làm nghiêng đổ nước dơ, bẩn mặt đất. Phật dạy:

 

- Bồn súc miệng, hình dạng như dấu chân voi.

 

Khi ấy, có Bí-sô tìm bồn không có. Phật dạy:

 

- Nên đến bên cạnh cống nước để đánh răng.

 

Bí-sô đánh răng xa miệng cống. Phật dạy:

 

- Nên gần trong phạm vi một gang vuông.

 

Khi Phật chế việc dùng cây xỉa răng, Bí-sô không biết nạo lưỡi nên miệng bị hôi. Phật dạy:

 

- Đánh răng rồi, cần phải nạo lưỡi.

 

Bí-sô không biết dùng vật gì nạo lưỡi. Phật dạy:

 

- Nên sắm cây nạo lưỡi.

 

Khi Phật đã cho sắm cây nạo lưỡi, Lục chúng Bí-sô dùng vàng bạc, lưu ly, pha lê, vật quý để làm. Các Bà-la-môn trưởng giả thấy vậy hỏi:

 

- Thánh giả, đây là vật gì?

 

Đáp:

 

- Hiền thủ! Thế Tôn bảo chúng tôi dùng cây nạo lưỡi.

 

- Lẽ nào Sa-môn Thích tử các ông còn tham dục lạc hay sao?

 

Lục chúng nghe nói đành im lặng.Các Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Bí-sô được chứa bốn loại nạo lưỡi. Đó là loại làm bằng đồng, sắt, thâu thạch, đồng đỏ.

 

Các Bí-sô dùng nạo lưỡi bén, làm lưỡi bị thương. Phật dạy:

 

- Không nên làm bén.

 

Bốn loại trên khó tìm, Phật dạy:

 

- Nên chẻ cây xỉa răng ra, uốn cong lại, dùng nạo lưỡi.

 

Bí-sô chẻ cây xỉa răng ra có dăm, dùng nạo lưỡi, gây vết thương. Phật dạy:

 

- Chẻ cây xỉa răng ra, dùng hai mảnh mài nhau, làm sạch dăm trên mặt rồi mới dùng.

 

Bí-sô dùng cây chà răng xong, không lên tiếng, ném trên đầu thiên thần hộ chùa làm cho họ sinh hiềm khích. Phật dạy:

 

- Không được im lặng ném, nên lên tiếng. Ai không lên tiếng bị tội vượt pháp.

 

Bí-sô chỉ lên tiếng trong việc ném cây chà răng, ngoài ra các việc đại tiểu tiện, khạc nhổ, nhổ nước ... vứt các vật khác đều không lên tiếng. Phật dạy:

 

- Phàm có những việc vứt bỏ như vậy đều phải lên tiếng.

 

Đức Đại sư đã chế dùng cây chà răng, Bí-sô đột nhiên đi đường, tìm khó có, nên không dám ăn.Phật dạy:

 

- Không nên bỏ ăn. Nếu không có cây chà răng, nên dùng tháo đậu, đất bột, phân bò khô hoà cả ba với nước súc cho sạch miệng; tuỳ ý dùng cơm chớ nghi ngại.

 

* Duyên khởi như trước. Cụ thọ Xá Lợi Tử có hai cầu tịch. Một tên Chuẩn Đà, một tên La Hổ La. Vào lúc nọ, muốn du hành trong nhân gian, Tôn giả Xá Lợi Tử bảo hai đệ tử:

 

- Ta muốn du hành trong nhân gian theo sở thích, hai ngươi ở lại hay đi?

 

Chuẩn Đà thưa:

 

- Ô Ba Đà Da, con xin đi theo.

 

La Hổ La thưa:

 

- Ô Ba Đà Da, con ở lại đây.

 

Xá Lợi Tử nói:

 

- Nếu vậy thì gửi ngươi cho ai?

 

Đáp:

 

- Xin gửi con cho Tôn giả Ô Đà Dy. Con sẽ y chỉ vị ấy.

 

- La Hổ La, vị ấy là người xấu, sợ làm việc phi pháp.

 

Đáp:

 

- Ô Ba Đà Da! Con phục vụ vị ấy như cha, vị ấy làm sao làm việc xấu được?

 

Sau khi gửi La Hổ La, Xá Lợi Phất du hành nhân gian. Sau đó chưa lâu, Ô Đà Dy bảo La Hổ La:

 

- Ngươi đi làm việc như vậy như vậy ...

 

Đáp:

 

- Không làm!

 

Ô Đà Dy tức giận nói:

 

- Đồ ngu si! Việc này còn chẳng làm thì chịu làm việc gì.

 

La Hổ La nói:

 

- Chẳng phải ngài là thân giáo sư và quỹ phạm sư hay sao?

 

Cơn giận càng tăng, Ô Đà Dy nắm cổ La Hổ La lôi ra khỏi cửa chùa. La Hổ La đứng khóc ngoài cửa.

 

Khi ấy, Bí-sô ny Đại thế chủ và năm trăm môn nhân, đến làm lễ Phật, thấy Tôn giả đứng khóc nên hỏi: - Thánh giả La Hổ La vì sao khóc vậy?

 

Đáp:

 

- Kiều Đáp Di ơi! Đại đức Ô Đà Di dùng tay kẹp cổ tôi lôi ra khỏi chùa.

 

Với suy nghĩ: "Ta không nên bỏ mặc con của Phật ở đây để đi chỗ khác ", Đại thế chủ cùng môn đồ đứng quanh đó.Thứ đến có vua Thắng Quang chúa nước Kiều Tát La định vào vườn để lễ Phật, thấy La Hổ La và hỏi đáp như trước. Sau khi suy nghĩ: "Ta không nên bỏ mặc con Phật và Phật mẫu ở đây để đi nơi khác ", nhà vua cũng đứng lại đó.Đến lượt trưởng giả Cấp Cô Độc cũng vào vườn để lễ Phật, thấy La Hổ La và hỏi đáp như trước. Sau khi suy nghĩ: "Ta không nên để con của Phật, Phật mẫu và nhà vua ở đây để đi nơi khác ", trưởng giả cũng đứng chung lại đó.

 

Bấy giờ, ngoài cửa đại chúng tập họp đông đảo nên có tiếng ồn ào. Đã biết nhưng Đại sư Thế Tôn vẫn hỏi Cụ thọ A Nan Đà:

 

- Vì sao ngoài cửa có nhiều người tụ họp gây tiếng động ồn ào vậy?

 

Tôn giả đem sự việc trên trình bày đầy đủ với Phật.Phật hỏi:

 

- Thật có sự việc Bí-sô này đuổi Bí-sô khác ra khỏi chùa không?

 

Đáp:

 

- Đại Đức! Thật có việc này!

 

Phật bảo A Nan Đà:

 

- Bí-sô chỉ được làm chủ trong phòng của mình, không được trong phạm vi chùa đuổi Bí-sô khác ra khỏi chùa. Ai vi phạm bị tội vượt pháp.

 

Khi Thế Tôn đã chế không được đuổi Bí-sô ra khỏi chùa, các Bí-sô không dám khiển trách môn nhân đệ tử. Do đó, họ khinh thường phép tắc không chịu tuân hành.Phật dạy:

 

- Cần phải khiển trách.

 

Bí-sô không biết khiển trách như thế nào. Phật dạy:

 

- Có năm pháp khiển trách.

 

    1- Không nói chuyện.

    2- Không dạy bảo.

    3- Không thọ dụng chung.

    4- Ngăn thiện sự của họ.

    5- Không cho y chỉ.

 

    - Không nói chuyện là không nói chuyện hỏi đáp với họ.

    - Không dạy bảo là không kêu dạy bảo họ việc lợi và hại.

    - Không thọ dụng chung là không nhận sự dâng cúng phục vụ của họ, không quan hệ về y phục, thức ăn và pháp.

    - Ngăn thiện sự là không bảo họ làm những việc như tu tập thiện phẩm, thắng sự ...

    - Không cho y chỉ là cắt đứt sự quan hệ về y chỉ thầy trò, không ở cùng phòng.

 

Như lời Phật dạy nên khiển trách, Bí-sô không xét rõ việc, đã vội khiển trách. Phật dạy:

 

- Không được gặp việc gì cũng được khiển trách ngay. Ai có năm pháp mới nên khiển trách họ. Năm pháp ấy là:

 

    1- Bất tín;

    2- Lười biếng;

    3- Ác khẩu;

    4- Không có tàm quý;

    5- Thân cận kẻ xấu.

 

Khi ấy các Bí-sô chỉ khiển trách người đủ năm pháp trên. Ai không đủ năm pháp trên thì không bị khiển trách.

 

Phật dạy:

 

- Khi có một trong năm pháp trên, cần phải khiển trách.

 

Vị này khiển trách đệ tử mình, các Bí-sô khác lại bao che. Phật dạy:

 

- Khi ai bị Thân giáo sư hay Quỹ phạm sư khiển trách, người khác bao che với ý ly gián, đó là phương tiện phá tăng, phạm tội Tốt thổ la.

 

Phật dạy:

 

- Không được bao che.

 

Các Bí-sô đều không dung chứa, nhân đó khó điều phục, lại không cung kính, có người bỏ ra nước khác, có người hoàn tục. Phật dạy:

 

- Nên sai Bí-sô dạy họ cải hối sinh tâm cung kính.

 

Vị kia sai người không thiện xảo đến bên họ bảo:

 

- Cụ thọ! Thân giáo sư của thầy xin thầy hãy hoan hỷ.

 

Họ sinh kiêu mạn. Phật dạy:

 

- Nên sai Bí-sô thiện xảo dạy bảo họ cải hối và có tâm thành kính.

 

Khi vị Bổn Sư thấy họ đến sám hối, không biết chọn lựa để dạy bảo, cứ tha cho hết. Họ không tiến triển trong việc tu tập thiện pháp, lại có vị nhỏ tuổi nhân đó hoàn tục. Phật dạy:

 

- Có đủ năm pháp mới cho sám hối.

 

    1- Có tín tâm;

    2- Có phát ý tinh tấn;

    3- Sinh cung kính;

    4- Nói ra lời tốt đẹp;

    5- Thân cận thiện tri thức.

 

Phật dạy:

 

- Trong năm pháp này, có nhiều hay ít cũng có thể sám hối được. Nhưng các Bí-sô, người không nên khiển trách mà khiển trách họ, bị tội vượt pháp; Người đáng khiển trách mà không khiển trách cũng bị tội vượt pháp; Người không được tha mà tha cho thì bị tội vượt pháp; Người nên tha cho lại không tha, cũng bị tội vượt pháp.

 

Nếu ai đối với năm pháp đen ở trên, biểu hiện ra một pháp, tâm không cung kính, nên đuổi họ ra. Nếu biết rõ họ có lòng từ, tùy thuận thì nên tha cho họ. Ai có đủ năm pháp đen thì nên đuổi ra. Ai không đuổi bị tội vượt pháp.

 

Phật dạy:

 

- Đuổi ra.

 

Bí-sô lột truồng họ rồi đuổi đi. Phật dạy:

 

- Không nên lột truồng đuổi đi, nếu là cầu tịch nên cho họ lưới lược nước, bình lọc và hai y trên dưới, sau đó cho họ đi. Nếu là cận viên hay sắp cận viên, nên cho họ sáu vật rồi đuổi ra khỏi chùa, không được lột truồng đuổi đi. (Sáu vật là: ba y, tọa cụ, lưới lược nước, bình đựng nước - bình có hai loại là nước sạch và nước rửa )

 

 

 

Nhiếp tụng bốn trong biệt môn ba.

 

    Tạo tự an bí võng

    Quảng trần tảo địa xứ

    Cầu pháp thuyết nhị đồng

    Nhiệt thời ưng tạo xá.

 

* Duyên khởi tại thành Thất La Phiệt. Như lời Phật dạy dùng chổ nằm dưới gốc cây, thanh tịnh dễ có được, Bí-sô y vào đây xuất gia và thọ cận viên thành Bí-sô tánh. Nếu được lợi dưỡng thêm như phòng ở, lầu gác đều được nhận dùng. Bí-sô làm chùa không làm nền bậc cấp và mái hiên. Phật dạy:

 

- Trước làm nền bậc cao vừa bằng đầu gối, trên kê ván dày, dựng trụ ở trên, rồi theo thứ tự lắp vì kèo, đòn dông, rui, trên lắp từng miếng ván bằng nhau, xếp gạch lên trên. Trên dùng gạch vụn trộn bùn, xây lên thật cứng, trên đắp bằng muối đá tro bùn trộn nhau. Một tầng làm như vậy, các tầng khác suy ra thì biết. Phía trước làm lan can với cây nằm ngang đính vào trụ không cho rơi ngã.

 

Có lúc, các Bí-sô thọ trai tại đó, chim sẻ bay đến làm rối loạn, cần đặt lưới ngăn. Họ không biết lấy gì làm lưới. Phật dạy:

 

- Có năm loại lưới là gai, vải thô, cỏ mang, cỏ tranh, vỏ cây đó ...

 

Tuy họ biết làm lưới nhưng không biết cách lắp đặt. Phật dạy:

 

- Bốn góc lưới đặt bốn vòng sắt nhỏ, tìm cách chống lên đừng cho mưa làm hư.

 

Sau đó, chim vẫn bay vào chỗ ngồi ăn ... dùng vật ngăn lại, ăn xong lấy ra. Khi Bí-sô đang ăn, có chó đến đứng mong tìm thức ăn thừa. Bí-sô không cho, chúng bị chết đói. Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Khi ăn nên bớt lại một phần để thí cho súc sinh.

 

Khi ấy, các Bí-sô sống ở A Lan Nhã ăn, chỉ cho chó hoang chứ không cho chim quạ. Quạ nổi sân dùng tiếng quạ gọi bọn cướp:

 

- Bí-sô trong rừng có nhiều vàng vật báu.

 

Hiểu tiếng quạ nói, giặc đến gặp Bí-sô đòi vàng. Bí-sô trả lời không có nên bị giặc đánh chưởi. Bí-sô nói:

 

- Than ơi! Này trượng phu tại sao đánh tôi?

 

Đáp:

 

- Ông có nhiều vàng tại sao không đưa ra?

 

Bí-sô nói:

 

- Tôi sống nơi rừng hoang, làm sao có nhiều vàng xin chớ đánh oan uổng.

 

Giặc nói:

 

- Chắc chắn ông có vàng, nếu không đưa ra, ta sẽ giết ông.

 

Bí-sô nói:

 

- Có người giận tôi nên nói dối như vậy. Chắc chắn là kẻ oán của tôi, xin nói thật cho biết.

 

Giặc nói:

 

- Vừa rồi quạ nói với ta.

 

Bí-sô nói:

 

- Vì chúng thù hận.

 

Hỏi:

 

- Vì sao?

 

Bí-sô kể lại sự việc trên. Giặc nói:

 

- Nếu thánh giả không nói rõ, chắc tôi giết oan rồi, đã biết xin thả ngài ra.

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Bí-sô bố thí với tâm cục bộ nên có lỗi như vậy. Do đó nên biết, khi để lại thức ăn nên cho khắp cả không dành riêng loài nào, rưới nước trên thức ăn cho ướt, bánh nên bóp nhỏ rãi trên đất, tùy ý chúng ăn, không nên ngăn lại. Ai ngăn lại, bị tội vượt pháp.

 

Bí-sô làm phòng gặp trời mưa, núp dưới mái hiên bị mưa ướt làm tổn hại. Phật dạy:

 

- Nên treo miếng che. Bí-sô không biết làm miếng che.

 

Phật dạy:

 

- Dùng tấm ván.

 

Họ che khắp cả làm phòng bị tối. Phật dạy:

 

- Không nên ngăn lại hết phải chừa chỗ sáng. Khó tìm tấm ván, Phật dạy:

 

- Dùng chiếu cỏ che tạm thời.

 

Gặp phải mưa ướt, trùng muổi sinh ra. Phật dạy:

 

- Chỉ dùng che trong mùa hạ mưa, lúc khác xếp cất.

 

CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ

TỲ-NẠI-DA TẠP-SỰ

 

Hết quyển mười ba hết.

 

--- o0o ---

Quyển thứ mười bốn

 

--- ooOoo ---

 

(Tiếp theo tụng bốn trong tổng tụng thứ ba).

 

* Duyên xứ như trước. Vào mỗi buổi sáng, trưởng giả Cấp Cô Độc đến rừng Thệ Đa, làm lễ Thế Tôn, sau đó quét dọn trong đất chùa. Một hôm, trưởng giả bận việc không vào chùa.

 

Đi kinh hành, Thế Tôn thấy mặt đất không sạch nên dùng tâm thế tục suy nghĩ: "Làm sao khiến cho thiên chủ Đế Thích từ núi Hương Túy mang chổi lại đây!"

 

Thường pháp của chư Phật là khi vận dụng tâm thế tục, cho đến loài kiến cũng hiểu được ý Phật, nếu vận dụng tâm xuất thế, thì Thanh văn Độc giác còn không hiểu nổi huống chi hạng khác khó lường được.

 

Sau khi suy nghĩ vì sao Đức Đại sư vận dụng tâm thế tục, Thiên Đế Thích biết Thế Tôn muốn đích thân quét mặt đất rừng Thệ Đa. Biết rõ ý Phật, Đế Thích đến núi Hương Túy lấy năm trăm cây chổi đẹp nhẹ mịn như tơ, đem đến trước Phật.

 

Khi ấy, Thế Tôn muốn những chúng sinh thích phước, trồng tịnh nghiệp trong ruộng thù thắng, nên tự cầm chuổi muốn quét trong rừng.

 

Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền Liên, Đại Ca Nhiếp Ba, A Nan Đà ... các đại Thanh văn thấy như vậy đều cầm chổi quét vườn chùa. Sau khi đức Phật Thế Tôn và các đệ tử quét sạch các nơi xong, đi vào nhà ăn, an tọa. Phật dạy các Bí-sô:

 

- Việc quét dọn có năm công đức thù thắng. Đó là:

 

    1- Tự tâm thanh tịnh.

    2- Làm tịnh tâm người khác.

    3- Chư thiên hoan hỷ.

    4- Trồng nghiệp đoan chính.

    5- Sau khi qua đời, sinh lên cõi thiên.

 

Sau đó, khi đến vườn chùa, trưởng giả Cấp Cô Độc nghe Thế Tôn cùng các đại đệ tử đích thân cầm chổi quét vườn chùa, nên suy nghĩ: "Như Lai Đại sư cùng các vị thánh chúng đích thân cầm chổi quét vườn chùa, làm sao ta dám bước chân lên ".

 

Khi ấy, với tâm niệm e sợ, trưởng giả đứng yên không dám bước tới. Biết nhưng đức Phật vẫn cố hỏi các Bí-sô:

 

- Ai đứng đó vậy?

 

Bí-sô bạch:

 

- Đại Đức! Đó là trưởng giả Cấp Cô Độc. Nghe Phật Thế Tônđại đệ tử đều đích thân cầm chổi quét rừng Thệ Đa, nên trưởng giả có ý e sợ đứng tại chỗ không dám bước tới.

 

Phật bảo trưởng giả hãy tụng kinh pháp và bước tới, vì Phật Thế Tôn kính trọng pháp, các vị A-la-hán cũng đều kính trọng pháp.

 

Tụng kệ pháp, trưởng giả đi đến chỗ Phật, lạy sát chân Phật, ngồi qua một bên. Thế Tôn thuyết diệu pháp khai thị hướng dẫn khen ngợi làm cho trưởng giả hoan hỷ. Sau khi nghe pháp, trưởng giả vui mừng từ giả trở về.

 

Khi ấy, các Bí-sô đều có nghi ngờ, thưa thỉnh Thế Tôn:

 

- Hy hữu thay! Đại đức tự mình có tâm tôn trọng tán thán cung kính đối với chánh pháp.

 

Phật dạy:

 

- Ngày nay, Như Lai đã thoát ly nhiễm ô, sân si, xa lìa sinh lão tử, không còn ưu bi khổ não, đầy đủ Nhất thiết trí, tự tại trong tất cả cảnh giới, mà tôn trọng pháp, tán thán chánh pháp, chưa phải là hy hữu. Các thầy nên biết, trong thời quá khứ, khi Ta còn đầy đủ nhiễm ô sân si, chưa thoát ly sinh lão bệnh tử, đang bị ưu bi khổ não, với nhân duyêncầu pháp mà tự xả bỏ thân mạng. Các thầy hãy lắng nghe, Ta sẽ kể lại.

 

Xưa kia, trong thành Bà La Nê Tư có vua tên Phạm Thọ dùng pháp trị đời. Nhân dân phồn thịnh an ổn vui vẻ ... nói rộng như những nơi khác. Vua Phạm Thọ rất tin tưởng chánh pháp, bẩm tánh hiền thiện, làm lợi mình lợi người, thương xót tất cả, thường làm việc bố thí, có đại t? bi, xa lìa tâm nhiễm trước, không còn tham tiếc. Sau đó, phu nhân của vua có thai, phát sinh ý nghĩ cầu nghe diệu pháp nên tâu với vua. Vua ra gọi tướng sư hỏi vì sao như vậy. Họ tâu:

 

- Do đại phu nhân mang thánh thai nên có ý nghĩ ấy.

 

Khi ấy, nhà vua vì cầu pháp nên ra lệnh cho đại thần đem vàng đầy rương, đi khắp trong nước dùng vàng cầu pháp nhưng không toại ý. Đủ tháng, phu nhân sinh người con dung mạo tuyệt trần, đầy đủ các tướng đẹp như nói ở nơi khác.

 

Với suy nghĩ: "Đứa bé này xinh đẹp, ai cũng thích nhìn, khi nó chưa sinh ra, đã có việc mong cầu diệu pháp", nhà vua hỏi:

 

- Thân tộc đã họp mặt vậy nên đặt tên nó là gì?

 

Đại thần tâu:

 

- Khi vương tử chưa sinh ra đã mong cầu diệu pháp, vậy nên đặt tên là Cầu Diệu Pháp.

 

Vua sai tám bà nhũ mẫu nuôi dưỡng như chỗ khác đã nói đầy đủ. Đứa bé như hoa sen lên khỏi mặt nước, theo năm tháng trưởng thành, thường cầu diệu pháp nhưng chưa toại ý. Sau khi vua cha băng hà, thái tử kế vị ngôi vua bảo quần thần:

 

- Các khanh hãy cầu diệu pháp cho ta.

 

Nhận sắc chỉ của vua, mang rương vàng đi khắp châu Chiêm Bộ, tìm cầu khắp nơi nhưng không được pháp gì, quần thần tâu vua:

 

- Đã tìm khắp trong nước nhưng không có diệu pháp.

 

Vì không thỏa mãn ý nguyện nên vua Cầu Pháp rất sầu não.

 

Bấy giờ, biết ý nhà vua vì cầu pháp nên sầu não, Thiên Đế Thích suy nghĩ: "Tuy như vậy, nhưng chưa biết tâm nhà vua chân hay giả, ta hãy đến thử".

 

Thiên đế liền biến thành một đại Dược xoa vung tay trợn mắt hình dáng thật đáng sợ, đến đứng trước nhà vua nói kệ:

 

    Thường tu tập thiện pháp

    Không làm những việc ác,

    Đời này và đời sau

    Thức, ngủ đều an lạc.

 

Nghe kệ này, tâm nhà vua rất hoan hỷ, thưa với Dược xoa:

 

- Xin nhân-giả hãy nói lại kệ ấy cho tôi được nghe.

 

Dược xoa đáp:

 

- Nếu vua làm theo lời ta, ta sẽ nói kệ.

 

Vua đáp:

 

- Xin vâng, mong ngài hãy nói, tôi không trái ý ngài.

 

Dược xoa nói:

 

- Đại vương! Nếu ngài thật ưa thích pháp, hãy làm hố lửa, đốt lửa cháy rực đỏ trong bảy ngày đêm, và nhảy vào trong hố lửa ấy, ta sẽ nói lại bài kệ ấy.

 

Nghe như vậy, nhà vua rất vui mừng gấp bội, thưa với Dược xoa:

 

- Xin làm đúng như vậy.

 

Nhà vua ra lệnh báo khắp trong nước, ta vì muốn nghe diệu pháp, bảy ngày sau sẽ nhảy vào hố lửa. Tất cả những người có duyên, thích việc hy hữu hãy đến xem việc làm của ta. Sau khi lệnh truyền ra, cả nước đều biết. Có vô lượng chúng sinh cùng đến đúng lúc. Do nhà vua chí thành trọng pháp nên cảm ứng đến vô lượng trăm ngàn chư thiên đến trên hư không đánh trống tấu nhạc ca hát tung hoa thơm cúng dường mừng đón việc hy hữu. Tất cả vì tôn trọng sự chí thành của vua nên đều đến tập họp.

 

Mãn bảy ngày, Dược xoa liền bay lên hư không bảo với Bồ Tát vua:

 

- Đã đến kỳ hạn xin ngài nhảy vào hố lửa.

 

Bấy giờ, nhà vua đưa thái tử lên kế vị ngôi vua, triệu khắp quần thần, họ đều hoan hỷ, cùng nhau từ biệt đi dần đến hố lửa. Khi đến bên bờ hố lửa, nhà vua nói kệ:

 

    Hố lửa rực rỡ cháy thế này,

    Đỏ như mặt trời làm người sợ

    Nay tôi hoan hỷ nhảy vào hố,

    Cầu pháp nên tâm không hối, sợ.

    Tôi tuy vào trong hố lửa cháy,

    Chắc chắn cầu được pháp hy hữu,

    Nguyện phước lợi này ích chúng sinh,

    Lửa dữ hóa thành ao sen mát.

 

Nói kệ xong, nhà vua nhảy vào hố lửa. Khi thân nhà vua rơi vào, hố lửa lớn hóa thành ao sen mát mẻ khả ái. Bấy giờ, thân Bồ Tát không bị thương tổn gì cả.

 

Đế Thích thấy sự việc hy hữu mà trời người đều quy kính như vậy, nên hóa trở lại thân Đế Thích, nói lại bài kệ cho vua:

 

    Thường tu tập thiện pháp

    Không làm những việc ác,

    Đời này và đời sau

    Thức, ngủ đều an lạc.

 

Nghe kệ xong, Bồ Tát ra khỏi ao, viết bài kệ trên lá bằng vàng, phổ biến khắp thành phố, làng xóm ở Chiêm Bộ Châu đều biết và tu học theo.

 

- Này các Bí-sô! Chớ có sinh nghi ngờ, vua Cầu Pháp ngày xưa, vì cầu pháp nên vứt bỏ thân mạng, nay chính là Ta, huống chi ngày nay đối với diệu pháp sao Ta lại không tôn trọng! Thế nên các thầy cần phải tu học việc Ta đối với diệu pháp cung kính cúng dường tôn trọng tán thán, phải thành tâm y vào pháp mà sống như vậy, tự lợi lợi người, thực hiện đầy đủ pháp.

 

Các Bí-sô nghe dạy, hoan hỷ phụng hành.

 

Như Thế Tôn dạy khi quét đất có năm điều lợi, có Bí-sô già cả bỏ việc tọa thiền tụng kinh vào rừng Thệ Đa tự mình quét đất. Phật dạy:

 

- Ta vì người tri sự nên nói như vậy, chẳng phải các Bí-sô già cả tu tập theo nghiệp ấy. Nhưng người nào đối với Ta, y theo thiện pháp luật mà xuất gia, có hai nghiệp để làm: Thứ nhất tu tập thiền định; Thứ hai tụng học kinh pháp.

 

Bí-sô nghe đức Phật vì người tri sự mà dạy riêng pháp này (nên họ không cùng quét), làm cho người tri sự không thể quét hết cả rừng Thệ Đa. Phật dạy:

 

- Tùy lúc cần nên quét. Vào ngày mồng tám hay mười lăm hàng tháng, nên đánh kiền chùy, tập họp hết chúng tăng cùng nhau quét dọn.

 

Các Bí-sô tuân theo lời Phật, nhưng trong lúc quét dọn bàn luận việc thế tục. Nghe việc hý luận nên thiên thần hộ chùa, phi nhân và các chúng khác sinh ý chê trách. Phật dạy:

 

- Không được hý luận, nên nói pháp ngữ hay im lặng như bậc thánh.

 

Khi các Bí-sô quét đất xong, dính bụi đất đầy người, làm cho người không kính tín sinh ý khinh chê. Phật dạy:

 

- Quét dọn xong, làm sạch đồ dơ, nên tắm rửa. Nếu ai không tắm rửa, phải lấy tay vốc nước, lau sạch bụi bặm, rửa tay chân như thường lệ.

 

Phật dạy:

 

- Hàng tháng vào ngày mồng tám, mười lăm, xem xét giường tòa.

 

Bí-sô nên cùng làm hết. Phật dạy:

 

- Không nên, hãy sai đệ tử xem xét kỹ, sợ có rận rệp và nhơ bẩn.

 

Như lời Phật dạy, thấy đất quét sạch nên tụng kinh mà đi qua. Bí-sô rưới nước ướt đất, sau đó quét sạch, làm nền sạch sẽ. Thấy vậy, người khác không dám bước lên. Phật dạy:

 

- Nên tụng kệ pháp, đi qua không phạm, chớ nghi ngại. Như vậy nên biết đối với các hương đài, điện, cây phướn, tháp, hình tượng Như Lai nên tụng kệ pháp sau đó mới đi qua. Nếu không làm như vậy, bị tội vượt pháp.

 

Khi ấy, phương Bắc có một quốc vương, đưa hai đồng tử tên là Đà Sách Ca và Ba Lạc Ca sang vua Thắng Quang làm con tin. Đà Sách Ca có khả năng làm thức ăn ngon. Bà Lạc Ca biết cách thiết trí sàng tòa. Người ở biên quốc tính ưa ăn uống, mỗi khi nhân việc đi lại nên vào chợ, họ lấy cơm thịt của người, ăn tùy ý, bị chủ hàng ăn đánh đập đau khổ. Hai đồng tử trở về gặp nhà vua, tâu:

 

- Đại vương! Vừa rồi chúng thần vào chợ, lấy ít cơm thịt, bị chủ hàng đánh đập đau khổ muốn chết.

 

Nghe như vậy, vua ra ra lệnh người trong chợ:

 

- Các ngươi nên biết, tự mình phải giữ gìn kỹ thức ăn uống, không nên đánh đập hai đồng tử này của ta.

 

Vào một lúc khác, sau khi bãi triều, vua nghỉ ngơi một lúc. Hai đồng tử bên cạnh vua, cùng nhau xoa bóp uốn nắn chân vua. Thấy vua im lặng, một người nói vua đang ngủ, người kia cũng cho là như vậy. Nghe vậy, với suy nghĩ: "Có lẽ hai người này có chuyện nói riêng, vua giả bộ ngủ và theo dõi câu chuyện".

 

Bấy giờ, Đà Sách Ca bảo Ba Lạc Ca:

 

- Có đời sau không?

 

Đáp:

 

- Làm sao có đời sau?!

 

Ba Lạc Ca hỏi Đà Sách Ca:

 

- Thế gian có A-la-hán không?

 

Đáp:

 

- Thế gian không có quả A-la-hán.

 

Nghe hai đồng tử nói xong, vua suy nghĩ: "Hai đồng tử này đều phát sinh ác kiến, một là đoạn-kiến, hai là tà-kiến". Nhà vua bảo với đại thần chuyện này, đại thần truyền đi, làm cho khắp gần xa trong nước đều biết hai đồng tử của vua là kẻ tà ác kiến.

 

Bấy giờ, giữa đại chúng, trưởng giả Cấp Cô Độc rống lên tiếng sư tử phân minh bảo mọi người:

 

- Ai sống trong nhà tôi, khi qua đời đều được sinh Thiên.

 

Nghe như vậy, vua suy nghĩ: "Nếu trưởng giả đến đây, ta sẽ giao hai đồng tử này cho ông ấy".

 

Sau đó, trưởng giả đến chỗ nhà vua, sai tiểu đồng mang theo vật lót ngồi. Sau khi trải chỗ ngồi xong, đồng tử này bỏ ra ngoài, cùng đùa giỡn với đồng tử kia.

 

Sau khi đồng tử đi khỏi, với suy nghĩ: "Nay đúng lúc giao hai đồng tử cho ông ấy, nhà vua ngầm bảo người giữ cửa:- Đừng cho đồng tử của trưởng giả đi vào".

 

Vâng lệnh vua, người giữ cửa không cho đồng tử kia vào.

 

Ngồi đã lâu, trưởng giả ý muốn về nhà nên đứng dậy và liếc tìm đồng tử theo hầu. Nhà vua hỏi: - Trưởng giả, ngài tìm gì?

 

Tâu:

 

- Đại vương! Tôi tìm đồng tử theo hầu.

 

Vua nói:

 

- Trưởng giả! Trẫm có hai người hầu, nay giao cho trưởng giả, hãy nhận mang về.

 

Biết ý của vua, trưởng giả miễn cưỡng nhận về và suy nghĩ: "Vì sao đại vương giao hai đồng tử này cho ta?". Ông lại suy nghĩ: "Trước đây, hai kẻ này là kẻ ác kiến, vua muốn thử, nên sai ta mang họ đi".

 

Bấy giờ, trưởng giả cùng dẫn họ về. Đến nhà, trưởng giả sai người giữ kho:

 

- Hãy cung cấp những vật cần dùng cho hai đồng tử này.

 

Trưởng giả lại bảo những người trong chợ:

 

- Nếu hai đồng tử này cần gì, bạn hãy cấp cho họ và gửi giấy tính chi phí, tôi sẽ thanh toán gấp bội.

 

Khi hai đồng tử đến gặp người giữ kho yêu cầu điều gì cũng được toại ý, họ hỏi:

 

- Tôi cần gì ông cũng cung cấp phải không?

 

Đáp:

 

- Cung cấp tất cả.

 

Đồng tử lại hỏi:

 

- Ai bảo như vậy?

 

Đáp:

 

- Trưởng giả.

 

Hai đồng tử bảo nhau:

 

- Trưởng giả đối với ta không khác gì cha mẹ. Những yêu cầu của ta đều được thỏa mãn.

 

Vào lúc khác, cả hai dẫn nhau vào chợ. Trông thấy, mọi người đều gọi:

 

- Hai đồng tử hãy đến hàng của tôi, tùy ý ăn uống.

 

Hai đồng tử nói:

 

- Trước kia, trông thấy chúng tôi, các vị đã đậy mâm thức ăn lại. Hôm nay, thấy từ xa, đã gọi chúng tôi, việc này tất có lý do, xin nói ra cho.

 

Mọi người đáp:

 

- Trước kia các người giật lấy ăn, không trả lại một chút nào. Nay trưởng giả thanh toán gấp bội. Vì vậy, chúng tôi mời các vị ăn.

 

Nghe như vậy, đồng tử nói với nhau rằng: - Trưởng giả từ bi, nên biểu hiện sự thân ái sâu xa.

 

Họ đến thưa với trưởng giả:

 

- Nếu có việc gì làm, xin được ngài giao phó.

 

Đáp:

 

- Tạm ở như vậy, sau có việc sẽ bảo làm.

 

Sau đó, trưởng giả dẫn hai đồng tử này vào rừng Thệ Đa, bảo họ cầm chổi quét đất chúng Tăng. Trưởng giả có việc cần phải về nhà, bảo hai đồng tử: - Ta có việc phải đi, các ngươi hãy ở lại quét sạch trong chùa và dọn đồ dơ ở chỗ khuất, làm việc ấy xong mới về nhà.

 

Hai người quét sạch đất xong, muốn dọn đồ dơ. Đức Phật dùng thần lực làm cho chỗ dơ bẩn nhiều vô cùng. Khi ấy, hai đồng tử này vì hiếu kính với chủ nên dùng hết sức mình dọn đồ dơ, không nghỉ.

 

Đức Phật bảo A Nan Đà:

 

- Nên để dành tàn thực cho hai đồng tử này.

 

A Nan Đà vâng lệnh và bảo họ ăn. Với suy nghĩ: "Cần phải dọn sạch đồ dơ xong, ta sẽ về nhà, hai đồng tử không ăn tàn thực này của thánh giả".

 

Với thần lực, Phật làm cho khi hai người dọn bên bờ Đông thì bờ Tây có lại như cũ, khi dọn bờ Tây thì bờ Đông có lại như cũ. Họ cực khổ như vậy đến xế chiều.

 

Phật bảo A Nan Đà:

 

- Hai đồng tử này sẽ nghĩ lại đêm gần bên thầy, thầy hãy bảo với các Bí-sô: "- Trước đây Ta dạy có việc thiện nên che dấu, làm việc ác phải phát lộ, nay muốn làm cho hai đồng tử này bỏ ác-kiến nên biểu hiện việc thiện của mình. Những Bí-sô nào có đắc định nên trú vào định của mình ngay từ đầu đêm".

 

Sau khi A Nan Đà tuyên bố lời Phật, vào đầu đêm các Bí-sô hoặc phóng ánh sáng, hoặc hiện tướng đặc biệt. Thấy như vậy, hai đồng tử hỏi A Nan Đà:

 

- Đây là cái gì?

 

A Nan Đà đáp:

 

- Đấy là các thần biến của các vị A La Hán biểu hiện.

 

Bấy giờ, hai đồng tử thưa:

 

- Thánh giả! Trong thế giới có bậc A La Hán hay sao?

 

A Nan Đà nói:

 

- Chẳng phải chính hai người đã thấy, vậy còn nghi ngờ điều gì!

 

Trước đây, hai người này đã có tà-kiến là không có bậc Ứng Cúng, nay thấy thần biến này, tà kiến không còn, phát sinh chánh kiến.

 

Vào giữa đêm, đức Phật vận dụng tâm thế tục: - Làm sao khiến Thích, Phạm, Chư Thiên cùng đến nơi đây ... như đã nói rõ ở trên.

 

Khi ấy, biết được ý nghĩ của Phật, chư Thiên đều đến chỗ Phật. Do uy lực của họ nên có ánh sáng lớn. Thấy như vậy, hai đồng tử hỏi A Nan Đà:

 

- Đây là ánh sáng gì?

 

Đáp:

 

- Đây là Phạm, Thích và chư Thiên đến gặp Phật nên hiện ánh sáng này.

 

Hỏi:

 

- Thánh giả! Có đời khác không?

 

Đáp:

 

- Chính ông đã thấy có gì phải nghi ngờ.

 

Trước đây, hai đồng tử này có tà kiến cho rằng không có đời sau, nay thấy chu thiên liền phát sinh tâm chánh kiến, rất mừng rỡ, cùng đến gặp Phật, đảnh lễ sát chân ngồi qua một bên.

 

Bấy giờ, Thế Tôn tùy theo căn tính của họ thuyết pháp Tứ-đế, chỉ dạy lợi ích, hoan hỷ làm cho được khai ngộ, dùng chày kim-cương phá tan núi 25 thân kiến, chứng quả Dự-lưu. Sau khi đắc quả, họ làm lễ sát chân Phật, thưa:

 

- Thế Tôn! Nay con xin nguyện được xuất gia trong pháp luật thiện thuyết của Như Lai, thọ giới cận viên thành tựu tính Bí-sô, tinh cần tu tập phạm-hạnh.

 

Thế Tôn bảo họ:

 

- Lành thay! Này Đà Sách Ca và Ba Lạc Ca hãy đến đây tu tập phạm hạnh.

 

Khi ấy, hai người này, ngay dưới chân Phật, râu tóc tự rụng, trên tay đủ bình bát. Khi cạo tóc xong, trong vòng bảy ngày, họ đi lại với đủ uy nghi như người một trăm tuổi hạ, nói kệ:

 

    Thế Tôn bảo "Thiện lai!"

    Tóc rụng, đủ pháp y.

    Uy nghi như trăm hạ

    Thành tựu như ý Phật.

 

Bấy giờ, được Thế Tôn đích thân dạy bảo, hai Bí-sô ấy siêng năng tinh tấn, trong thời gian không bao lâu đắc quả A-la-hán ... nói rộng như chỗ khác... cho đến là nơi Đế Thích, Phạm chư thiên cùng nhau kính trọng.

 

Sau khi Thế Tôn đã độ Đà Sách Ca và Ba Lạc Ca xuất gia, nghe như vậy vua Thắng quang không vừa ý:

 

- Vì sao Thế Tôn độ hai kẻ tà-kiến ấy xuất gia! Đây không phải là việc tốt vì ai cũng biết sự tà-kiến của họ.

 

Nghe như vậy, Thế Tôn suy nghĩ:

 

- Trong chúng của Ta, các đệ tử Thanh Văn đã đoạn trừ hết hoặc nghiệp, công đức đáng tôn trọng như núi Diệu Cao. Vì sao nhà vua sinh ý tưởng khinh mạn, đây thật là lỗi lớn. Nay, Ta hãy biểu dương công đức thù thắng của hai người kia.

 

Khi trưởng giả Cấp Cô Độc đến làm lễ sát chân Thế Tôn rồi ngồi qua một bên, nghe Phật thuyết pháp chỉ dạy lợi ích hoan hỷ. Khi Thế Tôn đã im lặng, trưởng giả rời chỗ ngồi đứng dậy chắp tay cung kính bạch:

 

- Thế Tôn! Cầu mong Đại sưthánh chúng, sáng mai đến nhà con thọ sự cúng dường nhỏ mọn.

 

Phật im lặng nhận lời. Biết như vậy, trưởng giả làm lễ Phật, từ giã.

 

Đức Phật bảo A Nan Đà:

 

- Thầy hãy đến bảo với Đà Sách Ca và Bà Lạc Ca rằng ngày mai hai vị đến nhà trưởng giả dọn dâng nước cho chúng Tăng.

 

Vâng lời Phật dạy, Tôn giả đến gặp hai người kia và nói lại lời sai bảo của Phật.

 

Tuân lời Phật dạy, hai vị này thưa với Tôn giả: - Chúng tôi xin phụng hành lời Phật dạy.

 

Họ suy nghĩ: "Vì sao Thế Tôn bỏ qua những vị kỳ túc và trung niên mà cố ý sai chúng ta dọn dâng nước, chẳng phải là Thế Tôn muốn biểu dương công đức thù thắng của ta hay sao! Chúng ta nên làm mãn nguyện của Thế Tôn".

 

Vào đêm ấy, trưởng giả dọn đầy đủ các món ăn thơm ngon tinh khiết là năm món ăn nhai và năm món ăn cắn. Vào sáng sớm, bố trí chỗ ngồi, xếp đặt đủ nước dùng, trang trí hoàn tất, trưởng giả sai sứ đến bạch Phật:

 

- Trai phạn đã dọn xong, kính xin Phật định liệu.

 

Bấy giờ, Thế Tôn mặc y mang bát cùng chúng Bí-sô đến nhà trưởng giả. Đến nơi, Ngài cùng đại-chúng ngồi vào chỗ ngồi đã dọn sẵn.

 

Trưởng giả cũng sai sứ đến tâu với vua Thắng-Quang:

 

- Hôm nay, tại tư gia, thần đã thỉnh Phậtchư Tăng, tổ chức lễ cúng dường nhỏ, xin đại vương bỏ chút thì giờ đến cùng tùy hỷ.

 

Nghe như vậy, nhà vua đưa thái tử, những người trong cung làm tùy tùng, đến nhà trưởng giả để cùng nhau tùy hỷ. Đến nơi lễ Phật xong, vua an tọa.

 

Khi ấy, cụ thọ Đà Sách Ca đứng trước thượng-tọa, tay cầm bình nước dùng thần lực gia trì, làm cho nước tự rót đến từ vị lớn đến vị nhỏ theo thứ tự để rửa tay. Cụ thọLạc Ca đứng trước hạ tọa, tay cầm bình nước dùng thần lực gia trì cũng làm cho nước tự rót ra dâng từ vị nhỏ đến vị lớn để súc miệng.

 

Thấy như vậy, Vua Thắng Quang suy nghĩ:

 

- Đây là đại đức Bí-sô kỳ túc nào mà dám hiện thần lực trước đức Phật vậy?

 

Vua tìm theo nước rót, đến bên Hạ-tọa, thấy Bà Lạc Ca tay cầm bình nước, lại tìm theo nước, đến bên Thượng-tọa, thấy Đà Sách Ca đang đứng cầm bình nước. Lấy làm hy hữu, nhà vua đưa bàn tay phải ra, tán thán:

 

- Hy hữu Phật Đà! Hy hữu Đạt Ma, lành thay chánh pháp có khả năng ngay trong hi?n tại làm cho Đà Sách Ca và Ba Lạc Ca xả bỏ tội ác-kiến, chứng đắc công đức thù thắng như vậy.

 

Thấy đại chúng đã an tọa, trưởng giả đích thân dọn các món ăn uống. Sau khi thọ trai, đại chúng rửa tay súc miệng, xỉa răng xong thu xếp bình bát. Trưởng giả đặt một chỗ ngồi nhỏ trước Phật, quỳ xuống nghe pháp.

 

Thế Tôn tùy theo căn cơ, thuyết pháp cho vua Thắng Quangtrưởng giả, làm cho lợi ích hoan hỷ, rồi đứng dậy từ giã.

 

Sau khi về trú xứ, các Bí-sô đều có nghi ngờ, bạch Thế Tôn:

 

- Đà Sách Ca và Ba Lạc Ca đã gây nghiệp gì mà sinh nơi biên địa, một người thì đoạn-kiến, một người thì tà-kiến. Họ lại gây nghiệp gì mà được xuất gia trong Phật pháp, đoạn tận các hoặc, chứng quả A-la-hán?

 

Phật bảo các bí sô:

 

- Hai người này do nghiệp đã làm nay quả báo đã thành thục ... nói rộng như trước... cho đến... tự nhận lấy quả báo. Các thầy hãy lắng nghe, thời quá khứ trong Hiền-kiếp này, khi loài người thọ hai vạn tuổi, có Phật Ca Nhiếp Ba xuất hiện trong đời. Hai người này xuất gia trong giáo pháp đức Phật ấy. Cùng nhau làm bạn, họ đi đến biên quốc, tự tu tập thiền định, nhưng không thầy dạy bảo, thật không chứng đắc lại tưởng mình chứng đắc. Khi lâm chung, họ phỉ báng Thánh-pháp, sinh tâm tà kiến, nói rằng: - Phật Ca Nhiếp Ba dối gạt thế gian (cho rằng) đoạn trừ các phiền não thì chứng A-la-hán. Đối với các hoặc, ta không thể đoạn hết, làm sao người khác chứng A-la-hán được.

 

Này các Bí-sô chớ có nghi ngờ, hai người tu tập thiền định không có thầy ngày xưa, nay là Đà Sách Ca và Ba Lạc Ca. Họ do phỉ báng Thánh pháp, sinh tà kiến nên bị đọa trong ác đạo nhiều đời, lại nhiều đời sinh ở nơi biên địa phát sinh tà kiến cho đến đời này lại sinh đến nơi biên địa và có tà kiến. Hai người này nhờ tụng tập thọ trì đạo lý về uẩn, giới, xứ, duyên sinhthiện xảo về xứ cùng phi xứ, do sức nghiệp này được xuất gia tu tập trong giáo pháp của Ta, đoạn trừ các hoặc chứng quả A-la-hán. Tu tập thiền định không thầy hướng dẫn có lỗi như vậy, thế nên các thầy không nên tự tu tập thiền định mà không có thầy hướng dẫn. Ai cố ý tu học như vậy bị tội vượt pháp.

 

* Duyên xứ tại thành Thất La Phiệt. Trưởng giả nọ cất một thất nhỏ trong chỗ Lan Nhã. Có một Bí-sô trú ở đó. Vào mùa xuân, tiết trời nóng bức, làm cho thân hình Bí-sô vàng vọt gầy ốm không có sức khỏe. Muốn đi đến nơi khác, Bí-sô thưa với trưởng giả:

 

- Ngài nên tự giữ, tôi muốn đi nơi khác.

 

Trưởng giả hỏi:

 

- Có điều gì thiếu sót mà ngài muốn đi nơi khác?

 

Đáp:

 

- Tôi không thiếu thốn gì cả, chỉ vì trời quá nóng, không ở trong thất nhỏ được.

 

Trưởng giả nói:

 

- Nếu ngài sợ nóng, con sẽ làm hang đ?t.

 

Đáp:

 

- Trưởng giả! Đức Phật chưa cho phép.

 

Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Người nào cần hang đất, được làm tùy ý.

 

Trưởng giả làm hang. Đến tháng mùa hạ khí lạnh ẩm ướt Bí-sô không thể ở được, lại nói với trưởng giả:

 

- Tôi muốn đi nơi khác ...

 

Hỏi đáp như trước vì đất ẩm ướt sinh thêm bệnh ho đàm không thể ở được. Trưởng giả nói:

 

- Nếu vậy, con sẽ làm nhà lớn.

 

Bí-sô đáp:

 

- Thế Tôn chưa cho phép.

 

Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật cho phép làm nhà lớn. Trưởng giả làm nhà lớn, vì không làm hành lang nên cây chống trên cao muốn gãy. Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Nên làm hành lang, nếu sợ gẫy nên làm trụ xiêng dùng đinh đóng giữ lại.

 

 

 

Nhiếp tụng năm trong biệt môn ba:

 

    Thạch diêm an giác nội

    Dược khí dụng cù du

    An thế tụng kinh thời

    Dĩ vật thừa kỳ túc.

 

Duyên khởi tại tinh xá Trúc Viên, thành Vương Xá. Sau khi xuất gia, Cụ thọ Tất Lân Đà Bạt Ta thường bị bệnh. Có vị đồng phạm hạnh đến thăm hỏi:

 

- Thưa thượng tọa! Tứ đại ngài an ổn không?

 

Đáp:

 

- Tôi bệnh hoạn làm sao an ổn!

 

Hỏi:

 

- Từ trước đến nay thượng tọa từng dùng thuốc gì?

 

Đáp:

 

- Tôi từng dùng muối cục.

 

Hỏi:

 

- Vậy sao nay không dùng nữa?

 

Đáp:

 

- Hiền thủ, đức Phật chưa cho phép.

 

Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Nay Ta cho phép Bí-sô được cất giữ muối tiên đà bà.

 

Bí-sô để bừa bãi làm cho muối bị tiêu hao. Phật dạy:

 

- Không được để như vậy, phải để có nơi, nên cất trong ống.

 

Bí-sô để trong ống tre, muối cũng bị tiêu. Phật dạy:

 

- Nên dùng ống bằng sừng để muối bên trong.

 

Bí-sô dùng sừng mới, làm muối có mùi hôi. Phật dạy:

 

- Dùng nước nóng và phân bò khô nấu tẩy sạch sừng mới, thì không bị hư.

 

Như Phật dạy nên để muối cục trong sừng, Bí-sô không biết đậy, làm cho bụi đất rơi vào. Phật dạy:

 

- Nên đậy lại.

 

Bí-sô không hiểu cách làm. Phật dạy:

 

- Dùng sừng để đậy.

 

Nhân Bí-sô Tất Lân Đà Bạt Ta bị bệnh ... hỏi đáp như trước, cần phải dùng bát nhỏ đựng thuốc. Phật dạy:

 

- Được phép giữ.

 

* Duyên khởi tại thành Thất La Phiệt. Trưởng giả nọ lấy vợ chưa bao lâu sinh được một bé trai. Khi trưởng thành, cậu ấy xuất gia trong pháp luật thiện thuyết, chỉ nằm giường trống chưa có tấm thảm lót.

 

Sau đó, trưởng giả vào chùa thăm viếng, thấy con mình chỉ nằm giường trống không có tấm lót, nên bảo:

 

- Thánh tử, các Bí-sô khác đều có tấm lót nằm, tại sao ông không có?

 

Đáp:

 

- Các vị khác phần nhiều xuất gia kỳ cựu, đã trữ cất từ trước đến nay. Con mới xuất tục nên chưa có.

 

Nói:

 

- Nếu như vậy, nhà ta có tấm thảm tốt, hãy dùng để trải nằm.

 

Đáp:

 

- Phật chưa cho phép.

 

Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Cho phép dùng tấm thảm lót.

 

Bí-sô không dùng tấm bọc, ở trần nằm lên làm có nhiều cấu bẩn. Khi vào chùa, trưởng giả thấy tấm thảm bị dơ bẩn, không còn nhận ra nên hỏi người con:

 

- Ông vừa có tấm thảm khác phải không?

 

Đáp:

 

- Đấy là tấm cũ.

 

Cha nói:

 

- Vì sao dơ bẩn đến như vậy?

 

Đáp:

 

- Không có tấm bọc nên dơ như vậy.

 

Cha nói:

 

- Đây là vật có giá trị mà làm cho hư hoại. Ông nên bọc lại rồi dùng.

 

Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Tuy là vật riêng nhưng cũng phải bọc lại, nếu không bọc lại bị tội vượt pháp.

 

Duyên xứ như trước. Phật dạy:

 

- Người nhận việc tụng kinh nên ngồi trên tòa cao. Người ấy ngồi trên tòa sư tử thả hai chân xuống nên bị mệt nhọc.

 

Phật dạy:

 

- Nên làm bệ đỡ chân.

 

Bí-sô không hiểu. Phật dạy:

 

- Nếu tòa cố định thì nên làm bệ gạch. Nếu tòa di chuyển thì làm bệ ván gỗ.

 

Tuy làm bằng ván gỗ nhưng khó khăn khi di chuyển, Phật dạy:

 

- Nên làm bốn vòng sắt ở bốn góc, tùy ý kéo đi.

 

Có Bí-sô cầu phước và người tục có tín tâm bôi bột thơm vào bốn chân tòa làm cho tụng kinh sư không dám bước chân lên. Phật dạy:

 

- Dùng cỏ hay lá cây lót ở trên rồi bước lên chớ nghi ngại.

 

Duyên khởi như trước. Phật dạy:

 

- Làm bệ đỡ chân.

 

Bí-sô ở rừng tìm vật này khó khăn, thả chân bị mõi mệt. Họ đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Dùng đá đỡ chân.

 

 

 

Nhiếp tụng sáu trong biệt môn ba:

 

    Thức diện cân sơ bạc

    Thóa bồn tinh sấn thể

    Thiết tào thiết cơ địa

    Nguyệt quang châu hoãn y.

 

* Duyên khởi tại thành Vương Xá. Bí-sô Tất Lân Đà Bạt Ta bị bệnh nên đầu mặt bị cáu bẩn, hỏi đáp như trước ... cho đến ... : Trước đây thượng tọa dùng vật gì?

 

Đáp:

 

- Dùng khăn lau mặt.

 

Hỏi:

 

- Nay sao không dùng?

 

Đáp:

 

- Phật chưa cho phép.

 

Họ đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Có bệnh hay không đều nên dùng khăn lau mặt.

 

* Duyên xứ như trước. Tất Lân Đà Bạt Ta nóng khổ nên thân thể vàng vọt, hỏi đáp như trước cho đến ... : Trước đây thượng tọa dùng vật gì?

 

Đáp:

 

- Dùng y mỏng.

 

Hỏi:

 

- Nay sao không dùng?

 

Đáp:

 

- Phật chưa cho phép.

 

Họ đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Khi trời nóng nên dùng y mỏng.

 

* Duyên tại thành Thất La Phiệt. Có Bí-sô bị bệnh ho đàm, khạc nhổ đờm dãi hai bên giường làm cho nhơ bẩn. Trời sắp sáng, môn nhân vào phòng, làm lễ thăm hỏi, bị đàm dính bẩn trán. Thấy vậy, Bí-sô hỏi, vị ấy nói lại sự việc trên. Sau khi nói: "- Để ta xem thử", Bí-sô vào phòng, thấy đờm dãi cuả vị ấy bừa bãi bên cạnh giường, nên nói lại các Bí-sô. Họ cùng nhau sinh hiềm khích:

 

- Vì sao Bí-sô khạc nhổ nhơ bẩn trong phòng tăng!

 

Họ đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Chẳng phải chỗ để khạc nhổ, không nên khạc nhổ. Trong chỗ tối tăm không được lễ bái đầu đụng đất. Ai cần phải lễ kính nên nói: Kính chào ngài. Chỉ có thỉnh bạch đầu nên làm như vậy. Ai bị thương hàn phải khạc nhổ, nên dùng ống nhổ.

 

Khi bỏ vật vào ống nhổ bị nghiêng làm nhơ bẩn thêm, Phật dạy:

 

- Nên đặt trong vật giữ.

 

Họ đặt trong vòng dây nhưng vẫn bị nghiêng đổ. Phật dạy:

 

- Ống nhổ và chậu súc miệng hình dạng như chân voi, đáy lồi vào trong, đặt trên đất an ổn.

 

Khi đổ nước nhổ vào làm đáy lõm xuống, Phật dạy:

 

- Lót vật vào trong chậu.

 

Bí-sô không hiểu, Phật dạy:

 

- Nên cắt cỏ để vào hoặc để đất hay cát bên trong.

 

Có nhiều ruồi bu vào, Phật dạy:

 

- Nên quạt đuổi đi.

 

Trong bồn có mùi hôi, Phật dạy:

 

- Thường xuyên rửa cho sạch.

 

Sau khi rửa, không phơi khô nên có trùng sinh ra. Phật dạy:

 

- Nên phơi khô.

 

Lại có Bí-sô khạc nhổ không ngừng, chờ phơi ống nhổ khô, bỏ lỡ công việc. Phật dạy:

 

- Nên sắm hai cái dùng thay nhau.

 

Bí-sô tụng kinh, kinh hành dưới hiên nhà, khạc nhổ bừa bãi. Phật dạy:

 

- Không nên như vậy. Ai khạc nhổ bừa bãi bị tội vượt pháp. Nhưng tại chân của trụ ở bốn góc chùa nên đặt ống nhổ. Ai muốn khạc nhổ nên nhả vào đó.

 

* Duyên khởi tại thành Thất La Phiệt. Có Bí-sô tên Mao huyết. Thời quá khứ, vị này bị sinh tử trong năm trăm đời tại địa ngục, sau khi sinh vào loài người, sống đời thế tục thường ưa trang sức, hoan lạc không chán, không còn nghĩ đến địa ngục. Hiện nay, vị ấy xuất gia tu tập trong Phật pháp, nghe Phật thuyết pháp trong Tam tạng thánh giáo dạy về sự khác nhau của khổ địa ngục, bàng sinh, ngạ quỷ, người trời. Khi nghe đến địa ngục, sự đau khổ của vị này liền hiện tiền, các lỗ chân lông đều chảy ra máu, làm ướt bẩn y phục nên có mùi hôi.

 

Bí-sô đem việc này bạch Phật. Phật dạy:

 

- Bí-sô như vậy nên dùng y lót thân.

 

Bí-sô dùng y lót trên y ngoài gây ra chê trách. Phật dạy:

 

- Nên mặc bên trong.

 

Bị ghẻ nhọt, họ dùng y để lau. Phật dạy:

 

- Không nên làm vậy, nếu có máu mủ nên dùng lá cây nấu nước nóng từ từ rửa sạch, thường xuyên giặt y lót thân và phơi cho khô.

 

Duyên khởi tại thành Vương Xá. Cụ thọ Tất Lân Đà Bạt Ta thường bị bệnh. Có vị đồng phạm hạnh đến thăm hỏi như trước ... cho đến ... : Trước đây thượng tọa dùng vật gì?

 

Đáp:

 

- Trước đây ngâm trong bồn sắt chứa nước thuốc nóng.

 

Hỏi:

 

- Vậy nay sao không dùng?

 

Đáp:

 

- Phật chưa cho phép.

 

Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Người bệnh được dùng bồn sắt.

 

* Duyên khởi tại thành Thất La Phiệt. Vào mùa hạ trời mưa, các Bí-sô đi nhiễu tháp bị bùn làm bẩn chân.

 

Phật dạy:

 

- Nên lát gạch, bên trên dùng gạch vụn trộn bùn nện chặt, lại trải đá sỏi và tro bùn.

 

Tháp quá lớn không làm khắp được. Phật dạy:

 

- Làm vừa một tầm.

 

Như vậy cũng khó làm đủ. Phật dạy:

 

- Lót ván.

 

Khó tìm ván. Phật dạy:

 

- Nên xếp gạch từng bước đi.

 

Cửa chùa và trong chùa có nhiều vũng bùn. Phật dạy:

 

- Theo cách như trên mà lấp bằng.

 

* Duyên khởi như trước. Trưởng giả nọ làm một nhà nhỏ trong khu rừng yên tịnh cho Bí-sô ở nhờ. Gặp mùa lạnh, Bí-sô bị lạnh nên thân thể gầy yếu, đến bảo trưởng giả:

 

- Tôi muốn đi nơi khác.

 

Đáp:

 

- Thánh giả, có việc gì thiếu thốn không?

 

Bí-sô nói:

 

- Không có gì thiếu thốn, chỉ khổ vì lạnh.

 

Trưởng giả nói:

 

- Ngài cứ ở lại đây, con sẽ đưa ngọc Nhật quang thường lấy ra lửa để dùng.

 

Đáp:

 

- Trưởng giả! Phật chưa cho phép.

 

Trưởng giả nói:

 

- Đức Phật đại từ bi chắc chắn cho phép nhận dùng.

 

Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Nếu cần ngọc Nhật quang, cho phép cất giữ, tùy lúc lấy ra lửa.

 

Trưởng giả liền đưa ngọc cho Bí-sô xử dụng.

 

Bấy giờ, có năm trăm tên giặc muốn đánh thành nhỏ, đi qua chỗ Bí-sô, bảo:

 

- Cần lửa.

 

Đáp:

 

- Hiện nay không có.

 

Giặc hỏi:

 

- Có cách gì được lửa?

 

Đáp:

 

- Hiền thủ! Có ngọc Nhật quang có thể lấy ra lửa.

 

Bí-sô chỉ chỗ có ngọc.

 

Sau khi đi phá thành, giặc trở lại chỗ cũ, muốn đoạt ngọc nên hỏi ngọc ở đâu. Bí-sô đưa ngọc ra, giặc lấy mang đi mất. Bí-sô sợ lạnh đến gặp trưởng giả, nói:

 

- Tôi lạnh ... như trên.

 

Trưởng giả nói:

 

- Ngọc ở đâu?

 

Đáp:

 

- Bị giặc lấy mang đi rồi.

 

Trưởng giả nói:

 

- Đó là vật quý giá, không cất giữ cẩn thận để cho giặc lấy mang đi, thật đáng tiếc.

 

Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Ngọc quý như vậy không nên chỉ cho giặc. Ngọc cho ra lửa như Nhật quang, Nguyệt quang cũng như vậy.

 

* Duyên xứ như trước. Lục chúng Bí-sô sai người giặc y tẩy giặt y phục. Người thợ giặc vì nhận nhiều y phục khác nên giặt không xong kịp. Vào buổi chiều sẩm, Ô Ba Nan Đà cầm y dơ cũ, đến nhà người thợ giặt bảo:

 

- Hãy giặt y.

 

Đáp:

 

- Đang có nhiều y quá, sáng mai sẽ giặt.

 

Ô Ba Nan Đà liền tức giận. Thợ nói:

 

- Xin đừng giận, hãy để lại đây rồi đi, tôi sẽ giặt ngay.

 

Vội vàng, người thợ ngâm y này chung với nhiều y phục khác làm cho màu đỏ nhiễm ố các y khác. Thấy vậy, người thợ ôm trán buồn rầu. Nhiều người đến thấy cùng nhau chê trách. Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật suy nghĩ: "Do giặt y nên sinh ra nhiều việc chê trách ".

 

Ngài bảo các Bí-sô:

 

- Ô Ba Nan Đà dùng y màu đỏ làm ố các y phục khác, thế nên các Bí-sô không nên sai người khác giặt y màu đỏ. Ai làm như vậy bị tội vượt pháp.

 

Nghe như vậy, Lục chúng đem y trắng đến cho họ giặt. Họ đem chà đập làm y bị hư. Phật dạy:

 

- Bí-sô không nên bảo thợ giặt giặt y của mình.

 

* Duyên xứ như trước. Lục chúng Bí-sô nghe Phật không cho phép Bí-sô bảo thợ giặt y cho mình, liền cầm y đến chỗ giặt y, lấy vật khác che phủ đầu, ngồi bên bờ hồ tự giặt y cho mình.Thấy vậy, mọi người chê trách. Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Bí-sô không nên đến chỗ giặt y để giặt y phục. Ai làm vậy bị tội vượt pháp.

 

* Duyên khởi như trước. Bí-sô chà đập giặt y trên tấm ván lớn, làm cho y bị hư. Phật dạy:

 

- Không nên làm vậy, nên ngâm với nước nóng trong bồn, dùng tay vò giặt từ từ làm cho sạch.

 

Phật khiến giặt y bằng tay. Có Bí-sô không làm được, Phật dạy:

 

- Dùng chân.

 

Có người không thể dùng tay hay chân, Phật dạy:

 

- Nhờ người khác làm thì chính mình phải trông chừng.

 

CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ

TỲ-NẠI-DA-TẠP-SỰ

 

Quyển thứ mười bốn hết.

 

--- o0o ---

Quyển thứ mười lăm

 

--- ooOoo ---

 

Nhiếp tụng bảy trong biệt môn ba:

 

    Thí thân lý xà yên

    Thạch khí sinh nghi hoặc,

    Nhiễm y hữu đa chủng

    Tùy ý họa Già lam.

 

* Duyên khởi tại thành Thất La Phiệt. Vừa tắm xong, thân thể còn ướt, Bí-sô đã mặc y làm cho y ố màu và có mùi hôi. Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Nên sắm khăn lau thân.

 

Có Bí-sô không tìm được khăn. Phật dạy:

 

- Tắm xong, ngồi xổm một lúc trên đất, dùng y tắm lau khô thân thể, sau đó mặc y.

 

Mang dép da bị dính bùn đất, Bí-sô chà đập làm dép bị đứt quai. Phật dạy:

 

- Không nên làm như vậy.

 

Họ lại rửa bằng nước làm dép bị hư. Phật dạy:

 

- Không nên làm vậy, dùng khăn ướt lau.

 

Do đó, Bí-sô nên dùng vật để lau giày dép. (Y tắm - nguyên ngữ là tẩy quần, dùng một tấm vải rộng một khổ rưỡi, dài sáu thước Tàu quấn chặt che từ eo lưng xuống dưới đùi, không cột đai. Đó là theo phép của các nước Tây trúc). (Chăn tắm của chư Tăng Nam Truyền xử dụng là tấm vải dài chừng 2,2m rộng chừng 0,8m. N.D).

 

* Phật ở bên bờ hồ Yết Già, nước Chiêm Ba. Có Long nữ tín tâm thuần thiện nhưng rồng con lại không tin, không sống theo pháp luật. Rồng mẹ tìm cách khuyến khích con nghe pháp:

 

- Con hãy đến bên Thánh giả nghe chánh pháp để con được phước lợi.

 

Không biến đổi hình rồng, rồng con đến chỗ tụng kinh. Thấy vậy, Bí-sô trẻ tuổi sợ hãi kêu lớn:

 

- Lưng dài! Lưng dài!

 

Các Bí-sô chưa ly dục khác đều sợ hãi, dùng dây lông cột cổ rồng, lôi ném ra ngoài chùa.

 

Rồng con về nhà, mẹ hỏi:

 

- Vừa rồi con đến chỗ Thánh giả nghe pháp phải không?

 

Đáp:

 

- Mẹ yêu mến! Không nên nói đến người không từ ái này làm gì.

 

Mẹ hỏi:

 

- Đối với con, họ đã làm việc phi pháp gì?

 

Rồng con kể lại đầy đủ chuyện bị dây lông cột cổ.

 

Mẹ nói:

 

- Do sự việc như vậy nên gọi họ là Thánh giả, nếu là hạng khác thì chắc đã giết chết con rồi.

 

Rồng con im lặng.

 

Bạn bè của rồng con thấy vậy cùng nhau chê bai, gọi nó là cổ lở. Bị họ diễu cợt, rồng con buồn rầu thân thể vàng vọt, gầy ốm, mất sức, suy nhược. Thấy vậy, rồng mẹ hỏi:

 

- Vì sao thân thể con ốm vàng như vậy?

 

Đáp:

 

- Mẹ thân! Con thường bị bạn bè châm chọc là cổ lở. Con xấu hổ nên gầy ốm như vậy.

 

Mẹ nói:

 

- Vì con không biến đổi thân hình cũ nên bị lỗi như vậy, nếu biến hình thì không bị dây lông trói cổ. Từ nay, đi nghe diệu pháp, con phải biến hình, tùy thuận như vậy thì mặc sức thấy nghe. Nếu giữ thân cũ, con phải ần mình để nghe.

 

Vì thiếu lòng tin nên rồng con chỉ im lặng chứ không theo lời mẹ dạy. Rồng mẹ suy nghĩ: "Thánh giả dùng dây lông cột cổ rồng con, gây khó khăn cho người muốn nghe pháp. Vì chuyện này, ta nên đến bạch Phật ".

 

Vào giữa đêm, với thân hình chiếu sáng rồng mẹ đến gặp Phật, lạy sát chân Ngài, ngồi qua một bên. Do hào quang trên thân của rồng mẹ chiếu ra làm cho khắp hồ Yết Già sáng rực rỡ. Rồng mẹ bạch Phật:

 

- Đại Đức! Con của con thiếu lòng tin, con khuyên nó đến nơi tụng kinh. Trông thấy nó, Thánh giả dùng dây lông cột chặt cổ ném ra ngoài chùa nên cổ bị thương tổn. Các bạn của nó thấy vậy nên châm chọc gọi là cổ lở. Vì bị châm chọc nên thân thể nó vàng vọt gầy yếu hao tổn. Cầu xin Thế Tôn nhẹ nhàng ngăn ngừa chư thánh chúng chớ nên dùng dây lông cột cổ các rồng con, xin Ngài từ mẫn cho.

 

Biết như vậy, Thế Tôn im lặng nhận lời. Long nữ lễ Phật từ giả.

 

Sáng sớm hôm sau, khi an tọa trước chúng tăng, Thế Tôn bảo các Bí-sô:

 

- Đêm qua, Long nữ đến gặp Ta, lạy sát chân rồi ngồi qua một bên với ánh sáng chiếu ra làm sáng rực cả bờ hồ, thưa với Ta: "Đại đức! Con của con chưa có lòng tin nên con khuyên nó đến chỗ tụng kinh. Trông thấy nó, Thánh giả dùng dây cột lông chặt cổ ném ra ngoài chùa. Do cổ thương tổn, bị các bạn châm chọc nên thân thểâu sầu vàng vọt suy nhược hao tổn. Cầu xin Thế Tôn nhẹ nhàng ngăn các thánh chúng đừng dùng dây lông cột các rồng con, xin Ngài từ mẫn cho ".

 

- Này các Bí-sô! Vì sao các thầy làm việc phi pháp như vậy, làm cho long thần kia sinh tâm khinh mạn, có thể khiến cho chánh pháp bị đưa đến tiêu vong. Thế nên các Bí-sô không được dùng dây lông cột cổ rồng rắn, khi thấy chúng đến, nên búng ngón tay bảo:

 

- Hiền thủ! Hãy đi đến chổ khuất. Nếu chúng theo lời bỏ đi thì tốt, nếu không đi thì dùng gậy chỉa hai như chân dê nhẹ nhàng kẹp đầu bỏ vào trong ống đất có khoét lỗ bên hông, dùng vật bịt miệng, khiêng bỏ ra ngoài. Nếu không có loại gậy này thì dùng loại dây mềm cột nhẹ cổ kéo đi. Nếu không có dây mềm thì dùng gậy nhẹ nhẹ đè giữ rồi dùng dây tơ buộc cổ bỏ vào trong ống, như trước đưa ra ngoài thả nơi vùng cây cỏ ...

 

Rắn phun lửa sân, đốt cháy đám cỏ, rắn cũng bị chết. Phật dạy:

 

- Không nên thả trong đám cỏ.

 

Sau, họ bỏ rắn nơi đất trống, không trông chừng lâu, lại có các loại trùng khác đến ăn thịt. Phật dạy:

 

- Thả ra, không nên đi ngay, thả nơi đất trống, đợi chúng vào hang rồi sau đó mới đi.

 

* Duyên khởi tại thành Vương Xá. Trong thành có một trưởng giả giỏi làm những vật dụng bằng đá, tùy thời trữ hay bán nên thu hoạch nhiều lợi nhuận. Ông ta suy nghĩ: "Làm cách gì để được nhiều phước nghiệp, ngay trong đời này được lợi không cùng. Ta nên thỉnh Phật và Tăng đến nhà cúng dường, dùng thực phẩm đựng trong đồ dùng bằng đá, thu hoạch nhiều phước nghiệp, được lợi ích vô cùng".

 

Ông ta đến gặp Phật thưa như trên ... cho đến Phật và chư Tăng đến nhà an tọa. Trưởng giả dọn đồ dùng mới cho thượng tọa, đồ dùng cũ cho hạ tọa. Bí-sô nghi ngại không chịu thọ nhận. Phật dạy:

 

- Phát xuất nơi tâm thanh tịnh nên được nhận chớ nghi ngại.

 

Trưởng giả cúng dường làm cho tất cả đều no đủ. Đức Phật thuyết pháp xong, rời tòa ra về.

 

* Duyên khởi tại thành Thất La Phiệt. Bí-sô cần nhuộm, Thế Tôn cho phép. Bí-sô nấu cây nhuộm còn ướt để nhuộm y cho hoại sắc. Phật dạy:

 

- Nên phơi cây cho khô sau đó mới nấu nhuộm.

 

Họ phơi y vào giữa trưa nên màu nhuộm không tốt. Phật dạy:

 

- Không nên phơi giữa trưa nắng.

 

Họ để chỗ tối làm cho y bị mốc. Phật dạy:

 

- Không nên để nơi quá nắng hay quá tối tăm, tùy lúc phơi cho khô ráo.

 

Họ lại nấu chung y cùng với cây nhuộm làm cho y bị hư. Phật dạy:

 

- Nấu nước nhuộm riêng.

 

Họ nhuộm chỉ một lượt rồi đổ bỏ cây nhuộm. Phật dạy:

 

- Nên nấu nhuộm ba lần rồi mới bỏ.

 

Bí-sô nấu ba lần nước để nhuộm đổ chung một chỗ. Phật dạy:

 

- Nên để riêng ba chỗ.

 

Họ không nhớ nước nào trước sau và giữa. Phật dạy:

 

- Ghi rõ thứ tự của nó.

 

Bí-sô dùng nước nhuộm rưới trên y. Phật dạy:

 

- Không nên vậy, đổ nước nhuộm vào chậu trước, sau đó nhúng y vào.

 

Họ dùng nhiều nước nhuộm, khi phơi bị chảy nước. Phật dạy:

 

- Không nên dùng nhiều nước nhuộm.

 

Có lúc họ nhuộm ít nước làm y bị loang lỗ. Phật dạy:

 

- Không được quá nhiều hay quá ít, châm chuớc vừa phải.

 

Họ phơi y trên đất, làm y bị dính bụi đất. Phật dạy:

 

- Không nên như vậy.

 

Họ phơi trên cây nhọn làm cho nước nhuộm nghiêng về một bên. Phật dạy:

 

- Nên phơi trên dây hay trên sào.

 

Họ vắt trên dây làm y đùn vào giữa nên không ăn màu. Phật dạy:

 

- Nên phơi một bên y trên dây, dùng kẹp tre kẹp lại cho ổn định. Nếu sợ hư y thì dùng vật lót chỗ kẹp.

 

Bí-sô không thường trở tấm y làm cho màu nhuộm ở một bên. Phật dạy:

 

- Nên trở nhiều lần.

 

Bấy giờ có Bí-sô làm đại y nhiều lớp, nhuộm rồi phơi trên dây, nặng quá dây không chịu nổi. Phật dạy:

 

- Trải phơi trên cỏ, trở nhiều lần (cho khô).

 

Có người dùng thuốc nhuộm mới nhuộm y cũ, có người lấy y mới nhúng vào nước nhuộm cũ. Phật dạy:

 

- Y mới dùng nước nhuộm mới, y cũ dùng nước nhuộm cũ, không nên làm khác đi.

 

Có người đem y mới phơi nơi bóng râm, đem y cũ phơi giữa ánh mặt trời. Phật dạy:

 

- Y mới phơi giữa trời, y cũ nơi bóng râm.

 

Khi nhuộm y, họ dùng nước nhuộm thứ ba để nhuộm y lần đầu, nước tiếp theo nhuộm lần hai, nước thứ nhất nhuộm y lần ba. Phật dạy:

 

- Nước thứ nhất dùng nhuộm y lần đầu, nước tiếp theo nhuộm lần giữa và cuối.

 

Nhuộm y xong, không dùng nước xả, làm y bị loang lỗ. Phật dạy:

 

- Nên dùng nước xả.

 

Bí-sô nhuộm y xong, xả nước ngay trong ngày. Phật dạy:

 

- Nên đợi sáng hôm sau.

 

Ngay khi nhuộm y, có mưa gió, Bí-sô hoảng hốt không biết sẽ phơi y chỗ nào. Phật dạy:

 

- Nên phơi trước hiên.

 

Họ nhuộm y trước hiên, nước nhuộm làm dơ đất, thấy vậy, người thế tục hỏi:

 

- Thánh giả! Vì sao nơi này có máu chảy?

 

Đáp:

 

- Không phải máu, là chỗ tôi nhuộm y.

 

Người đời sinh bất mãn. Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Dùng phân bò hay đất trát láng nơi nhuộm y.

 

Duyên xứ như trước. Trưởng giả Cấp Cô Độc sáng tạo tịnh xá ... cúng Phật và Tăng xong, nhưng tường vách chưa có tô vẽ, nên suy nghĩ: "Ta hãy xin phép Phật tô vẽ chùa tăng ".

 

Trưởng giả đến gặp Phật, lạy sát chân, lùi qua một bên bạch:

 

- Đại Đức! Vách chùa chưa được vẽ, con muốn vẽ.

 

Phật dạy:

 

- Tùy ý.

 

Trưởng giả không hiểu, đến bạch Bí-sô, Bí-sô không biết dùng màu sắc gì nên đến gặp Phật. Phật dạy:

 

- Lành thay trưởng giả! Nay ông không biết nên lại đến hỏi, nên dùng bốn màu xanh vàng đỏ trắng và tạp sắc để tô vẽ.

 

Nhiếp tụng tám trong biệt môn ba:

 

    Tạo tự sở tu vật

    Xuyên sàng lễ kính nghi,

    Biệt súc thế phát y

    Hoa man trụ miên xứ.

 

* Duyên xứ như trước. Trong thành này có một trưởng giả. Bí-sô khất thực thường đến nhà ấy hướng dẫn cho trưởng giả thọ trì quy giới. Một hôm, nhân nghe giảng thuyết về bảy loại phước nghiệp, ông ta thưa:

 

- Thánh giả! Con phát tâm muốn tu tập một loại phước nghiệp.

 

Bí-sô đáp:

 

- Lành thay! Nên làm.

 

Hỏi:

 

- Thánh giả, con nên làm gì?

 

Đáp:

 

- Nên làm trú xứ cho chúng Tăng.

 

Hỏi:

 

- Thánh giả! Con đang hiện có chi phí để làm chùa, nhưng không có bạn giỏi giúp con thực hiện.

 

Đáp:

 

- Trưởng giả! Ngài hãy sắm đủ vật liệu, tôi sẽ giúp ngài xây dựng.

 

- Lành thay Thánh giả!

 

Họ giao tiền vật, Bí-sô suy nghĩ: "Vật này thuộc về tứ phương Tăng, làm sao xử dụng để làm đồ dùng được, ta nên đi xin ở nơi khác, còn tiền trưởng giả thì cất vào kho.

 

Sau đó, trưởng giả suy nghĩ: "Thánh giả hảo tâm giúp ta làm chùa, hãy đến xem hình dáng như thế nào ".

 

Đến nơi, thấy chưa làm gì cả, ông ta hỏi Bí-sô:

 

- Ngài hứa làm chùa, ý gì mà chẳng có gì cả?

 

Đáp:

 

- Ông không đưa vật liệu lấy gì để làm?

 

Nói:

 

- Vật đã giao sao không xử dụng?

 

Đáp:

 

- Vật để trong kho.

 

Trưởng giả nói:

 

- Hãy dùng vật này sắm các đồ dùng.

 

Đáp:

 

- Vật này thuộc tứ phương Tăng, tôi không dám xử dụng.

 

Trượng giả nói:

 

- Làm chùa vốn thuộc tứ phương Tăng, xử dụng có lỗi gì?

 

Đáp:

 

- Trưởng giả! Tôi đến thưa với Phật và làm theo lời dạy của Ngài.

 

- Tùy ý ngài đi thưa.

 

Bí-sô đến nói với các Bí-sô, Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Vật này dùng sắm vật dụng để xây cất chùa.

 

Gặp lúc Bí-sô làm chùa đi khất thực từng nhà, thấy vậy trưởng giả lấy làm lạ nói:

 

- Ngài làm chùa cho con vì sao còn khất thực, có thể dùng tiền vật trong việc cất chùa để ăn, nếu thiếu con sẽ đem lại thêm.

 

Đáp:

 

- Chả lẽ một mình tôi ăn vật của tứ phương?

 

Trưởng giả:

 

- Theo ý con hiểu, nào có lỗi gì?

 

Bí-sô đáp:

 

- Để tôi hỏi Thế Tôn.

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Người làm chùa được ăn trong chi phí làm chùa.

 

Tuy nghe cho phép ăn nhưng Bí-sô vẫn ăn thức ăn dở. Phật dạy:

 

- Không nên ăn thức ăn dở.

 

Họ ăn món thượng hạng. Phật dạy:

 

- Không nên ăn thượng hạng, hãy xem chùa khác mà ăn như họ.

 

* Duyên xứ như trước. Có Bí-sô bị đau bụng, phải đi tiêu luôn đến nổi rất mệt nhọc. Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Nên khoét lỗ nơi giường để tùy lúc đi tiêu.

 

Họ khoét lỗ nơi giường quá tốt. Phật dạy:

 

- Nên dùng giường cũ hay giường dây, nên khoét lỗ hay vạch lỗ trống theo sợi dây đan, sau khi hết bệnh tùy việc mà sửa chửa.

 

Do đi ngoài ma sát nhiều nên phần dưới bị lở loét. Phật dạy:

 

- Nên lót vật mềm bên cạnh lỗ.

 

Bất tịnh rơi ra đất dùng bồn đất hứng không cho rơi từ trên cao xuống. Bồn bị mùi phẩn hôi nên bỏ ra và tìm bồn khác, thay đổi như vậy không tìm thêm được vật dụng. Phật dạy:

 

- Không nên bỏ tất cả, phải giữ lại một cái xử dụng, một cái đem rửa sạch rồi phơi khô. Nếu không có cái bồn thứ hai thì lót bằng lá cây. Bồn tuy được rửa nhưng không hết mùi hôi thì nên bôi dầu.

 

Như lời Phật dạy nên săn sóc người bệnh. Bấy giờ có các Bí-sô già và trẻ cùng nhau đến thăm bệnh. Đến nơi, vị trẻ kính lễ bệnh nhân.Vị già đến, bệnh nhân phải kính lễ. Do làm lễ nên bệnh nặng thêm. Phật dạy:

 

- Thân bệnh nhân bất tịnh, không nên làm lễ họ. Thân mình ô nhiễm cũng không nên lễ bái người. Giả như họ có lễ bái cũng không nên nhận. Nếu ai làm trái đều bị tội vượt pháp.

 

Cụ thọ Ô Ba Ly thưa Thế Tôn:

 

- Như Thế Tôn dạy người chẳng thanh tịnh không nên nhận lễ bái của người và không lễ bái người khác. Thưa Đại Đức! Có bao nhiêu loại bất tịnh ô nhiễm?

 

Phật bảo Ô Ba Ly:

 

- Có hai loại bất tịnh. Một là nhai cắn bất tịnh, hai là uế ô bất tịnh. Nhai cắn bất tịnh nghĩa là nhai bằng răng các loại cây, cắn nuốt các thức ăn uống rễ trái bánh rau. Khi ăn và đã ăn xong, chưa súc miệng sạch đều gọi là bất tịnh.

 

Ô uế bất tịnh nghĩa là khi đại tiểu tiện, dọn dẹp nơi bất tịnhcạo tóc, mà chưa rửa ráy súc miệng sạch đều gọi là bất tịnh. Khi tiếp xúc những việc bất tịnh như vậy mà nhận người lễ hay lễ người đều bị tội Ác tác (Lời văn sáng tỏ từ kim khẩu Phật nói ra nhưng xứ này không dùng làm cho quy tắc bị chìm mất cả).

 

* Duyên xứ như trước. Cụ thọ Ô Ba Ly thưa Thế Tôn:

 

- Bạch Thế Tôn! Bà-la-môn Diệu Hoa nói lời thế này: "- Thưa Kiều Đáp Ma! Khi con đi xe mà nắm cương giữ ngựa lại hoặc giơ roi gọi to, ngay khi ấy xin biết rõ cho con là Bà-la-môn Diệu Hoa đảnh lễ dưới chân Phậtthăm hỏi sức khỏe Ngài. Thưa Kiều Đáp Ma! Khi nếu thấy con đang đi bộ mà tháo giày dép ra hoặc tránh qua bên đường, hoặc đưa tay chào, khi ấy xin biết rõ cho là con đang kính lễ thăm hỏi như trước. Thưa Kiều Đáp Ma, khi thấy con đang cùng bàn luận với mọi người, nếu rời khỏi chỗ ngồi, hoặc bỏ thượng y hoặc lột khăn đội đầu, ngay khi ấy cũng như trước, xin biết rõ cho là con đang lễ kính". Thưa Thế Tôn! Không biết trong thánh giáo của Như Lai cũng có pháp lễ kính như vậy không?

 

Phật bảo Ô Ba Ly:

 

- Không nên lễ kính bằng hành động như vậy. Phàm miệng nói: "Tôi xin lễ kính chỉ là khẩu nghiệp biểu thị lễ kính. Nếu khom người nói:xin làm lễ, thì cũng là lễ nhưng chưa đầy đủ ".

 

Này Ô Ba Ly! Trong pháp-luật của Ta có hai loại lễ kính. Thế nào là hai?

 

    1- Năm vóc sát đất,

    2- Hai tay nắm lấy mu bàn chân, miệng nói: "Tôi xin kính lễ". Người nhận lễ nói: "Khỏe mạnh".

 

Nếu không làm như vậy đều bị tội vượt pháp.

 

* Duyên xứ như trước. Các Bí-sô tùy tiện mặc các loại y để cạo râu tóc, lại mặc y ấy để thọ thực và lễ bái Đại sư. Người không có tín tâm thấy vậy sinh bất mãn: "Sa-môn Thích tử thật không thanh tịnh, mặc y cạo tóc để thọ thực, lại mặc y ấy kính lễ Đại sư. Đối với họ, làm sao chúng tôi kính trọng được!"

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Không được mặc một trong ba y để cạo râu tóc, nên sắm y cạo tóc riêng ( tức man điều) và mặc y này để cạo râu tóc.

 

Có người quá nghèo khó có y này. Phật dạy:

 

- Nên dùng y tăng khước kỳ che thân để cạo.

 

Sau khi cạo tóc, Bí-sô không gội. Thấy vậy, những người thế tục cùng nhau chê bai:

 

- Sa-môn Thích tử sau khi cạo râu tóc không biết tắm rửa thật khả ố.

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Sau khi cạo râu tóc phải nên tắm rửa.

 

Có người già bệnh sức khỏe suy yếu, có lúc khó lấy nước. Phật dạy:

 

- Trường hợp như vậy nên rửa năm chi phần là đầu và tay chân.

 

* Duyên xứ như trước. Có những Bà-la-môn và cư sĩ kính tín đem vòng hoa đẹp đến cúng dường Bí-sô nhưng họ không dám nhận. Người thế tục nói:

 

- Thánh giả ... nói rộng như trước, cho đến ... chả lẽ chúng con bỏ hết các thiện phẩm để qua đời sau hay sao, mong ngài nhận cho!

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Được cúng dường vòng hoa nên nhận.

 

Nhận xong, họ vứt bỏ tùy tiện. Thấy vậy, người cúng bất mãn nói:

 

- Con dùng vật quý để mua hoa này cúng dường quý ngài, vì sao lại xem thường vứt bỏ.

 

Phật dạy:

 

- Không nên tự ý vứt bỏ.

 

Bí-sô dùng vòng hoa cúng dường tháp thờ tóc và móng (Phật), người cúng nói:

 

- Thánh giả! Chả lẽ con không thấy tháp thờ tóc móng hay sao? Con đã cúng dường tháp trước rồi. Nay mới đem hoa đến cúng quý ngài.

 

Nghe như vậy, Bí-sô gắn hoa trên cửa phòng. Thấy vậy, người tục cho là điện Phật nên lễ bái. Phật dạy:

 

- Chớ để ngoài cửa, nên để trong phòng.

 

Họ để nơi trống trải, bị lỗi như trước. Phật dạy:

 

- Nên để chỗ khuất. Khi ngửi có mùi thơm, là vật thơm làm ích lợi cho mắt.

 

Bí-sô không biết thế nào là chỗ khuất. Phật dạy:

 

- Nên gắn một bên chỗ nằm.

 

Nhiếp tụng chín trong biệt môn ba

 

    Hảo tọa tinh sàng thí

    Hương nê cập bát lung,

    Du khí pháp ngữ hành

    Y đại trì tam sách.

 

* Duyên tại thành Thất La Phiệt. Phật dạy các Bí-sô:

 

- Nếu được giường, chỗ ngồi tốt đẹp, Tăng già nên nhận, không cho phép cá nhân nhận. Được cúng giường dựa lớn, Tăng được nhận lấy, không cho phép cá nhân nhận.

 

* Duyên khởi như trước. Người tục có tín tâm đem bột thơm thượng hạng đến dâng, nhưng Bí-sô không dám nhận. Họ nói:

 

- Thánh giả! Chúng con lấy quý ngài làm phước điền ... nói rộng như trước cho đến ... nay lẽ nào chúng con vứt bỏ thiện phẩm đi qua đời sau hay sao, xin ngài nhận cho.

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Nên nhận.

 

Nhận xong, Bí-sô vứt dưới đất trước mặt người cho. Họ bất mãn nói:

 

- Con dùng vật quý giá để mua hương này mà ngài lại vứt bỏ.

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Không nên vứt bỏ, hãy đem thoa phết nơi tháp thờ tóc móng của Phật, ... nói rộng như trước, cho đến... nhận rồi nên để bên đầu tháp, thoa lên tường, mũi thường ngửi luôn, phàm vật thơm làm cho mắt sáng.

 

trưởng giảtín tâm thỉnh chúng Bí-sô đến nhà thọ trai, dùng dầu thơm thượng hạng thoa lên chân Bí-sô. Bí-sô không dám nhận. Họ thưa:

 

- Thánh giả! Những người kính tín Bà-la-môn, người khác cúng dầu thơm họ đều nhận và thoa nơi đầu hoặc thân thể. Chúng con kính trọng nên lấy dầu thơm thoa chân quý ngài, vì sao không nhận?

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Được nhận dầu thơm thoa chân.

 

Bí-sô nhận rồi vứt bỏ. Người tục thấy vậy, nói rộng như trước ... "Lành thay quý ngài xin nhận cho chúng con đem về chùa tuỳ ý xử dụng ".

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Không nên vứt bỏ trước mặt họ như trước.

 

* Duyên xứ như trước. Các Bí-sô để bát bừa bãi làm cho hư vỡ. Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Không nên để bát bừa bãi mà nên làm tủ đựng bát.

 

Các Bí-sô đục tường làm tủ. Phật dạy:

 

- Không nên làm như vậy, khi bắt đầu làm chùa nên làm tủ đựng bát trong các phòng.

 

Như Phật dạy nên làm tủ đựng bát, các Bí-sô ở Lan nhã không có nơi để làm tủ đựng bát. Phật dạy:

 

- Nên dùng dây sắn hay cỏ bện thành lồng, trát phân bò hay bùn bên ngoài rồi đựng bát bên trong.

 

Có đất bụi rơi vào, Phật dạy:

 

- Nên như cách cũ làm nắp đậy lại, không nên để ngoài đất mà làm dây treo lên nhánh cây.

 

Đi ra ngoài, Bí-sô mang lồng theo. Thấy vậy, người bất tín chê cười, hỏi:

 

- Thánh giả! Ngài đang mang lồng gà hay chuồng nhốt khỉ vậy?

 

Phật dạy:

 

- Khi đi ra ngoài, không được mang theo, nên để lại chỗ cũ.

 

* Duyên xứ như trước. Có Bí-sô du hành trong nhân gian, đến tụ lạc kia, tìm nơi nghỉ lại. Sau khi được chủ nhân đồng ý, Bí-sô rửa chân rồi lại xin dầu. Cô gái trong nhà đem dầu ra cúng. Không có vật đựng, Bí-sô đưa tay muốn nhận. Cô gái nói:

 

- Thánh giả biết xin dầu mà không biết đưa vật đựng.

 

Đáp:

 

- Này tiểu muội! Đức Phật chưa cho phép.

 

Cô gái im lặng. Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Nên cầm theo vật đựng dầu.

 

Nghe Phật cho phép, Ô Ba Nan Đà đem theo hai đệ tử đều cầm vật đựng dầu đi xin dầu. Có một phụ nữ đem dầu đến cúng, thấy đồ đựng dầu quá lớn nên đấm ngực nói:

 

- Thánh giả! Ai có thể cho đầy bình dầu này?

 

Bí-sô nói:

 

- Lạ thật! Keo kiệt quá, hãy cho theo ý bà, sẽ có các Bà-la-môn tín tâm khác cho đầy thêm.

 

Phụ nữ ấy im lặng. Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Không được đồ đựng dầu quá lớn để xin dầu.

 

Phật đã ngăn cầm đồ lớn, họ cầm đồ quá nhỏ xin dầu nên không đủ dùng. Phật dạy:

 

- Không nên cầm đồ quá nhỏ. Đồ đựng có ba hạng, loại lớn hai muỗng, loại nhỏ m?t muỗng, giữa hai hạng trên là vừa, nên sắm dùng như vậy.

 

* Duyên xứ như trước. Có hai Bí-sô một già một trẻ vừa đi theo đường vừa nói lời phi pháp. Có Dạ xoa không tín tâm nghe như vậy, suy nghĩ Thích ca tử này đi theo đường nói lời phi pháp, vậy ta nên hút tinh khí của hắn.

 

Đi theo sau, Dạ xoa lại suy nghĩ: "Việc trước bỏ qua, không truy cứu nữa, nếu họ lại nói bậy, ta sẽ hút tinh khí ".

 

Khi đi theo, Dạ xoa này gặp một Dạ xoa khác là hạng có kính tín hỏi:

 

- Ngươi muốn làm gì?

 

Dạ xoa này kể lại sự việc trên. Dạ xoa kia nói:

 

- Hai vị đi đường chắc bàn luận về pháp. Ngươi hãy chờ một lúc, đừng theo Bí-sô nữa, ta đích thân cùng ngươi bàn luận.

 

Đáp:

 

- Này bạn! Tôi không thể thả hai kẻ này được.

 

Khi ấy, hai Dạ xoa đi theo sau.

 

Hai Bí-sô nói lời phi pháp đ?n ngã rẽ, một người đến vườn Cấp Cô Độc, một người về hướng tinh xá Lộc Tử Mẫu. Khi ấy, vị nhỏ lạy sát chân vị thượng tọa, nói:

 

- Ngài đi bình an.

 

Thượng tọa đáp:

 

- Cụ thọ! Chúc ông không bệnh, chớ có phóng dật.

 

Hai Bí-sô đều đi theo đường của mình. Dạ xoa bất tín biểu hiện hình dạng muốn hút tinh khí. Dạ xoa đến sau nói:

 

- Ngươi không nên vội vàng làm ẩu, hai Bí-sô ấy đã nói diệu pháp. Ngươi không hiểu nên vội sanh sân hận.

 

Dạ xoa kia hỏi:

 

- Cái gì là pháp?

 

Đáp:

 

- Chả lẽ ngươi không nghe vị lớn nói không bệnh, chớ có phóng dật. Được không bệnh, đức Phật gọi là lợi lớn. Chẳng phóng dật, là gốc của các điều thiện. Như Thế Tôn dạy:

 

    Nếu người không phóng dật,

    Được đến nơi bất tử,

    Ai sống theo phóng dật,

    Phải trở về đường chết.

 

Nghe pháp xong, Dạ xoa kia hoan hỷ và theo đường trở về.

 

Dạ xoa đến sau suy nghĩ: đây là việc nên làm của ta, ta hãy đến thưa với Thế Tôn để Ngài biết.

 

Đến nơi, lạy sát hai chân, ngồi qua một bên, Dạ xoa bạch Phật:

 

- Đại Đức! Có các Dạ xoa là chúa phi nhântâm kính tín Phật pháp nhưng cũng có Dạ xoa không có tín tâm. Đối với Phật pháp, chúng dạ xoa phần nhiều không kính tín. Có những Bí-sô đi theo đường nói lời phi pháp, sợ bị dạ xoa nghe và gây chuyện bất lợi. Cầu xin Thế Tôn chế định các Bí-sô luôn luôn giữ chánh niệm, khi đi đường không được nói lời phi pháp, xin Ngài từ bi cho.

 

Biết như vậy, Thế Tôn im lặng nhận lời.

 

Biết Phật đã nhận lời, Dạ xoa lạy sát chân Phật rồi từ giả.

 

Sau khi Dạ xoa đã đi, Thế Tôn an tọa giữa đại chúng bảo các Bí-sô:

 

- Ta nghe Dạ xoa nói thế này: "Trên đường, Bí-sô vừa đi vừa nói chuyện phi pháp. Dạ xoa bất tín tìm cầu thuận tiện cho chúng vì chỗ quấy của ngươi, người xuất gia mà khi đi đường nói lời phi pháp. Thế nên, nay Ta chế định những pháp phải làm cho Bí-sô khi đi trên đường. Khi đi đường, Bí-sô có hai việc phải làm, một là nói lời đúng pháp, hai là im lặng như bậc thánh, ở nơi an nghỉ đọc thánh kệ:

 

    Năm dục lạc trong đời

    Hay là các thiện-lạc,

    So với lạc hết ái

    Không bằng một phần ngàn.

    Do Tập hay sinh Khổ

    Nhân Khổ lại sinh Tập,

    Bát thánh đạo vượt qua

    Đến nơi Diệu Niết bàn.

    Hành động người bố thí

    Tất thu hoạch ích lợi,

    Hỷ lạc nên bố thí

    Sau tất được an lạc.

 

* Duyên xứ như trước. Làm ba y xong, Bí-sô vắt trên vai đi theo đường nên bị thấm mồ hôi và dính bụi đất. Phật dạy:

 

- Nên làm túi đựng đặt trên vai mang đi.

 

Bí-sô không biết làm túi như thế nào. Phật dạy:

 

- Làm dài ba gang, rộng một gang rưỡi. Trên chiều rộng một gang rưỡi may dính lại bên trong.

 

Họ để trống một đầu, hình như vòi voi. Phật dạy:

 

- Không nên như vậy nên chừa miệng ngay giữa túi.

 

Họ không làm nút nên bụi đất rơi vào. Phật dạy:

 

- Nên làm nút.

 

Bí-sô để y thường dùng bên dưới, y không thường dùng lên trên, khi lấy dùng làm thứ tự đảo lộn. Phật dạy:

 

- Cái thường dùng để trên, không thường dùng để dưới.

 

* Duyên xứ như trước. Có bọn giặc rượt người trên đường chạy vào trong làng. Mọi người chạy ra rượt bọn giặc chạy tứ tản. Khi ấy, giặc tìm nước uống nhưng không có dây và gầu. Đầu đảng sai người leo lên cây nhìn xa, nếu có ai đến thì mượn dùng. Họ thấy có Bí-sô đang trên đường đi đến nên bảo nhau:

 

- Có Thích tử đến, họ mang nhiều thứ chắc có gầu và dây. Nếu có thì tốt, bằng không có thì mổ bụng hắn ra lấy máu uống.

 

Sau khi bàn luận, bọn chúng nhìn theo dõi, thấy Bí-sô đến, nên hỏi:

 

- Thánh giả! Có dây và gầu múc nước giếng không?

 

Đáp:

 

- Tôi không có.

 

Nghe như vậy, bọn giặc nhốn nháo lên đều cầm dao gậy nhìn xem hai bên.

 

Vị thượng thủ trong chúng là bậc A-la-hán quan sát vì sao những người này đều cầm dao gậy, biết rõ bọn giặc muốn giết Bí-sô, nên bảo với bọn chúng:

 

- Vì sao trong lòng các vị rối loạn lên vậy?

 

Bọn họ kể lại đầy đủ. Thượng tọa nói:

 

- Các vị chớ lo, tôi sẽ làm tất cả, chắc có nước trong mặc sức uống no đủ.

 

Vị này liền lấy dây đai lưng của các Bí-sô nối nhau và cột bát vào thật chắc chắn, thả xuống giếng tùy ý lấy nước, quán sát thấy không có trùng nên uống thỏa mãn. Mọi người vui mừng nói:

 

- Thánh giả! Nếu không có nước, chắc chắn tôi đã giết hại các ngài rồi. Lành thay! Thánh giả nên mang theo dây gầu.

 

Bí-sô nói:

 

- Sẽ làm theo lời ông.

 

Bọn giặc liền lạy sát chân Bí-sô và ra đi. Các Bí-sô cũng đều uống nước, đựng đầy bình lọc và bình rửa (bình lọc bịt miệng, bình rửa mở miệng), rồi cùng nhau đi về đường phía trước đến vườn Cấp Cô Độc. Thấy vậy, Bí-sô chào hỏi:

 

- Lành thay mới đến, các vị đi đường có an ổn không?

 

Họ kể lại tất cả. Bí-sô bạch Phật. Phật bảo:

 

- Vậy nay ta cho phép các Bí-sô nên mang theo dây gầu.

 

Nghe như vậy, Bí-sô mang theo dây quá dài. Phật dạy:

 

- Không nên như vậy.

 

Họ mang dây quá ngắn. Phật dạy:

 

- Không nên như vậy. Dây có ba hạng là dài, vừa và ngắn. Loại dài là 150 gang, ngắn 10 gang, trung bình giữa hai loại trên.

 

Có nơi đầy đủ nước, họ vẫn mang theo dây gầu dài. Phật dạy:

 

- Nên tính theo thế đất, dài ngắn tùy lúc.

 

 

 

Nhiếp tụng mười trong biệt môn ba:

 

    Tu thế đao ưng súc,

    Cập tiễn giáp đẳng vật,

    Chi sàng tinh yển chẩm

    Hương thổ dụng tùy tình.

 

* Duyên xứ như trước. Một Bí-sô nọ tóc đã dài nên đến thợ cạo, nói:

 

- Hiền thủ! Xin cạo tóc cho tôi.

 

Thợ suy nghĩ: "Sa-môn Thích tử dùng cường lực sai người, làm uổng công phí sức mà cuối cùng họ chẳng đền đáp gì cả ".

 

Người thợ cố kéo dài thời gian chùi mài dao dụng cụ và suy nghĩ nếu ta cạo nhanh, lại có người đến nữa, liên miên như vậy phế bỏ gia nghiệp của ta nên nói:

 

- Hãy tạm thời đi nơi khác, sau giờ ngọ rồi đến đây.

 

Theo lời dặn, Bí-sô đến, thợ lại bảo chiều đến. Chiều Bí-sô đến, thọ bảo sáng mai, cứ nói dối như vậy cuối cùng không chịu cạo.

 

Có Bí-sô bạn hỏi:

 

- Cụ thọ! Vì sao thầy đến nhà ấy mãi vậy. Họ là thân thuộc hay người quen?

 

Đáp:

 

- Không phải vậy! Chỉ vì tóc tôi dài nên đến cạo, bị họ gạt, tôi phải đến nhiều lần.

 

Người bạn nói:

 

- Thầy không nghe hay sao, thợ giỏi thường không nói thật. Tôi biết cạo tóc nhưng Phật chưa cho phép.

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Nếu có Bí-sô biết cạo tóc nên cạo cho nhau, nên ở chỗ khuất đừng để kẻ tục sinh chê cười.

 

Nghe Phật dạy, Bí-sô ấy đến gặp người bạn, nói:

 

- Cụ thọ! Đức Phật đã cho phép, vậy thầy hãy đến cạo tóc cho tôi.

 

Đáp:

 

- Lành thay! Tuy Phật đã cho phép nhưng chả lẽ tôi cạo tóc bằng đầu ngón tay hay sao, cần phải có đá mài, dao cạo, kéo cắt móng tay.

 

Bí-sô đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Nay Ta cho phép Tăng già được giữ dao cạo và các vật kèm theo.

 

* Đức Phật trú tại vườn Đa Căn Thọ, thành Kiếp Tỷ La. Ngài bảo mỗi nhà Thích tử xuất gia một người nhưng giường không chân đỡ nên họ nằm không an. Thân hình họ mềm mại, trước đây nằm trên những vật hoa lệ, nay nằm giường thấp nên thân thể không an, nhiệt độ trong người giảm xuống nên đến y sĩ, hỏi:

 

- Hiền thủ! Nhiệt độ tôi giảm xuống, hãy trị cho tôi.

 

Y sĩ nói:

 

- Hãy đưa tôi đến phòng ở của thầy, xem xếp đặt chỗ nàèm như thế nào.

 

Thấy đầu giường nằm bị thấp, y sĩ nói:

 

- Vì đầu giường nằm của ngài bị thấp làm cho nhiệt độ của bốn đại suy giảm, hãy kê thêm vật làm chân dưới giường.

 

Đáp:

 

- Phật chưa cho phép.

 

Y sĩ nói:

 

- Đức Phật đ?i từ bi chắc chắn cho phép.

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Nên làm chân cho giường nằm.

 

Họ làm theo lời nhưng không hết bệnh nên hỏi y sĩ về cách điều trị. Y sĩ nói:

 

- Khi nằm ngủ nên để gối.

 

Đáp:

 

- Phật chưa cho phép. v.v ... như trên.

 

Phật dạy:

 

- Khi nằm nên để gối.

 

Bí-sô không biết làm như thế nào. Phật dạy:

 

- Cách làm gối là dùng vật dài bốn gang tay rộng hai gang tay, xếp chồng hai lớp may như cái túi bên trong độn bông gòn, dùng để kê đầu.

 

* Duyên tại thành Xá Vệ. Tất Lân Đà Bà Ta thường sinh bệnh ...như đã nói ở trước ... cho đến hỏi:

 

- Trước đây dùng vật gì?

 

Đáp:

 

- Trước đây dùng đất thơm.

 

Hỏi:

 

- Nay sao không dùng.

 

Đáp:

 

- Phật chưa cho phép.

 

Họ đem sự việc bạch Phật. Phật dạy:

 

- Vì bệnh cho dùng đất thơm.

 

---o0o---

 

TẠP SỰ PHÁP,HẾT BIỆT MÔN THỨ BA.

 

Nhiếp tụng tổng biệt môn thứ tư

 

    Thượng tòa cập tường sách,

    Duyên phá tinh dưỡng bệnh,

    Chiên trà trư giá tự,

    Bát y tài thọ pháp.

 

Nhiếp tụng một trong biệt môn bốn:

 

    Thượng tòa phiên thứ thuyết

    Hoặc khả cộng chí chung,

    Lự tác phi thời tương

    Xứ bất vi hạn tề.

 

* Như Thế Tôn dạy mỗi nữa tháng phải tiến hành trưởng tịnh. Bí-sô không biết sai ai thuyết giới.

 

Phật dạy:

 

- Nên khiến thượng tọa, khi thuyết giới thượng tọa nên thường tụng.

 

một trú xứ kia, thượng tọa không tụng được. Mọi người nói:

 

- Sắp thuyết giới rồi sao không ôn tập lại?

 

Đáp:

 

- Cụ thọ! Tôi không có khả năng làm sao bây giờ?

 

Bí-sô bạch Phật. Phật dạy:

 

- Thượng tọa không có khả năng, vị thứ hai nên thuyết.

 

Lại có trú xứ, vị thứ hai cũng không thuyết giới được ... nói rộng như trước... vị thứ hai không làm được thì sai vị thứ ba. Lại có trú xứ vị thứ ba không làm được ... nói rộng như trước.

 

Phật dạy:

 

- Bí-sô nên làm cách luân phiên thuyết giới.

 

Khi Bí-sô luân phiên thuyết giới, có vị thuyết được, có vị thì không. Vị có khả năng thì thuyết, vị không khả năng thì chẳng biết làm gì. Phật dạy:

 

- Người không biết thuyết cầu vị có khả năng thuyết cho.

 

Lại có trú xứ luân phiên thuyết giới, đến lượt vị không biết thuyết tìm vị biết thuyết thì họ không chịu nên không biết phải làm sao. Phật dạy:

 

- Nên dự phòng thỉnh trước vị có khả năng thuyết giới.

 

Như Thế Tôn dạy: "Sai thượng tọa thuyết giới. Thượng tọa không làm được thì sai vị thứ hai. Vị thứ hai không làm được thì sai vị thứ ba. Nếu như vậy mà vẫn không làm được thì luân phiên nhau làm. Vẫn không làm được thì nên cầu vị có khả năng hoặc thường thỉnh vị làm được. Có trú xứ nọ không có một ai tụng hết giới được nhưng riêng thượng tọa tụng được bốn pháp Ba La Thị Ca, ngoài ra không tụng được nữa ". Khi ấy, các Bí-sô không thuyết giới nữa.

 

Phật dạy:

 

- Không nên tất cả đều ngưng thuyết giới. Người nào tụng được đoạn nào thì tụng đoạn ấy. Thượng tọa có thể tụng bốn pháp Tha thắng, thứ tọa tụng Tăng tàn, thứ tọa tụng hai Bất định, thứ tọa tụng Ba mươi, vị tiếp theo tụng chín mươi, vị tiếp tụng pháp đối thuyết, vị tiếp theo tụng pháp chúng học, vị thứ đến bảy diệt tránh, nên tụng trình tự như vậy, không được không tụng giới kinh.

 

* Duyên tại thành Thất La Phạt, Cụ thọ Ô Ba Ly thưa Thế Tôn:

 

- Như Phật dạy về nước đúng thời và phi thời. Thế nào là (nước dùng cho) thời và phi thời?

 

Phật dạy:

 

- Nước không lược là thời, nước phải lược sạch là phi thời. Nhưng lấy nước nhỏ giọt cũng là sạch.

 

* Duyên xứ như trước. Bấy giờ Lục chúng thường bị trói buộc bởi nhiều ác dục tham lam cấu uế, đến các trú xứ khác để hưởng thụ một cách phi lý, hoặc nhất thiết thời, hoặc phòng phân tề thời, hoặc nhật phần thời, hoặc thân hữu thời. Thế nào là tất cả thời? Đây là trú xứ mùa xuân của ta, đây là trú xứ mùa hạ, đây là trú xứ mùa đông; gọi là tất cả thời. Thế nào là phân tề? Đây là phòng tôi, đây là phòng người khác. Thế nào là nhật phần thời? Đây là trú xứ ở buổi sáng, đây là trú xứ ở buổi chiều. Thế nào là thân hữu thời? Đây là chỗ của quỹ phạm sư tôi, đây là chỗ của thân giáo sư, đây là chỗ của đệ tử, đây là chỗ của môn nhân, đây là trú xứ của người quen. Do như vậy, có nhiều người đến làm phiền não các Tỷ kheo. Họ đem sự việc bạch Phật.

 

Phật dạy:

 

- Bí-sô không được tự phân chia giới hạn trong trú xứ như vậy; ai thọ dụng như vậy bị tội vượt pháp.

 

CĂN BẢN THUYẾT NHẤT THIẾT HỮU BỘ

TỲ-NẠI-DA TẠP-SỰ.

 

Hết quyển mười lăm.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1915)
Trì giới đề cập trong kinh Sa môn quả được chia làm ba hạng mục: tiểu giới, trung giới và đại giới, vốn là những giải thích của Đức Phật về ...
(Xem: 11294)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 11966)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 7242)
Từ nơi bản thể tịch tĩnh của Đại Niết-bàn mà đức Thế-Tôn thiết định Sīla: học xứ, học giới,.. nên học xứ ấy là nghiệp dụng của bản thể...
(Xem: 52115)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 8065)
Bài Văn Cảnh Sách Của Đại Viên Thiền Sư ở Núi Quy; Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thánh Tri phỏng Việt dịch
(Xem: 5829)
Trì giới này thời như đi đêm tối gặp đèn sáng, như người nghèo được của báu, như người bệnh được bình phục, như người tù được tự do, như kẻ đi xa được trở về.
(Xem: 5376)
Những người hộ trì giới pháp này, không nên sinh khởi tưởng nghĩ là thời tượng pháp hay mạt pháp, vì sự trì giới nghiêm cẩn sẽ ...
(Xem: 5012)
Sau khi đã thọ giới, nếu chúng ta có thể dựa trên căn bản “chỉ ác phòng phi, chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành” mà làm theo, thì đó chính là chúng ta đang giữ giới vậy.
(Xem: 6852)
Đức Phật không có cái tâm tưởng nào khác ngoài tâm đại Từ đại Bi, ban vui cứu khổ cho tất cả chúng sinh. Vì vậy Đức Phật ra đời, cũng không ngoài mục đích ấy.
(Xem: 8186)
Sanh tử cũng là việc lớn, vì cơn vô thường (chết) chóng mau! Thế, người học đạo, với mỗi giờ, mỗi phút phải lấy đó làm điều nhớ lo.
(Xem: 5126)
Thập Thiệnpháp môn căn bản, là thềm thang cho mọi pháp môn. Hành giả dù có chí mong cầu phước báu hữu lậu ở cõi nhân thiên, hay hướng về vô lậu giải thoát Niết Bàn, cho đến Vô Thượng Giác, đều phải khởi điểm từ Thập Thiện.
(Xem: 17594)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12873)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 5142)
Giới luậtyếu tố cần thiết để một Tỳ-kheo làm mô phạm cho trời người, bước đi trên con đường giải thoát được vững chãi.
(Xem: 5221)
Luật tạng: 律藏, tiếng Phạn: vinaya-pitaka, bộ thứ hai trong Tam Tạng, nhưng chính thức ra đời vào lần Kết tập thứ 2.
(Xem: 4512)
Những giáo nghĩa Bụt dạy phải được nhận thức như những pháp môn hướng dẫn thực tập để phát khởi tuệ giáctừ bi...
(Xem: 9310)
Thiện namthiện nữ, nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng trì.
(Xem: 4705)
Ý thức được những khổ đau do sự sát hại gây ra, con xin học theo hạnh đại bi để bảo vệ sự sống của mọi người và mọi loài.
(Xem: 4833)
Khi phát nguyện thọ trì dù chỉ một giới, quyết định mạnh mẽ nảy sinh từ tuệ giác ấy sẽ đưa ta đến tự dohạnh phúc đích thực.
(Xem: 5247)
Mục đích của người tu hành là hướng đến giải thoátgiác ngộ, mà muốn được giải thoát, giác ngộ thì đương nhiên phải tuân thủ một số nguyên tắc.
(Xem: 4621)
Những giới luật liên quan đến ẩm thực nhằm hướng dẫn thái độhành vi khi ăn uống của người xuất gia nói riêng và người Phật tử nói chung.
(Xem: 12858)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14854)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 12772)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 5077)
Trong Học pháp có một giới cần phải nhận định cho rõ là giới phá hòa hợp Tăng. Tăng từ 4 vị trở lên, không biết chúng mà đồng một Kiết-ma, đồng một thuyết giới, gọi là Tăng hòa hợp.
(Xem: 6879)
Giới luật là mạng mạch của Phật pháp, Giới luật còn là Phật pháp còn; Giới luật mất là Phật pháp mất.
(Xem: 13105)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12662)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 19697)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14146)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 13311)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14500)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 13853)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15034)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 20188)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 12995)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 13164)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16882)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18337)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11936)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11493)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 18903)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18297)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
(Xem: 12806)
Trong Luật tạng, bộ Luật đầu tiên theo trong sử nhắc đến là bộ Bát thập tụng luật do Tôn giả Ưu-ba-li tám mươi lần ngồi tụng thì mới xong bộ Luật của Phật dạy.
(Xem: 34680)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 13667)
Chủ ý đó là muốn Tỷ kheo phải là bậc Chúng trung tôn, thân miệng ý, cả 3 nghiệp ấy đừng có những tội lỗicử động bất xứng... Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 25338)
Bộ Luật Tứ Phần khởi nguyên do bộ phái Đàm-vô-đức (Dharmagupta, Pháp Tạng bộ) truyền trì... Hòa thượng Thích Trí Thủ dịch (1983)
(Xem: 13741)
Là một bộ luật quan trọng trong sáu bộ luật của ngài Nam Sơn, bắt nguồn từ bộ luật của ngài Đàm-vô-đức. Vào cuối đời Đường ở núi Thái Nhứt, sa môn Đạo Tuyên chú thích. Việt dịch: Thích Thọ Phước
(Xem: 143460)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
(Xem: 23478)
Tại Gia Bồ Tát Giới Bổn - 3 ngôn ngữ Anh, Việt, Hoa - Nhiều Tác Giả
(Xem: 23172)
Giới luậtsinh mệnh, là sự sống của Phật tử, nhất là của hàng Tỳ kheo thừa Như lai sứ, hành Như lai sự... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 19291)
Ba học Giới, Định, Tuệ là những nhân tố then chốt nhất của người học Phật, như chiếc đỉnh ba chân, thiếu một tất không thể đứng vững. Nhưng giới học, hay là giới luật học, lại là căn bản nhất... HT Thích Thanh Kiểm
(Xem: 17093)
Luật Học Tinh Yếu - Muốn qua sông phải nhờ thuyền bè, muốn vượt bể khổ sinh tử phải nương nhờ Giới pháp... HT Thích Phước Sơn
(Xem: 31981)
Cúi đầu lễ chư Phật, Tôn Pháp, Tỳ-kheo Tăng, Nay diễn pháp Tỳ-ni, Để Chánh pháp trường tồn... HT Thích Trí Thủ dịch
(Xem: 27401)
Luật Tứ Phần - Việt dịch: HT Thích Đổng Minh; Hiệu chính và chú thích: Thích Nguyên Chứng, Thích Đức Thắng
(Xem: 25038)
Luật nghi của Đức Thế Tôn chế định vì bảo hộ Tăng-già, thanh qui của Tùng Lâm đặt định để thành tựu pháp khí cho già lam, pháp thức hành trì cho cư gia phật tử để xây nền thiện pháp...
(Xem: 28840)
Trải qua nửa thế kỷ thuyết pháp độ sinh, Ðức Ðạo sư đã hóa độ đủ mọi hạng người, không phân biệt màu da, chủng tộc, giai cấp, sang hèn... Thích Phước Sơn
(Xem: 36110)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 29170)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant