Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phẩm 1 - Tựa

19 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 9985)
Phẩm 1 - Tựa

PHÁP HOA KINH THÂM NGHĨA ĐỀ CƯƠNG
Hoà thượng Thích Từ Thông
Nhà Xuất Bản TP. Hồ Chí Minh 2001

PHẨM 1: “TỰA”

Kinh nầy tôi nghe, một lúc nọ đức Phật trụ ở núi Kỳ-xà-quật cùng với số chúng tụ họp xung quanh Phật rất đông, gồm đủ các thành phần:

Tỳ-kheo đắc quả A-la-hán 12.000 người. Bậc hữu-học và vô-học 2.000 người. Tỳ-kheo-ni 6.000 người. Bồ-tát 80.000 người. Trời Đế-thích và quyến thuộc 20.000 người. Tứ Đại-Thiên-Vương và quyến thuộc 10.000 người. Trời Tự-Tại và Đại-tự-tại cùng quyến thuộc 30.000 người. Phạm-Thiên-Vương và quyến thuộc 12.000 người. Tám vị Long-Vương và quyến thuộc; A-tu-la-vương và quyến thuộc; Ca-lầu-la-vương và quyến thuộc nhiều trăm ngàn người. Có vua A-xà-thế, con bà Di-đề-hi cùng quyến thuộc tùy tùng câu hội…

Đại chúng đều đảnh lễ cúng dường tán thán Phật, rồi lui ngồi qua một phía.

Bấy giờ đức Thế-Tôn vì chư đại Bồ-tát nói kinh Đại-Thừa tên là:

Vô Lượng Nghĩa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm

Nói kinh xong, đức Phật ngồi xếp bằng nhập chánh định Vô Lượng Nghĩa Xứ, thân tâm không lay động.

Chư Thiên vull mừng rải thiên hoa cúng dường Phật, hàng Nhân-Thiên tán thán chấp tay một lòng chiêm ngưỡng đức Như Lai.

Lúc bấy giờ, từ tướng lông trắng chặng giữa đôi mày Phật, phóng ra ánh hào quanh chiếu khắp mười vạn tám ngàn thế giới ở phương Đông. Trên từ cõi sắc cứu cánh dưới suốt ngục A-tỳ. Chúng sanh trong sáu đường đều thấy rõ lẫn nhau.

Lại thấy chư Phật ở các quốc-độ đang nói pháp và được nghe pháp của các Phật rõ ràng. Cũng thấy các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Cận-sự-nam, Cận-sự-nữ tu hành đắc đạo. Thấy các Bồ-tát thực hành lục độ trong việc tự-lợi lợi-tha tinh-tấn trên đường Bồ-đề. Lại thấy có đức Phật nhập Niết-bàn, có nơi xây dựng tháp tôn thờ xá lợi...

Bồ-tát Di-lặc và đại chúng đều lấy làm lạ trước điềm lành này. Thay mặt cho tất cả Bồ-tát, Ngài Di Lặc cầu xin Đại Trí Văn Thù là bậc xuất chúng, giải thích cho đại chúng về những sự kiện trên.

Bồ-tát Văn Thù Sư Lợi giải đáp rằng: theo chỗ tôi biết thì Thế-Tôn nói pháp lớn. Bồ-tát Văn Thù nói tiếp: Tôi từng ở trong vô lượng Phật quá-khứ đã thấy điềm lành này. Chư Phật phóng hào quang như thế, sau đó liền nói “pháp lớn”. Cho nên tôi biết chắc rằng, hôm nay Phật vì muốn cho chúng sanh được nghe biết “pháp nhiệm mầu” mà tất cả người đời khó tinh cho nên hiện ra điềm lành ấy…

Bồ-tát Văn Thù kể tiếp: Cách vô lượng A-tăng-kỳ-kiếp về trước có đức Phật hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh đủ mười đức hiệu diễn nói chánh pháp, ban đầu, chặng giữa và rốt sau đều lành, nghĩa lý sâu xa, trước sau không mâu thuẫn, thuần nhất không tạp. Phật vì người Thanh-Văn thừa nói “Tứ-Đế” cầu ra khỏi sanh, già, bệnh, chết được cứu cánh Niết-bàn. Vì hạng cầu quả Duyên-giác nói pháp “Thập nhị nhân duyên”, vì hàng bồ-tát nói pháp “Lục-ba-la-mật” khiến cho chứng quả Vô thượng Bồ-đề thành tựu Nhất-thiết chủng-trí. Kế tiếp có 20.000 đức Phật cùng một hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh và cùng một họ Phả-loa-đoạ. Pháp của tất cả chư Phật nói ra ban đầu, chặng giữa và rốt sau đều lành.

Đức Phật rốt sau vốn là một nhà vua, lúc chưa xuất gia có tám vị vương-tử tên là Hữu Ý, Thiện Ý, Vô Lượng Ý, Bảo Ý, Tăng Ý, Trừ Nghi Ý, Hướng Ý và Pháp Ý. Nghe vua cha xuất gia tu hành thành đạo Vô-thượng Chánh-đẳng Chánh-giác đều bỏ ngôi xuất gia theo.

Thủo đó, đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh cũng như đức Phật Thích-Ca hiện nay, nói kinh Đại thừa Vô Lượng Nghĩa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm. Nói xong bèn nhập chánh định Vô Lượng Nghĩa Xứ thân tâm không động.

Hàng Chư-Thiên hân hoan rải hoa cúng dườngĐại chúng vui mừng chấp tay nhìn Phật với tất cả lòng kính mộ. Lúc bấy giờ từ tướng lông trắng, chặng giữa đôi mày Như-Lai phóng ra ánh hào quang soi suốt 18.000 thế giới ở phương Đông, y như điềm lành hiện nay mà đại chúng cùng đang thấy.

Đức Nhật Nguyệt Đăng Minh Như-Lai từ chánh định dậy, vì Bồ-tát Diệu Quang và tám trăm đệ tử mà nói kinh Đại Thừa tên là Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm, trải 60 tiểu kiếp, chẳng rời chỗ ngồi. Người nghe pháp cũng ngồi một chỗ đến 60 tiểu kiếp thân-tâm không động, không mỏi mệt và xem thời gian ấy mau chừng như trong một bữa ăn.

Sau 60 tiểu kiếp nói kinh, trước chúng hội; Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên-long, Ma Phạm, Nhơn phi-nhơn, đức Nhật Nguyệt Đăng Minh tuyên bố: hôm nay vào nữa đêm, Như-Lai sẽ nhập Vô Dư Niết Bàn. Trước khi vào Niết-bàn, Phật thọ ký cho Bồ-tát Đức Tạng, trước đại chúng rằng: Đức-Tạng Bồ-tát nầy sẽ thành Phật hiệu là Tịnh Thân Như-Lai đủ mười đức hiệu thọ ký xong, đúng như lời tuyên bố đức Phật nhập Vô Dư Niết Bàn vào lúc nửa đêm.

Sau Phật diệt độ, Bồ-tát Diệu Quang thọ-trì kinh Diệu Pháp Liên Hoa trải tám mươi tiểu kiếp vì người diễn nói và dạy bảo cho tám vị vương tử ở vững trong đường Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Tất cả tám vị lần lượt đều thành Phật và vị Phật chót hiệu là Nhiên Đăng.

Trong tám trăm đệ tử của Bồ-tát Diệu Quang có một người tên là Cầu Danh. Sở dĩ người nầy có cái tên ấy là vì còn tham ưa danh lợi, tuy có đọc tụng kinh điển nhiều mà không thuộc rành. Dù vậy, đó cũng là một “căn lành” đã từng “gieo giống Phật” trong vô lượng ngàn muôn ức kiếp.

Sau khi kể lại câu chuyện trên, Bồ-tát Văn Thù kết luận: Bồ-tát Diệu Quang lúc đó đâu phải người nào lạ, chính là ta đây, còn Cầu Danh Bồ-tát lúc đó, nay chính là Di-Lặc ngài đấy.

Hôm nay đức Phật Thích Ca phóng quang hiện điềm giống hệt xưa kia, tôi nghĩ là đức Phật cũng sẽ nói kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm.
 
 

 THÂM NGHĨA

Học kinh Phật các tiền bối thường hay quan tâm đoạn mở đầu. Các ngài cho rằng ở phần thông tựa phải có đủ những yếu tố “ Lục Chủng Thành Tựu” thì nó mới được xem là chánh thống kinh Phật nói. Thí dụ:

“Kinh Pháp Hoa này, tôi nghe một thời nọ, đức Phật trụ tại Linh-Thứu-Sơn, cùng với số Tăng-Ni đại chúng cả thảy có bao nhiêu ngàn người”.

“Lục Chủng Thành Tựu” hay “Lục Trùng Chứng Tín” tên gọi khác nhau, nhưng tiền bối quan niệm: Kinh Phật nói thì phải hội đủ những đều như thế.

Thật lý mà suy: muốn thành tựu một việc gì cần phải hội đủ yếu tố của việc đó. Điều đó là tất nhiên; nhưng nếu là kẻ gian, họ đem “Lục chủng thành tựu” thay đổi cái “địa danh” na-ná, phịa ra tên “kinh mới” cùng một số đại chúng tương tợ… cho vào phần đầu… cái quyển kinh sách “dỏm” của họ. Điều đó, nếu người ta muốn làm thì chẳng phải khó khăn gì. Vì vậy đọc kinh điển Phật với tôi vấn đề Văn-Nhi-Tư. Tư-Nhi-Tu mới đem lại cho người Phật tử cái “trí tuệ” đích thực của chính mình.

Trước khi nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Phật vì các hàng Bồ-tát, nói kinh Vô Lượng Nghĩa Giáo Bồ-Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm. Việc làm nầy của Phật có dụng ý sâu-xa. Có nghĩa là muốn học hiểu kinh Pháp Hoa, phải “chuẩn bị tư tưởng” qua kinh Vô Lượng Nghĩa. Nói cách khác, có ý thức trong sự tiếp thu tốt về chân lý “thuần viên độc diệu” đệ nhất nghĩa của kinh Diệu Pháp Liên Hoa.

Kinh Vô Lượng Nghĩa, nhưng không được hiểu rằng kinh này có nhiều nghĩa. Hiểu thế là sai. Vô Lượng Nghĩa ở đây phải hiểu là không cắt nghĩa được, cắt nghĩa kiểu nào, ngôn từ khéo léo đến đâu, nói hoài, nói mãi, nói “ vô lượng ngữ ngôn” thậm chí “vô lượng kiếp số” cũng không diễn đạt thấu đáo được cái chân lý của ý kinh Phật dạy, ngoại trừ người “thể nhập”.

“Như nhơn ẩm thủy lãnh noãn tự tri”. Cốc nước đó, nóng hay lạnh, chỉ có người được uống mới biết cái chừng độ của nó.

Người đệ tử Phật, phải hiểu Vô Lượng Nghĩa qua tinh thần tu học đó.

Sau đây, lời Phật dạy cho Bồ-tát Đại Trang Nghiêm và các Bồ-tát phải tu học về giáo lý Vô Lượng Nghĩa của Đại Thừa.

Phật bảo: Này Đại Trang Nghiêm! Bồ-tát muốn tu học pháp môn Vô Lượng Nghĩa thì phải nên quan sát: Hết thảy các pháp, từ trước đến nay, tánh tướng thường rỗng rang vắng lặng, thanh tịnh bản nhiên, không sanh, không diệt, không nhơ, không sạch, không thêm, không bớt, không đến, không đi, không một, không khác, không thường, không đoạn, không ra, không vào, không lùi, không tiến… Ví như hư không, không có cái hai. Chỉ vì chúng sanh hoạnh chấp. Chấp lấy cái giả dối rồi cho là cái này, cái kia, là được, là mất… khởi ra tâm niệm không lành, tạo mọi điều ác nghiệp; do vậy mà loanh quanh trong sáu nẻo chịu mọi sự khổ đau vô lượng ức kiếp mà không tự biết để tìm lấy cái lối ra!

Này Đại Trang Nghiêm! Tu học Vô Lượng Nghĩa, Bồ-tát phải quán chiếu tư duy:

Pháp tướng “ như vậy”, nó sanh “như vậy”.

Pháp tướng “ như vậy”, nó trụ “ như vậy”.

Pháp tướng “ như vậy”, nó dị “như vậy”.

Pháp tướng “ như vậy”, nó diệt “như vậy”.

Pháp tướng “ như vậy”, nó sanh ác pháp.

Pháp tướng “ như vậy”, nó sanh thiện pháp.

Pháp trụ, dị, diệt cũng sanh thiện phápác pháp “như vậy”.

Tóm lại tu học Vô Lượng Nghĩatu học cách quán chiếu Thật Tướng các pháp. Tu học nhận thức về cái tự tánh “Như Thị” thanh tịnh bản nhiên của hiện tượng vạn pháp cho đến khi tự mình thể nhập cái chân lý “Thật Tướng Vô Tướng” “Vô Tướng Bất Tướng” (Thật tướng của vạn pháp là “Không” mà ý niệm “không” cũng không lưu giữ).

Bồ-tát tu học Đại Thừa Vô Lượng Nghĩa, chuẩn bị cho mình một tư thế sẵn sàng để tiếp thọ tư tưởng “Duy Nhất Phật Thừa Vô Hữu Dư Thừa Nhược Nhị Nhược Tam” của kinh Diệu Pháp Liên Hoa (chỉ có một Phật thừa duy nhất, không có thừa nào khác để gọi là hai hoặc ba).

Với giáo lý vô thượng thậm thâm vi diệu đó, nên kinh Vô Lượng Nghĩakinh Diệu Pháp Liên Hoa là thứ chân lý “Duy Hữu Phật Dữ Phật Nãi Năng Tri Chi” (Chỉ có Phật với Phật mới hiểu rõ nguồn giáo lý đó)

Xét cho cùng, thì Như Lai thường trụ trong chánh định Vô Lượng Nghĩa Xứ, chứ không phải chỉ có cơ hội sau khi nói kinh Vô Lương Nghĩa Như Lai mới nhập định Vô Lượng Nghĩa Xứ. Thập lực, tứ vô-sở-uý, thập bát bất cộng pháp, Như Lai lúc nào chẳng có!

Tướng Lông trắng giữa đôi mày Phật là một tướng trong 32 tướng của Phật. Còn ánh sáng thông thường người ta gọi là “hào quang” của Phật. Hào quang có phóng hay không phóng là một vấn đề khác cần phải học và hiểu kỹ về Phật thì người đệ tử Phật mới tránh được bệnh chấp ảo tưởng hoang đường.

Nội dung Kinh Pháp Hoa, về việc phóng ánh sáng (người đời thường linh thiêng hoá bằng cái từ “hào quang”) trước sau đức Phật sử dụng ba lần khác nhau, để nói lên công dụng khác nhau về giáo lýđức Phật muốn truyền đạt cho Pháp Hoa hải hội từng lúc khác nhau.

Ở phẩm Tựa này, đức Phật chỉ phóng ánh sáng từ điểm lông trắng chặng giữa đôi mày (chỗ huyệt ấn đường) soi sáng khắp một vạn tám ngàn thế giới chư Phật ở phương Đông. Đại chúng xem thấy rõ việc làm của Phật trong sự nghiệp giáo hoá, thuyết pháp độ sanh. Thấy rõ các chúng Thanh-văn tinh-tấn tu-hành với pháp tứ-đế. Thấy các Bồ-tát đang thực thi lục độ trên đường tự lợi, lợi tha. Thấy rõ, có đức Phật đang chuyển pháp luân. Có đức Phật đang nhập Niết Bàn. Có nơi trà tỳ thâu xá lợi… trên từ Trời Sắc cứu cánh nhìn thấu suốt địa ngục a-tỳ, lục đạo chúng sanh thông đồng trông thấy lẫn nhau…

Một điểm “hào quang” tức là một chút “trí tuệ” Phật mà khiến cho mọi người trong đại chúng có khả năng nhìn những sự việc trong một vạn tám ngàn thế giới… Vừa thấy vừa nghe như cận kề trước mắtSự kiện này nhằm dạy cho toàn thể Pháp Hoa Hải Hội về “ Trí Tuệ Phật” về “Tri Kiến Như Lai”. Rằng khi con người đủ khả năng sử dụng “Trí Tuệ Phật” “Tri Kiến Như Lai” thì một vạn tám ngàn thế giới cũng chẳng có gì ngăn sông cách núi.

Phóng hào quang lần hai, đức Phật sử dụng hai điềm. Một ở tướng bạch hào và một ở tướng vô-kiến-đảnh. Hai điểm hợp lại, khiến cho đại chúng trông thấy thế giới chư Phật nhiều như số cát 42 sông Hằng.

Phóng quang lần ba, ánh sáng phát ra từng lỗ chân lông Phật, toàn thể Pháp Hoa Hải Hội trông thấy Pháp Giới Nhất Chân. Cõi nước trong mười phương không còn ranh giới nữa.

Thế cho nên giáo lý: “ chư pháp tương tức” “ nhất đa tương dung” “đồng thời cụ túc tương ứng” cũng được hiểu ở nơi sự kiện “phóng quang” nầy (xin đọc thêm Kinh Duy Ma Cật Trực Chỉ Đề Cương cùng một biên dịch giả). Để chứng minh sáng tỏ ý nghĩa đó, ta hãy đọc đoạn văng trùng tụng này:

… “ Ngã kiến Đăng Minh Phật

Bổn quang thụy như thử

Dĩ thị tri kiến Phật

Dục thuyết Pháp Hoa Kinh

Kim tướng như bổn thoại

Thị chư Phật phương tiện

Kim Phật “phóng quang minh” 

Trợ pháp thật tướng nghĩa”...

Có nghĩa là: xưa kia tôi thấy Phật Đăng Minh, phóng hào quang giống như hiện giờVì vậy tôi biết hiện nay Phập sắp nói kinh Pháp Hoa. Điềm hôm nay y hệt điềm xưa. Đó là phương tiện của chư Phật. Nay Phật phóng hào quang, nhằm hỗ trợ cho sự diễn bày “thật tướng”.

Vậy, nói đến “hào quang” phải hiểu là “Trí tuệ Phật”. Tùy trường hợp sử dụng trí tuệ ít hay nhiều, toàn diện hay chưa toàn diện và tầm nhận thức chân lý, nhận thức thế giới rộng hẹp khác nhau.

Sự thông đồng giữa một vạn tám ngàn thế giới của chư Phật... và Lục Đạo chúng sanh, nền triết lý “một tâm đủ mười pháp giới” của đạo Phật, được Phật khai thị một cách kín đáo qua sự kiện phóng quang nầy.

Bồ tát Di Lặc không biết duyên cớ của sự hiện điềm, thay mặt đại chúng hỏi để tìm hiểu duyên cớ. Bồ tát Đại Trí Văn Thù thì giải đáp một cách tận tường, khúc chiết. Kinh nêu ra sự kiện này, nhằm dạy cho người đệ tử Phật ghi nhớ và quan tâm đến vấn đề “nhân quả” và vấn đề “chủng tử ” trong quá trình tu học ở thời đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh xa xưa. Đại Trí Văn Thù ngày nay là bồ tát Diệu Quang thời đó. Ở thời kỳ Bồ tát Diệu Quang dạy kinh Diệu Pháp Liên Hoa cho 800 đệ tử vững bước tiến tu trên đường Bồ-đề thì Di Lặc lúc bấy giờ mang biệt hiệu là Bồ-tát Cầu Danh, thường biếng trễ trên đường tu học.

Gieo hạt giống trí tuệ sâu, sẽ thành cái quả “Đại Trí”. Trồng cái nhân biếng trễ kết quả chỉ là Từ Thị Di Lặc vậy thôi.

Giáo lý của kinh Pháp Hoa thuộc về pháp lớn, thứ pháp chỉ để dạy cho những người có chủng tánh Đại Thừa, khác với giáo lý dạy cho những hàng căn tánh Tiểu Thừa. Phật nói kinh Pháp Hoa là tuông mưa pháp lớn; thổi còi pháp lớn, đánh trống pháp lớn. Thứ giáo pháp mà người đời kho nghe, khó hiểu và khó tin.

Ở nơi phẩm Tựa của Bộ Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, đức Phật đã cho Pháp Hoa Hải Hội biết về cái nguyên tắc chung của ba đời chư Phật thường làm. Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh cách hằng hà sa số kiếp trước đã làm, như vậy, hiện nay đức Phật Thích Ca cũng đang làm như vậy và Phật tương lai thì cũng thế. Lời nói của chư Phật là lời chân chính, chắc thật. Lời nói trước sau như một, ban đầu, chặng giữa và rốt sau đều lành, không hề có dụng ý lừa dối phỉnh gạt người nghe.

Về phương diện thuyết pháp giáo hóa chúng sanh thì vì hạng căn-cơ Thanh Văn Phật nói cho họ về pháp “Tứ-diệu đế, hầu mong ra khỏi sanh tử; chứng đắc Niết Bàn”; vì hàng Duyên Giác nói cho họ về pháp “Thập nhị nhân duyên”; vì hàng Bồ Tát nói pháp “Lục-ba-la-mật” khuyến cáo thẳng tiến lên Bồ-đề Vô Thượng thành tựu Nhất Thiết Trí, Tự Nhiên Trí, Vô Sư Trí của mình. Đó là thông lệ của ba đời chư Phật, trong sự nghiệp hóa độ chúng sanh.

Vấn đề 20.000 đức Phật cùng hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh, pháp của đức Phật nói: ban đầu, chặng giữa và rốt sau đều lành. Phải hiểu vấn đề này, rằng: không những 20.000 mà 200.000 hay 200.000.000... đi nữa, pháp của các Phật nói ra cũng đều lành như vậy cả. Danh hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh vừa là danh hiệu Phật và vừa biểu trưng “Phật” là hiện thân chân lý muôn đời trong sáng cũng như sự soi sáng của vầng nhật nguyệt vằng vặc muôn đời...

Đức Nhật Nguyệt Đăng Minh thứ 20 ngàn, xuất thân từ gia tộc nhà vua. Tức nhiên là vinh hoa phú quý tột bậc. Có tám con ngoan, tức nhiên có hoàng hậu hiền. Vì muốn cầu quả Phật, Vô-thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, con đường duy nhất là phải xuất gia, xuất gia xả đi cái “Ta”, cái “Trẫm” của một đấng quyền uy tối thượng, sanh sát trong tầm tay ấy và để phủi giũ hết những cái sở hữu “của ta”, mênh mông một thời giang san cẩm tú! Bấy giờ, trước cảnh gió lộng trời thanh, trong những đêm trăng trong gió mát, nhìn giang san với tâm hồn thanh thoảng ngâm nga:

“ Nhất phái thanh thiên cảnh sắc u

Tiền nhân điền thổ hậu nhân thu

Hậu nhân thu đắc mạc hoan-hỉ

Hòan hữu thu nhơn tại hậu đầu

(Một dải giang san cảnh đẹp thanh

Cơ đồ người trước kẻ sau giành

Người sau cướp được khoan mừng vội

Chẳng mấy lâu sau có gả tranh)”

Thưởng thức được cái thi tứ đậm đà chân lý đó, thì ngày thành Phật, sao mai dần dần ló dạng.

Xuất gia hành đạo, thực ra không phải chuyện ngẫu nhiên, mà mỗi đều có nguyên nhân của nó. Nguyên nhân có 2 thứ: “Viễn nhân” và “Cận nhân”. Người chỉ có “Viễn nhân” thì xuất gia trước, rồi chế ngự, bồi dưỡng uống nắng “thức tâm” sau. Người có “Cận nhân” thì trau dồi chế ngự “ thức tâm” trước, sau đó đủ điều kiện mới xuất gia hành đạo.

Cha xuất gia tu hành, độ các con, đắc thành chánh quả. Đấy là thể hiện theo nguyên tắc “Viễn nhân”.

Ngược lại, con và vợ xuất gia tu hành độ vưa cha thành tựu đạo quả. Sự thanh tịnh hóa “thức tâm” trước, là thể hiện theo nguyên tắc “Cận nhân”. Như trường hợp Diệu Trang Nghiêm Vương (Phẩm thứ 27)

Thuyết giảng kinh Diệu Pháp Liên Hoa thời gian 60 tiểu kiếp, đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh không rời chỗ ngồi mà Bồ tát Diệu Quang 800 tử đệ cùng đại chúng không hề mỏi mệt và với thời gian ấy mà tưởng chừng như thời gian của một bữa ăn. Điều này nói lên sự kết quả to lớn của người nói và người nghe. Thể nhập “Pháp Hoa Tam Muội”, nhận thức được chân lý “Pháp Giới Nhất Chân” “Chư pháp tương tức, tương dung, tương ứng” thì ngay điểm thời gian hiện tại có đủ mười đời. “Thập thế cách pháp dị thành môn” vì thời gian cũng tương tức, tương dung và tương ứng. (Xin đọc thêm “Thập Huyền Duyên Khởi” có giảng rõ ở kinh Duy Ma Cật Trực Chỉ Đề Cương cùng một biên soạn giả)

Sanh tử là việc bình thường, từ ngàn xưa, con người đã chấp nhận sự thật đó. Hễ có sanh tất phải có tử. Chỉ khác nhau ở điểm chúng sanh thì “Sanh tử bì lao” đau đớn, khổ sở triền miên, vì cái nhân đa dục. Còn Phật “Sanh thuận tử an” sống chếtthuận theo chân lý biến dịch tuần hoàn của vạn pháp, cho nên cái chết của Phật gọi là “ nhập Niết-Bàn”.

Vấn đề thọ ký cũng được báo trước trong ánh hào quang, để chuẩn bị tư tưởng cho đại chúng trong hội Pháp Hoa khỏi ngạc nhiên và bở ngỡ sau nầy. Vì Phật sẽ thọ ký dài dài cho nhiều đối tượng, nói đúng hơn, cho tất cả mọi căn cơ.

Giáo lý kinh Pháp Hoa là thứ chân lý Đại Thừa liễu nghĩa, Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh đã nói, Bồ tát Diệu Quang thuộc hàng đệ tử tiếp tục truyền bá kinh Pháp Hoa, dẫn dắt tám vị vương tử tu hành đều thành Phật.

Người nghe được kinh Pháp Hoa là người trồng sâu căn lành cho nên sớm muộn gì rồi cũng được thành Phật. Một bồ tátbiệt hiệuCầu Danh , nghe qua là có thể biết đạo hạnh của vị bồ tát thế nào rồi. Dù vậy, cũnh đã tiếp thu gieo giống Pháp Hoa cho nên hạt sen Pháp hoa đến thời Phật Thích Ca đã trổ bông bảy tám chục phần trăm mở bày cánh nhụy.

Văn ThùDi Lặc trong cương vị Bồ-tát, có hơn kém nhau trong mức độ phần trăm nào đó, chỉ vì khi gieo giống có trước sau, có nông sâu, từ khi cùng tu học dưới thời Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh xa xưa ấy.

Thuật lại một sự kiện xưa để đoán định hiện tượng xảy ra hiện tại, để kết luận rằng: Phật sắp nói kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm, như Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh đã nói cách đây vô lượng hằng sa kiếp trước.

Trong sự kiện phóng quang ngầm tuyên cáo với tất cả chúng sanh hậu thế rằng những việc Phật nói, Phật làm trong kinh Pháp Hoa để dạy cho chúng sanh là việc của chư Phật quá khứ đã nói, đã dạy, đã làm. Chẳng những thế, mà chư Phật vị lai cũng nói, cũng dạy và cũng làm như vậy.

Ánh sáng mặt trời nóng. Ánh sáng mặt trăng mát, dù ở quá khứ, hiện tại hay vị lai thì ai cũng nói như vậy thôi. !
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 40002)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 37188)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28225)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28827)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 27096)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 34494)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27729)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 33133)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28477)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30002)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25437)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 51165)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26625)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28545)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 24278)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27370)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31824)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30104)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27621)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35352)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27371)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 31650)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 24093)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 22939)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
(Xem: 26545)
Nếu chúng ta thẩm tra thế giới tinh thần của chúng ta, chúng ta thấy rằng có những nhân tố tinh thần đa dạng có cả những khía cạnh tích cựctiêu cực.
(Xem: 28179)
Càng trau dồi, Giác Trí càng khai mở thì Pháp Phật càng sáng tỏ hơn; giống như càng nghiên cứu học hỏi thì kiến thứctư tưởng càng phong phú và sâu sắc hơn.
(Xem: 29285)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 33167)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 21683)
Để dễ tiếp cận, chúng ta sẽ nêu câu hỏi cụ thể, rằng “Ai đã vượt qua cả thiện và ác?” và các trích dẫn nơi đây sẽ chỉ tập trung riêng vào Kinh Pháp Cú (Dhammapada).
(Xem: 20540)
Theo Trung Quán, duyên khởi không có nghĩa là nguyên lý của một tiến trình ngắn ngủi, mà là nguyên lý về sự lệ thuộc vào nhau một cách thiết yếu của các sự vật.
(Xem: 22150)
Vì sự vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, nên tâm khôngtự tính. Sáu thức hay tâm thức đã vô thường thì nó cũng không có chơn thật.
(Xem: 23890)
Nói khái quát, Phật giáo quan niệm thực tại không ngừng biến chuyểnbác bỏ khái niệm bền vững lâu dài. Tất cả là một dòng sát na sinh diệt liên tục, tất cả là lưu chú...
(Xem: 22774)
Với hy vọng và một cảm giác hạnh phúc, thân thể chúng ta cảm thấy an lạc. Vậy nên hy vọnghạnh phúc là những nhân tố tích cực cho sức khỏe của chúng ta.
(Xem: 23102)
Một quan điểm khách quan mà nói, các kinh dù nguyên thủy hay phát triển, cốt tủy Giác Ngộ được Cứu CánhGiải Thoát khỏi dòng Tâm Thức vẩn đục...
(Xem: 30305)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 21703)
Sodpa hay Nhẫn nhục ba la mật là một trong những pháp thực hành Bồ tát đạo quan trọng nhất. Có những hoàn cảnh đặc biệt bạn cần phải thực hành hạnh Sodpa.
(Xem: 19181)
Với Phật giáo, sống là sống với. Do đó, bạn bè là một thuộc tính riêng có của các loài chúng sanh nói chung và của con người nói riêng...
(Xem: 20086)
Muốn đền đáp ân đức cha mẹ là khi cha mẹ chưa có lòng chính tín thì khuyên bảo cha mẹ có lòng chính tín để có được nơi an ổn từ niềm tin đó...
(Xem: 32625)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 33936)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27688)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 23753)
Tâm kinh Bát-nhã là một bản kinh trọng yếu trong nhà Thiền, bản kinh này nói về “tánh không” của các pháp. Người tu Phật phải mở được cánh cửa trí tuệ...
(Xem: 23138)
Từ bi bác ái, tự giác giác tha. Ấy là mục đích của bậc chơn tu chánh đạo. Xưa, Phật ra đời khai môn giáo hóa, tế độ quần sanh trong bốn mươi chín năm...
(Xem: 28021)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 19149)
Ở một chừng nào đó có thể hiểu, đi theo con đường của Phật, noi theo công hạnh của Phật, để cuối cùng được kết quả như Phật… thì được xem là đang làm việc Phật.
(Xem: 24479)
Nội dung của Kinh Di Giáo là những lời dạy của đức Thế Tôn trước khi nhập diệt. Lời lẽ đã tha thiết, ý nghĩa lại sâu xathực tế.
(Xem: 21372)
Bổn phận của người Xuất Giatu đạo, truyền đạoduy trì Phật giáo, cho đến thực hiện tinh thần Bồ-tát nhập thế, còn bổn phận của người Tại Gia là ở bên ngoài hộ trì Phật giáo.
(Xem: 23713)
Diệu Pháp Liên Hoa, đề kinh được cấu tạo theo thể cách Pháp và Dụ. Diệu Pháp ám-tỷ cho cái Tri Kiến Phật nhiệm mầu vốn có của tất cả chúng sanh...
(Xem: 29304)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 30919)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25233)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 20037)
Nghiệp báo, trước tiên nhất có nghĩa là hành động. Chúng ta phân biệt một loại nghiệp báo, là bản chất tinh thần, một nhân tố tinh thần...
(Xem: 18980)
Theo lời dạy của Đức Phật, sắc sanh như là các hạt nhỏ. Các hạt nhỏ này có thể nhỏ hơn các nguyên tử. Khi quý vị thực hành thiền tứ đại một cách có hệ thống...
(Xem: 20072)
Diệu pháp đại thừa pháp Liên hoa một đóa trăng Cõi trời người cung kính Quy mạng đốn giác môn.
(Xem: 19983)
Đức Phật là vị thầy, người hướng dẫn và chỉ đạo tâm linh của chúng ta. Do thế, những hành vi thân thể, lời nóitư tưởng phải phù hợp với lời dạy của ngài.
(Xem: 19359)
Chúng ta sống trong không gian vô cùngthời gian vô tận tất phải có nhận thức về thế gian. Thế gianmột thế giới hiện tượng lưu chuyển mãi...
(Xem: 22495)
Tất cả các đệ tử đã đến đây, bởi đang tìm kiếm sự giải thoáthạnh phúc vô song tối thượng của sự toàn giác. Mọi người tập họp ở đây vì chúng sinh, vì Giáo Pháp...
(Xem: 31054)
Vâng, để Giác Ngộ, chỉ cần xoáy vào một chữ tâm đó thôi. Chỉ cần an trụ, chỉ cần hàng phục được cái tâm đó là xong! Nghĩa là trở thành một bậc Giác ngộ, ngang hàng với Phật...
(Xem: 19623)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 19640)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant