Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đức Đạt Lai Lạt Ma: Vấn đáp về đấng tạo hóa

14 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 20062)
Đức Đạt Lai Lạt Ma: Vấn đáp về đấng tạo hóa

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: VẤN ĐÁP VỀ ĐẤNG TẠO HÓA
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Chuyển ngữTuệ Uyển – 08/05/2011

blankHỎINgài đã từng nói rằng theo triết lý Đạo Phật không có đấng Tạo Hóa, không có Thượng Đế tạo dựng, và điều này có thể bắt đầu làm cho nhiều người chấm dứt niềm tin trong quan kiến thiêng liêng. Ngài có thể giải thích sự khác biệt giữa Đức Phật Nguyên Sơ Kim Cương Thừa và một Thượng Đế Tạo Hóa không?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Tôi thấu hiểu Đức Phật Nguyên Sơ, cũng được biết như Đức Phật Phổ Hiền, là thực tại tối hậu, thế giới của Pháp Thânkhông gian của tính không – nơi mà tất cả mọi hiện tượng, thanh tịnhnhiễm ô, là hòa tan. Đây là sự giải thích được dạy bởi Kinh điểnMật điển. Tuy nhiên, trong phạm vi câu hỏi này, chỉ truyền thống mật tông tantra giải thích Pháp Thân trong dạng thức của Linh quang bản nhiên, (hay tịnh quang bản nhiên), bản chất tối hậu của tâm; điều này dường như bao hàm tất cả mọi hiện tượng, luân hồiniết bàn, sinh khởi từ cội nguồn trong suốt và rực rở này. Ngay cả Tân Phái Diễn Dịch cũng đã đi đến kết luận rằng “thể trạng giải thoát” của một hành giả Đại Du Già – Đại Du Già bao hàm ở đây là thể trạng của hành giả đã đạt đến tầng bậc trong thiền quán nơi mà những kinh nghiệm vi tế nhất của linh quang đã được thân chứng – mà điều ấy cho đến khi nào hành giả tiếp tục trong không gian căn bản này người ấy sẽ duy trì sự tự do hoàn toàn khỏi bất cứ ngăn che chướng ngại nào của tâm, và chìm sâu trong thể trạng của đại lạc.

Do thế, chúng tôi có thể nói rằng, cội nguồn căn bản ấy, linh quang, là gần với khái niệm Đấng Tạo Hóa, vì tất cả mọi hiện tượng, cho dù chúng thuộc luân hồi hay niết bàn, đều phát khởi từ trong ấy. Nhưng chúng tôi phải hết sức cẩn thận trong việc nói về cội nguồn này, chúng tôi không được dẫn vào trong sai lầm. Tôi không muốn nói rằng có một sự hiện hữu ở nơi nào đấy, như là ở đấy, có một loại linh quang tập hợp, tương tự khái niệm không phải Phật Giáo về Phạm thiên như một nền tảng. Chúng tôi không được thần tượng, sùng bái không gian rực rỡ này. Chúng tôi phải thấu hiểu rằng khi chúng tôi nói về linh quang tối hậu hay cố hữu, là chúng tôi đang nói trên một mức độ cá nhân[1].

Giống như thế, khi chúng tôi nói về nghiệp báo như nguyên nhân của vũ trụ, chúng tôi loại trừ khái niệm của một tổng thể đặc thù gọi là nghiệp tồn tại một cách hoàn toàn độc lập. Đúng hơn, những dấu vết nghiệp tập thể - cộng nghiệp, và nghiệp cá thể - biệt nghiệp, là nguyên nhân ban sơ của việc hình thành nên một thế giới. Trong phạm vi mật tông, khi chúng tôi nói rằng tất cả các thế giới xuất hiện ra từ linh quang, chúng tôi không quán tưởng cội nguồn này như một thực thể đặc thù, mà như linh quang tối hậu của mỗi chúng sinhChúng tôi cũng có thể, trên căn bản của sự thanh tịnh cốt yếu của nó, thấu hiểu rằng linh quang này là Đức Phật Nguyên Sơ. Mọi tầng bậc tạo nên sự sống của mỗi chúng sinh – chết, trung ấm thân, và tái sinhđại diện không gì hơn sự biểu hiện đa dạng năng lực của linh quang. Nó là cả tâm thứcnăng lượng vi tế nhất. Linh quang càng mất sự vi tế của nó bao nhiêu, chúng ta tiếp nhận những kinh nghiệm biểu lộ sự định hình càng thô thiển hơn bấy nhiêu.

Trong cách này, chết và trung ấm thân là những thời khắc nơi mà những biểu lộ thô thiển bắt nguồn từ linh quang được tái hòa tan. Vào lúc chết, chúng ta trở lại cội nguồn nguyên sơ, và từ đấy có một thể trạng hơi thô thiển hơn nổi lên để hình thành trạng thái trung ấm trước khi tái sinh. Tại trạng thái tái sinh, linh quang hiển hiện trong sự hóa thân vật lý. Vào lúc chết chúng ta trở lại nguồn cội này. Và tiếp diễn như thế. Khả năng để thực chứng linh quang, cũng gọi là Đức Phật Nguyên Sơ, tương đương với sự thân chứng niết bàn, trái lại bản chất vô minh si ám khiến chúng ta lang thang vần xoay trong những thế giới khác nhau của vòng luân hồi sinh tử (gồm sáu cõi là địa ngục, ngã quỷ, súc sinh, người, a tu la, và cõi thiên).

Đây là việc chúng tôi hiểu khái niệm Đức Phật Nguyên Sơ như thế nào. Sẽ là một sai lầm nghiêm trọng, nếu nhận thức điều này như một sự hiện hữu độc lập và tách biệt với sự không có bắt đầu của thời gian (vô thủy). Nếu chúng ta đã phải chấp nhận khái niệm của một tạo hóa độc lập, những giải thích trong Thích Lượng Luận, “Tóm Lược Những Tri Thức Vững Chắc” của Pháp Xứng, và trong chương thứ chín tác phẩm của Tịch Thiên, đã hoàn toàn bác bỏ sự tự tồn tại của tất cả mọi hiện tượng, sẽ bị phủ nhận. Đến lượt điều này sẽ bác bỏ khái niệm Đức Phật Nguyên Sơ. Quan điểm của Đạo Phật không chấp nhận những giá trị xác định không đứng vững trên sự thẩm tra hợp lý. Nếu một kinh điển diễn tả Đức Phật Nguyên Sơ như một thực thể độc lập, thì chúng ta phài có thể làm sáng tỏ sự thừa nhận này mà không cần phải chấp nhận nó một cách lý thuyết. Chúng ta gọi loại kinh điển này là kinh điển “có thể giải thích được” (kinh bất liễu nghĩa).

HỎIQuan tâm trong những khám phá của vật lý học thiên thể hiện đại và thuyết vụ nổ lớn “Big bang” khơi mở cả một sự hấp dẫn lớn trong vũ trụ và một cuộc thăm dò điều tra bởi những thành viên trong thế hệ của chúng ta về cội nguồn của họ, số phận của họ, và ý nghĩa sự tồn tại của họ. Thuyết “Big bang”đã có một tác động nổi bật trong cung cách nhìn vào vấn đềbản chất tự nhiên; nó đã giới thiệu những sáng kiến nhận thức mới đáng kể. Sự hình thành những cấu trúc của vũ trụ, với sự thể hiện chức năng phụ thuộc tương liên (duyên sinh), và với sự nghiên cứu tiếp tục để khơi mở, dường như là một cội nguồn bất tận của kỳ diệu. Giống như tất cả những truyền thống tâm linh, Đạo Phật chuyển tải một sự huyền bí vũ trụ. Tuy nhiên, Đạo Phật phủ nhận quan điểm về đấng tạo hóa. Tại sao?

Hầu hết các nhà khoa học phương Tây nghĩ rằng sự sống và tâm thức là một kết quả diệu kỳ của sự tiến hóa vật chất của vũ trụ, và tuy thế họ không biết làm thế nào cũng như không biết tại sao vấn đề nảy ra trong một cung cách như vậy lại hoàn thành những điều kiện cần thiết để làm nên sự sống và tâm thức. Những gì người ta biết là những điều kiện này rất là nghiêm ngặt, tuy thế đã hoàn tất trong vũ trụ của chúng ta trong một cung cách không thể tưởng tượng nổi. Ngài có một quan điểm rất khác biệt với đề tài này. Do vậy, ngài có thể vui lòng nói với chúng tôi về tâm thức trong sự liên hệ của nó với vật chấtvũ trụ không?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Tại sao không thể có sự sáng thế trong Đạo Phật? Như được nói rằng người ta không thể tìm thấy chúng sinh trong sự hình thành vũ trụ vì một lý do căn bản rằng những nguyên nhân không có sự bắt đầu (vô thỉ). Nếu có sự bắt đầu của vũ trụ, cũng sẽ có sự bắt đầu của tâm thức. Nếu chúng ta chấp nhận một sự bắt đầu của tâm thức, chúng ta cũng phải chấp nhận rằng nguyên nhân của nó có một sự khởi đầu, một nguyên nhân đột khởi sản sinh tâm thức; điều này sẽ đưa đến nhiều câu hỏi to lớn khác. Nếu tâm thức đã sinh khởi mà không có nguyên nhân, hay từ một nguyên nhân thường còn, nguyên nhân ấy sẽ phải tồn tại trên một căn bản thường hằng, luôn luôn, hay hoàn toàn không hiện hữu, mãi mãi. Thực tế rằng một hiện tượng tồn tại từng thời điểm chứng tỏ rằng nó tùy thuộc trên nhân duyên (nguyên nhânđiều kiện). Khi tất cả mọi điều kiện được gặp gỡ, hiện tượng được sản sinh. Khi nhưng nguyên nhân đó vắng mặt hay không hoàn toàn, hiện tượng sẽ không xuất hiện. Như những nguyên nhân không có bắt đầu và trải ngược đến vô cùng, điều giống như thế cũng áp dụng cho chúng sinh. Sự sáng thế của tạo hóa vì thế không thể đứng vững.

Bây giờ hãy đề chúng ta lưu tâm đến một hiện tượng đặc thù, thí dụ một sông băng (glacier): nó thật sự có sự bắt đầu. Nó được tạo ra như thế nào? Thế giới bên ngoài xuất hiện như một kết quả của những hành vi của chúng sinh sử dụng thế giới này. Những hành vi này, hay nghiệp báo, lần lượt sinh khởi trong những khuynh hướng và động cơ của những chúng sinh ấy, những kẻ chưa nắm lấy được sự kiểm soát tâm thức của chính họ.

“Đấng tạo hóa của thế giới”, một cách căn bản, là tâm thức. Trong kinh điển, tâm thức được diễn tả như một tác nhân. Trong ấy nói rằng, tâm thức không có sự khởi đầu, nhưng chúng ta phải phân biệt ở đây giữa tâm thức thô và tâm thức vi tế. Nhiều tâm thức thô xuất hiện phụ thuộc trên những tập họp uẩn vật lý, của thân thể. Đây là bằng chứng khi chúng ta lưu tâm đến những thần kinh khác biệt và chức năng của não bộ, nhưng chỉ vì những điều kiện vật lý được thấy không có nghĩa là điều này đủ để sản sinh một nhận thức. Nhằm để cho một nhận thức là điều sẽ có năng lực để phản chiếu và biết một đối tượng sinh khởi, nó phải có một nguyên nhân có cùng thể chấtNguyên nhân có cùng thể chất nền tảng, của cùng vật chất như kết quả của nó, trong trường hợp này sẽ là tâm thức vi tế. Đấy là tâm thức giống nhau này hay tâm vi tế mà chính nó sẽ thâm nhập những tế bào của cha mẹ tại thời khắc thụ thai. Tâm vi tếthể không có sự bắt đầu. Nếu nó có một sự bắt đầu, tâm thức sẽ phải được sinh ra với điều gì đấy không phải là tâm thức. Theo mật điển Thời Luân (Kalachakra Tantra), người ta phải ngược về những hạt không gian (vi trần) để tìm ra những nguyên nhân căn bản cùng thể chất cua thế giới vật lý ngoại tại cũng như của thân thể chúng sinh.

Vũ trụ học Phật Giáo thiết lập chu trình của vũ trụ trong cung cách sau đây: đầu tiên có một thời điểm cấu tạo (thành), rồi có thời gianvũ trụ tồn tại (trụ), rồi một thời gian khác mà nó bị phá hủy (hoại), theo sau bởi một thời điểm của trống rỗng (không) trước khi cấu tạo một vũ trụ mới. Suốt thời gian của sự trỗng rỗng này, hạt không gian tồn tại, và từ những hạt không gian này một vũ trụ mới sẽ được hình thành. Chính trong những hạt không gian này chúng ta thấy nguyên nhân nền tảng cùng thể chất của toàn thể thế giới vật lý. Nếu chúng ta muốn diễn tả cấu tạo của vũ trụthân thể vật lý của con người, tất cả chúng ta cần làm là phân tích và thấu hiểu cung cách mà trong ấy khả năng tự nhiên của của những hóa chất khác nhau và những yếu tố khác cấu thành vũ trụ ấy đã có thể tạo hình từ những hạt không gian này. Trên căn bản khả năng đặc thù của những hạt này mà cấu trúc của vũ trụ này và của thân thể con người hiện diện trong ấy đã xảy ra. Nhưng từ thời khắc mà những yếu tố tạo thành thế giới bắt đầu làm rõ lên những kinh nghiệm khác nhau của khổ đau và hạnh phúc trong những chúng sinh, chúng ta phải giới thiệu khái niệm nghiệp báo – đấy là, những hành vi tích cựctiêu cực đã diễn ra và tích tập trong quá khứ. Thật khó để mà quyết đoán nơi nào mà những biểu hiện tự nhiên khả năng của những yếu tố vật lý chấm dứttác động của nghiệp báo bắt đầu – nói cách khác, kết quả những hành vi quá khứ của chúng ta – Nếu chúng ta tự hỏi mối liên hệ gì có thể có giữa nghiệp báo và môi trường ngoại tại này được hình thành bởi những định luật tự nhiên, thì đấy là lúc để giải thích nghiệp báo là gì.

Nghiệp báo, trước tiên nhất có nghĩa là hành động. Chúng ta phân biệt một loại nghiệp báo, là bản chất tinh thần, một nhân tố tinh thần của là ý chí hay chủ tâm (ý). Cũng hiện hữu những nghiệp báo thân thể (thân) và lời nói (khẩu). Để thấu hiểu mối liên hệ giữa những nghiệp báo thân, miệng và ý này cùng thế giới vật chất, chúng ta phải liên hệ đến mật điển tantra. Mật điển Thời Luân đặc biệt giải thích rằng, trong thân thể chúng ta có thể được tìm thấy tại những mức độ thô, vi tế, và cực kỳ vi tế, năm yếu tố tạo nên vật chất của thế giới ngoại tại. Vì thế, trong phạm vi này, tôi tin rằng, chúng ta phải hình dung ra sự nối kết giữa nghiệp báo thân, miệng và ý cùng những yếu tố ngoại tại

The material on this page has been collected from the recent book, "Beyond Dogma: The Challenge of the Modern World", (c) 1996 North Atlantic Books, translated by Alison Anderson and Marianne Dresser from talks given during His Holiness's visit to France end 1993. 
E-MAIL: All enquiries, comments and suggestions welcome.

Philosophical questions on Creation
http://hhdl.dharmakara.net/hhdlquotes22.html
Ẩn Tâm Lộ ngày 12/05/2011

 


[1] Sự ngộ đạo, tu đạochứng đạo của mỗi cá nhân.

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 40013)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 37201)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28235)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28844)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 27114)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 34521)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27753)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 33178)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28495)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30011)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25447)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 51196)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26638)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28556)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 24289)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27384)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31840)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30106)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27637)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35365)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27382)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 31666)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 24113)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 22950)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
(Xem: 26559)
Nếu chúng ta thẩm tra thế giới tinh thần của chúng ta, chúng ta thấy rằng có những nhân tố tinh thần đa dạng có cả những khía cạnh tích cựctiêu cực.
(Xem: 28187)
Càng trau dồi, Giác Trí càng khai mở thì Pháp Phật càng sáng tỏ hơn; giống như càng nghiên cứu học hỏi thì kiến thứctư tưởng càng phong phú và sâu sắc hơn.
(Xem: 29300)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 33189)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 21700)
Để dễ tiếp cận, chúng ta sẽ nêu câu hỏi cụ thể, rằng “Ai đã vượt qua cả thiện và ác?” và các trích dẫn nơi đây sẽ chỉ tập trung riêng vào Kinh Pháp Cú (Dhammapada).
(Xem: 20547)
Theo Trung Quán, duyên khởi không có nghĩa là nguyên lý của một tiến trình ngắn ngủi, mà là nguyên lý về sự lệ thuộc vào nhau một cách thiết yếu của các sự vật.
(Xem: 22163)
Vì sự vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, nên tâm khôngtự tính. Sáu thức hay tâm thức đã vô thường thì nó cũng không có chơn thật.
(Xem: 23903)
Nói khái quát, Phật giáo quan niệm thực tại không ngừng biến chuyểnbác bỏ khái niệm bền vững lâu dài. Tất cả là một dòng sát na sinh diệt liên tục, tất cả là lưu chú...
(Xem: 22785)
Với hy vọng và một cảm giác hạnh phúc, thân thể chúng ta cảm thấy an lạc. Vậy nên hy vọnghạnh phúc là những nhân tố tích cực cho sức khỏe của chúng ta.
(Xem: 23116)
Một quan điểm khách quan mà nói, các kinh dù nguyên thủy hay phát triển, cốt tủy Giác Ngộ được Cứu CánhGiải Thoát khỏi dòng Tâm Thức vẩn đục...
(Xem: 30329)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 21726)
Sodpa hay Nhẫn nhục ba la mật là một trong những pháp thực hành Bồ tát đạo quan trọng nhất. Có những hoàn cảnh đặc biệt bạn cần phải thực hành hạnh Sodpa.
(Xem: 19205)
Với Phật giáo, sống là sống với. Do đó, bạn bè là một thuộc tính riêng có của các loài chúng sanh nói chung và của con người nói riêng...
(Xem: 20105)
Muốn đền đáp ân đức cha mẹ là khi cha mẹ chưa có lòng chính tín thì khuyên bảo cha mẹ có lòng chính tín để có được nơi an ổn từ niềm tin đó...
(Xem: 32636)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 33946)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27703)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 23766)
Tâm kinh Bát-nhã là một bản kinh trọng yếu trong nhà Thiền, bản kinh này nói về “tánh không” của các pháp. Người tu Phật phải mở được cánh cửa trí tuệ...
(Xem: 23146)
Từ bi bác ái, tự giác giác tha. Ấy là mục đích của bậc chơn tu chánh đạo. Xưa, Phật ra đời khai môn giáo hóa, tế độ quần sanh trong bốn mươi chín năm...
(Xem: 28053)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 19157)
Ở một chừng nào đó có thể hiểu, đi theo con đường của Phật, noi theo công hạnh của Phật, để cuối cùng được kết quả như Phật… thì được xem là đang làm việc Phật.
(Xem: 24503)
Nội dung của Kinh Di Giáo là những lời dạy của đức Thế Tôn trước khi nhập diệt. Lời lẽ đã tha thiết, ý nghĩa lại sâu xathực tế.
(Xem: 21383)
Bổn phận của người Xuất Giatu đạo, truyền đạoduy trì Phật giáo, cho đến thực hiện tinh thần Bồ-tát nhập thế, còn bổn phận của người Tại Gia là ở bên ngoài hộ trì Phật giáo.
(Xem: 23751)
Diệu Pháp Liên Hoa, đề kinh được cấu tạo theo thể cách Pháp và Dụ. Diệu Pháp ám-tỷ cho cái Tri Kiến Phật nhiệm mầu vốn có của tất cả chúng sanh...
(Xem: 29327)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 30950)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25261)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 18988)
Theo lời dạy của Đức Phật, sắc sanh như là các hạt nhỏ. Các hạt nhỏ này có thể nhỏ hơn các nguyên tử. Khi quý vị thực hành thiền tứ đại một cách có hệ thống...
(Xem: 20086)
Diệu pháp đại thừa pháp Liên hoa một đóa trăng Cõi trời người cung kính Quy mạng đốn giác môn.
(Xem: 19996)
Đức Phật là vị thầy, người hướng dẫn và chỉ đạo tâm linh của chúng ta. Do thế, những hành vi thân thể, lời nóitư tưởng phải phù hợp với lời dạy của ngài.
(Xem: 19371)
Chúng ta sống trong không gian vô cùngthời gian vô tận tất phải có nhận thức về thế gian. Thế gianmột thế giới hiện tượng lưu chuyển mãi...
(Xem: 22516)
Tất cả các đệ tử đã đến đây, bởi đang tìm kiếm sự giải thoáthạnh phúc vô song tối thượng của sự toàn giác. Mọi người tập họp ở đây vì chúng sinh, vì Giáo Pháp...
(Xem: 31073)
Vâng, để Giác Ngộ, chỉ cần xoáy vào một chữ tâm đó thôi. Chỉ cần an trụ, chỉ cần hàng phục được cái tâm đó là xong! Nghĩa là trở thành một bậc Giác ngộ, ngang hàng với Phật...
(Xem: 19640)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 19647)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23919)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant