Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phẩm 25 - Quán Thế Âm Bồ tát phổ môn

19 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 12465)
Phẩm 25 - Quán Thế Âm Bồ tát phổ môn

PHÁP HOA KINH THÂM NGHĨA ĐỀ CƯƠNG
Hoà thượng Thích Từ Thông
Nhà Xuất Bản TP. Hồ Chí Minh 2001

PHẨM 25: 

QUÁN-THẾ-ÂM BỒ-TÁT PHỔ MÔN PHẨM

Lúc bấy giờ, Bồ-tát Vô Tận Ý lễ Phật bạch rằng: Thế Tôn ! Do nhân duyên nào mà Bồ-tát Quán Thế Âm có tên là Quán Thế Âm.

Phật bảo: Vô lượng trăm ngàn muôn ức chúng sanh đang bị khổ não mà nghe Bồ-tát Quán Thế Âm rồi “nhất tâm” xưng niệm danh hiệu của Bồ-tát thì tất cả chúng sanh ấy đều được giải thoát khổ não.

Người nắm giữ danh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm thì nhờ oai thần của Bồ-tát mà:

· Vào lửa, không bị lửa thiêu

· Chìm dưới nước, được vào chỗ cạn.

· Đi thuyền tìm châu báu trong biển lớn bị lạc vào nước quỳ La Sát sẽ thoát được nạn quỷ ấy.

· Sắp bị dao gậy chém đánh, thì dao gậy kia bị gãy từng khúc.

· Khỏi bị Dạ XoaLa Sát làm hại, thậm chí chúng không dám ngó nhìn.

· Bị giềng xích gông cùm, đều có tội hay không, xiềng xích gông cùm thảy đều đứt rã.

· Gặp đường hiểm nạn, được thoát khỏi và không bị sợ hãi.

Lại nữa, chúng sanh nào nhiều dâm dục, nhiều giận hờn, nhiều ngu si, mà thường cung kính niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm thì được lìa dục, lìa sân, lìa si.

Này Vô Tận Ý, Bồ-tát Quán Thế Âm oai thần vòi vọi như thế, cho nên chúng sanh phải một lòng tưởng nhớ.

Người nữ nào lễ bái, cúng dường Bồ-tát Quán Thế Âm để cầu con trai thì được con trai phước đức trí tuệ, còn muốn cầu con gái thì được con gái hình tướng xinh đẹp, trồng sâu cội phước, người người kính mến.

Cung kính lễ bái Quán Thế Âm phước đức không bao giờ mất và nhiều như phước đức của người niệm danh hiệucúng dường sáu muơi ức hằng hà sa Bồ-tát.

Vô Tận Ý bạch: Thế Tôn ! Bồ-tát Quán Thế Âm làm thế nào mà dạo khắp Ta-bà? Sức mạnh phương tiện của Bồ-tát như thế nào?

Phật bảo: Nếu có chúng sanh quốc độ nào cần thân Phật mới độ thoát họ được, thì Bồ-tát Quán Thế Âm liền hiện thân Phật mà thuyết pháp cho họ nghe. Nếu cần thân Duyên Giác, thân Thanh Văn, thân Phạm Cương, thân Đế Thích, thân Tự Tại Thiên, thân Thiên Đại Tướng Quân, thân Tỳ-Sa-Môn, thân Tiểu Vương, thân Trưởng Giả, thân Cư-Sĩ, thân Tể Quan, thân Bà-la-môn, thân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, thân con trai, thân con gái, thậm chí đến thân Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, cùng không phải loài người, để độ thoát một chúng sanh của một quốc độ nào đó, thì Bồ-tát Quán Thế Âm tùy trường hợphiện thân ấy để hoá độ.

Vô Tận Ý, Bồ-tát Quán Thế Âm thành tựu công đức như thế, dùng các thứ thân hình, dạo cùng các nước mà độ thoát chúng sanh, vì vậy chúng ngươi phải “nhất tâm” cúng dường. Bồ-tát Quán Thế Âm còn được cõi Ta-bà gọi là “Người bố thí vô uý” vì trong hoàn cảnh sợ hãi tai nạn nguy cấp, Bồ-tát có khả năng làm cho hết sợ.

Vô Tận Ý bạch Phật: Thế Tôn ! Con xin cúng dường Bồ-tát Quán Thế Âm. Nói xong, liền mở xâu chuỗi ngọc đang đeo nơi cổ, giá trị trăm ngàn lượng vàng, đem dâng cho Bồ-tát Quán Thế Âm mà nói rằng: Xin ngài nhận món pháp thí bằng châu báu nầy.

Bồ-tát Quán Thế Âm không chịu nhận. Vô Tận Ý lại thưa: Xin Ngài thương xót chúng tôi mà nhận cho.

Bấy giờ Phật bảo Bồ-tát Quán Thế Âm: Ông nên thương xót Vô Tận Ý và hàng tứ chúng cùng Trời, Rồng, Dạ xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, loài người và không phải người… mà nhận chuỗi ngọc.

Vô Tận Ý Bồ-tát nói một bài kệ, để hỏi đức Phật:

Thế Tôn đủ tướng tốt

Con nay xin hỏi Phật

Phật tử kia duyên gì

Tên là Quán Thế Âm”

Kệ đáp:

Vô Tận Ý nghe đây

Hãy nghe hạnh Quán Âm

Khéo ứng các nơi chỗ

Thệ rộng sâu như biển

Nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn

Hầu nhiều nghìn ức Phật

Phát nguyện thanh tịnh lớn”
 
 

Ta vì ông lược nói:

Nghe danh và thấy thân

Tâm niệm không xao lãng

Hay diệt khổ ba cõi

Giả sử khởi ý hại

Xô rớt hầm lửa lớn

Do sức Quán Âm kia 

Hầm lửa biến thành ao
 
 

Hoặc trôi dạt biển lớn

Cá, rồng, quỷ các nạn

Do sức Quán Âm kia 

Sóng mòi dập chẳng chìm
 
 

Hoặc ở chót Tu-di

Bị người xô rớt xuống

Do sức Quán Âm kia 

Như mặt trời trụ không
 
 

Hoặc bị người ác rượt 

Rớt xuống núi kim cang

Do sức Quán Âm kia 

Chẳng hại đến mảy lông
 
 

Hoặc bị oán tặc vây

Đều cầm dao gia hại

Do sức Quán Âm kia

Đều liền sanh lòng lành
 
 

Hoặc bị khổ nạn vua

Gia hình mệnh sắp chết

Do sức Quán Âm kia

Dao liền gẫy từng đoạn
 
 

Hoặc xiềng xích cầm tù

Tay chân bị cùm gông

Do sức Quán Âm kia

Tháo ra được thong thả
 
 

Trù ếm tra thuốc độc

Muốn hại chết người ta

Do sức Quán Âm kia

Người là,m mang hại lấy
 
 

Hoặc gặp La-sát dữ

Độc-long các quỷ yêu

Do sức Quán Âm kia 

Chúng liền không dám hại
 
 

Hoặc thú dữ vây quanh

Nanh vút bén đáng sợ

Do sức Quán Âm kia 

Chạy gấp chẳng kể đường

Rắn độc và bò cạp

Phun khí độc mịt mờ

Do sức Quán Âm kia 

Tự khắc lui chạy hết
 
 

Mây đen sấm sét nổ

Giá tuôn mưa xối xả

Do sức Quán Âm kia 

Tức thời tiêu tan hết
 
 

Chúng sanh bị khổ ách 

Vô lượng khổ bức thân

Quán Âm sức trí diệu 

Hay cứu khổ thế gian

Đầy đủ sức thần thông

Rộng tu trí phương tiện

Mười phương các cõi nước

Không cõi nào chẳng hiện

Các loài trong đường dữ

Địa ngục, quỷ, súc sanh

Sanh, lão, bệnh, tử, khổ

Lần lần khiến dứt hết
 
 

Quán chơn, quán thanh tịnh

Quán trí tuệ quảng đại

Quán bi và quán từ

Thường nguyện thường chiêm ngưỡng

Quán thanh tịnh không nhơ

Trời trí tuệ phá tối

Hay phục tai gió lửa

Chiếu sáng khắp thế gian
 
 

Thể Bi ngừa sấm sét

Ý từ đám mây lành

Xối mua pháp cam lồ

Dứt trừ lửa phiền não
 
 

Kiện tụng ở chỗ quan

Trong quân trận sợ sệt

Do sức Quán Âm kia 

Oán cừu đều tan hết
 
 

Diệu Âm: Quán Thế Âm

Phạm âm, hải triều âm

Tiếng hơn hết thế gian

Cho nên thường phải niệm
 
 

Niệm niệm chớ sanh nghi

Quán Thế Âm Thánh Tịnh

Với khổ não chết chóc

Làm chỗ nương cậy cho
 
 

Đủ tất cả công đức

Mắt lành trông chúng sanh

Biển phước lớn vô lượng

Thế nên cần đảnh lễ
 
 

Bấy giờ, Bồ-tát Trì Địa liền từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước Phật thưa rằng:

Bạch Thế Tôn ! Nếu có chúng sanh nào nghe phẩm Quán Thế Âm Bồ-tát Phổ Môn với sức thần thông, đạo nghiệp tự tại nầy thì nên biết công đức của người đó không phải tầm thường

Lúc Phật nói phẩm Phổ Môn nầy, trong chúng có 84.000 chúng sanh đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác

THÂM NGHĨA

Phẩm Quán Thế Âm Bồ-tát Phổ Môn thường gọi giản lược là phẩm Phổ Môn. Phẩm kinh nầy tùy chủng tánhtrình độ kiến giải của mỗi người mà có sự nhận thức khác nhau. Vì vậy khi ứng dụng việc tu tập hành trì, mỗi người theo sự nhận thức của mình mà “tín ngưỡng”. Thế nên khó tìm một tiêu chuẩnnhất trí về Bồ-tát Quán Thế Âmý nghĩa của phẩm Phổ Môn nầy.

Theo sự phân pháp của Hải Ấn đại sư được nhiều bậc đa văn tiền bối tán đồng, phẩm Quán Thế Âm được liệt vào phần Nhập Phật tri kiến, giáo nghĩa rất thâm. Đây là pháp thực hành quán niệm dựa trên âm văn của nhĩ cănthanh trần. Thanh trần và Âm, nhĩ căn và Văn vậy. Nhĩ căn có ba đức tánh Viên, Thông, Thường, nó đặc thù hơn các căn khác.

Ngồi một nơi yên tĩnh, mười phương có tiếng trống, cùng một lúc nghe đủ cả mười. Đó là đức Viên. 

Cách vách có thể nghe tiếng. Tiếng gần tiếng xa cũng có thể nghe. Đó là đức Thông. 

Có tiếng nghe đã đành, không tiếng tánh nghe vẫn có. Đó là đức Thường của nhĩ căn vậy.

“ Phật xuất Ta-bà giới

Thử phương chân giáo thể

Thanh tịnh tại Âm văn

Dục thủ tam-ma-đề

Thật tùng Văn trung nhập”

Ý nghĩa bài kệ đó, nói lên ở kinh Thủ Lăng Nghiêm về sự ưu việt của Âm văn đó.

Phương pháp quán niệm Âm văn rất là quan trọng. Tu học phẩm Quán Thế Âm Bồ-tát, Phật tử chúng ta hãy gác qua tình cảm do tập quán và truyền thuyết dân gian hời hợt. Hãy tìm hiểu kinh điển qua sự thấy biết, tư duy vận dụng lý trí có tánh khách quan, mới có thể nhận chân giáo lý, mới có thể biết được sự thật về những điều Phật dạy chúng ta.

Ở phẩm Thường Bất Khinh Bồ-tát thứ 20, đã đề cập Oai “Âm” Vương Phật. Đó là đức Bổn sư đã kín đáo gợi ý, mật chỉ tiên đề cho thính chúng Pháp Hoa hải hội về Âm văn trong hồi ấy.

Ở phẩm 21, Như Lai thần lực, Phật mật ý chỉ bày công dụng của Âm văn tỏ rõ hơn, qua hai sự kiện: tiếng tằng hắng và tiếng khãy móng tay, vang khắp mười phương quốc độ.

Ở phẩm 24, Diệu Âm, công dụng của Âm thanh đến đây đã thành Diệu: Diệu Âm đến, có mặt, thì cõi Ta-bà rực rỡ, trang nghiêm đẹp đẽDiệu Âm về, vắng tiếng, cõi Ta-Bà trở lại trạng thái cũ, không còn trang nghiêm đẹp đẽ nữa.

Phẩm Quán Thế Âm thứ 25 nầy, Phật dạy cho chúng ta cách Giữ diệu âm ở lại, để cõi Ta-bà xinh đẹp, rạng rỡ mãi.

Quán Thế Âmdanh hiệu “Nhân cách hoá một phương pháp tu tập”.

Quán là vận dụng cái trí năng tri, soi rọi vào tâm để nhận thức đối tượng, như quán tưởng, quán niệm một đối tượng nào…

Thế có nghĩa là sự vận động tương tục không ngừng của sự vật. Ở đây nhằm chỉ bày sự tương tục của tâm tưởng chúng ta.

Âm là tiếng, Âm có âm hưởng, âm ba, âm thanh đều là đối tượng của nhĩ căn.

Quán Thế Âmquán niệm cái tiếng tâm thầm lặng mà trong như sương, trắng như tuyết, sáng chói như kim cương, nó thường xuyên liên tục không có phút giây gián đoạn ở lòng ta.

Ở đời có thứ tiếng nào thường xuyên liên tục không gián đoạn?

Tiếng của tâm ta. Tiếng lòng mầu nhiệm của ta là thứ tiếng thường xuyênliên tục không ngừng. Nó luôn luôn nói với chúng ta, nếu chúng ta để ý lắng nghe. Nó có khả năng nói ngày, nói đêm, nói ở mọi nơi chốn, chỉ trừ lúc ngũ không chiêm bao.

Nhưng làm sao biết được thứ tiếng nào là mầu nhiệm?

Thứ tiếng có khuynh hướng tiến lên giải thoát giác ngộ: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ, chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh định… được liệt vào tiếng mầu nhiệm, là diệu âm đó. Trái lại, những thứ tiếng có chất vô minh, phiền não, khổ đau như : tham, sân, si, mạn… người Phật tử phải quên, bỏ nói đi, không nên lưu lại ở ký ức mình.

Diệu Âm tức Quán Thế ÂmQuán Thế Âm tức Diệu Âm đến rồi về để cho cõi Ta-bà trở lại trạng thái cũ, không giữ được vẻ xinh đẹp, trang nghiêm nữa. Đó là Diệu âm Bồ-tát vãng lai ở phẩm trước.

Kinh nói:

“Diệu Âm, Quán Thế Âm

Phạm Âm, Hải Triều Âm

Thắng bỉ thế gian âm

Thị cố tu thường niệm…”

Nghe phẩm Quán Thế Âm, mỗi người phải đặt mình là một Vô Tận Ý Bồ-tát. Phải sử dụng ý thức sâu xa vô tận, tư duy thăm thẳm tột suốt nguồn tâm để nhận thức thâm nghĩa của kinh. Nếu sử dụng ý thức nông cạn, tư duy hời hợt, “tín ngưỡng” Quán Thế Âm như một đấng thần quyền, sẽ sa vào mê tín dị đoan, làm cho người trí khinh chê, chánh pháp từ đây mai một!

Giả sửvô lượng chúng sanh đang gánh chịu nhiều điều khổ não mà được nghe “Hạnh Quán Thế Âm”, liền quán âm thanh đó, thì họ sẽ được giải thoát những điều khổ não. Quán niệm “âm thanh” có nghĩa là tiếng của tâm mình, là Diệu Âm vậy.

Trọng tâm cứu khổ của Quán Thế Âm nhằm giải thoát sự khổ tâm, sự khổ tinh thần. Tất nhiên khi giải thoát khổ tinh thần, thì thân thể lành mạnh và mọi giá trị vật chất sẽ có ở tầm tay. Vì vật chất không ngoài tinh thần; tinh thần không ngoài vật chất. Hai thứ ấy tác động hữu cơ. Thế thì sự cứu độ, sự ban cho của Quán Thế Âmcứu độ, ban cho tinh thần, ban cho những gì thuộc lãnh vực giải thoát giác ngộ của tâm tư và ý thức. Bồ-tát sẽ không ban cho vật chất hữu vi cho chúng sanh đâu, vì làm như vậy tức là dồn đẩy chúng sanh vào con đường khổ ải triền miên không lối thoát. Mà Bồ-tát thì không thể nào làm việc ác đứctội lỗi đối với lương tâm mình.

Bởi vì:

“Đa dục vi khổ

Sanh tử bì lao

Tùng tham dục khởi 

Thiểu dục vô vi

Thân tâm tự tại…”

Kinh Bát-đại Nhơn Giác, Bồ-tát đã thuộc nằm lòng.

…” Nhơn hệ ư thê tử xã trach, thậm ư lao ngục. Lao ngục hữu tán thích chi kỳ, thê tử vô viễn ly chi niệm. Tình ái ư sắc khởi đản khu trì, tuy hữu khổ khẩu chi hoạn tâm hồn cam phục. Đầu nê tự nịch cố viết phàm phu, thấu đắc thủ môn xuất trần La-hán”.

Dính dấp vào con đường thê tử cũng như phu tử còn nguy khổ hơn bị tù. Ở tù còn có ngày mãn hạn, chứ thê tử thì không sao có được ngày tháng rảnh rang…

Kinh Tứ-thập nhị-chương, Bồ-tát cũng đã thuộc kỹ.

Nhất thiết hữu vi pháp

Như mộng, huyển , bào, ảnh

Như lộ diệc như điện

Ưng tác như thị quán…”

Kinh Kim Cương Bát Nhã, Bồ-tát Quán Thế Âm thì làm sao quên được.

Quán Thế Âm Bồ-tát còn thuộc nhiều kinh lắm, chỉ có những người trong giới: 

“Đẳng nhàn quá nhật, ngột ngột độ thời. Khả tích quang âm bất cầu thăng tiến. Đồ tiêu thập phương tín thí, diệc nải cô phụ tứ ân…”

Họ cố ý bóp méo sự thật về “Hạnh Quán Âm”. Họ tôn thờ và truyền bá Quán Thế Âm như một Bồ-tát chuyên làm công tác “từ thiện xã hội”. Rằng Quán Thế Âm Bồ-tát hứa sẽ giúp đỡ, hộ độ tất cả những gì người tín chủ muốn, miễn là “có lễ” và “thiết lễ cầu an” trước tượng Ngài, thành tâm khẩn nguyện và tụng phẩm “Phổ Môn Kinh”

Không, không thể như vậy được. Bồ-tát là bậc Đại đạo tâm, thành tựu chúng sanh. Bồ-tát là bậc hữu tình đã giác ngộ. Bồ tát là bậc giác ngộ cho chúng sanh hữu tìnhĐạo lý nhân quả Phật dạy, Bồ-tát đã thân chứng. Chánh, tà, chơn, nguỵ, chánh pháp, phi pháp, với trí tuệ "hành thâm Bát nhã Ba la mật đa” không cần suy nghĩ, Bồ-tát đã biết rõ hết rồi.

Thế mà người ta nói: Bồ-tát là đại từ đại bi, cứu khổ, cứu nạn, Ngài độ hết thảy chúng sanhđiều kiện, chỉ cần “cúng dường”, “cầu nguyện” và tha thiết “khấn vái” Ngài. Ý nghĩa nông cạn đó, việc làm không lý trí đó, đối với người trí, quả là sự bôi nhọ, sự sỉ nhục nặng nề đối với một Bồ-tát “Đẳng giác Quán Thế Âm”.

Muốn hiểu Bồ-tát Quán Thế Âm cứu khổ với hình thức nào, chúng ta phải hiểu những vấn đề được biểu trưng về khổ nạngiải thoát khổ nạn được an vui như sau:

1. VỀ MẶT MẤT MÁT VÀ KHỔ NẠN:

Nạn lửa, chỉ cho tánh “thấy biết”, vì tánh thấy biết trái ý hay sanh tánh nóng nảy như lửa. Cho nên về lửa có: Lửa giận tức. Lửa dâm dục. Lửa bất mãn, bất bình. Lửa hận náo nung đốt tâm can.

Nạn nước, chỉ cho tánh “nghe biết” , vì nếu nghe tiếng đàn giọng huyễn, dễ bị cuốn trôi, nhận chìm trong nhục dục khổ đau. Tánh luyến-ái-nặng-nề, cũng được ám chỉ một hình thức cuốn trôi, nhận chìm của nước.

Quỷ la sát, ám chỉ những kẻ độc ác, hung bạo giết người.

Dao gậy, ví cho sức tác hại của sáu căn xúc đối với sáu trần, sanh ra sự đau khổ như cắt, như đánh.

Ma quỷ, chỉ sự cám dỗ của tham, sân, si, mạn, nghi, giải-đãi, thuỳ miên, phóng dật, hôn trầm…

Gông cùm xiềng xích, biểu trưng cho sự mê mờ tốt tăm vì những thứ đó làm cho con người mất tự do tự tại, kìm hãm sức phát triển về thể xác lẫn tinh thần.

Giặc cướp, ám chỉ những hành động sai quấy tội lỗi. Do đó, mất sạch công đức lành ví như bị giặc cướp hết sạch của cải.

Nói chung, tất cả những từ có tính cách tác hại, gây đau khổ, mất mát ở phẩm Phổ Môn đều phải được hiểu là: những tác động tâm lý thuộc loại “tâm sở bất thiện”. Không được hiểu đó là sự kiện “cụ thể” ở ngoại cảnh trước mắt. Hiểu trái lại thì nó trở thành chuyện mê tín hoang đường.

2. VỀ MẶT ĐƯỢC VÀ AN VUI:

Thất bảovàng bạc , lưu ly… biểu trưng thất thánh tài: tín, giới, văn, tàm quý, niệm, định, xã.

Của báu, biểu trưng tất cả công đức lành.

Con trai, biểu trưng trí tuệgiác ngộ

Con gái, biểu trưng phước đứcgiải thoát.

Ngoài ra, tất cả những từ mang tính cách “lành mạnh” và “an vui” trong phẩm kinh nầy, phải được hiểu là: Phước đức, trí tuệ, giải thoátgiải thoát tri kiến thuộc loại “ tâm sở thiện”. Tóm lại, “tâm sở thiện hay bất thiện” cũng được hiểu đó là cách nói để biểu trưng. Vì lẽ Quán Thế Âm là pháp tu để “Nhập Phật tri kiến” chớ không phải là một thần thánh để nguyện cầu.

Phẩm Phổ Môn là phẩm thứ 25 trong 28 phẩm kinh Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa, nếu đưa vào đây một Bồ-tát chuyên làm công tác xã hội tầm thường như thế, thì quả là phỉ báng Thế Tôn lắm vậy.

Người cúng dườngthọ trì danh hiệu 62 ức hằng hà sa Bồ-tát, cốt để được định tuệ, để trở về với tâm thanh tịnh, giải thoát giác ngộ của mình. Người quán niệm tiếng lòng mầu nhiệm của mình thì người đó có định tuệ và đã sống với tâm thanh tịnh giải thoát giác ngộ. Vì vậy, thọ trì danh hiệu 62 ức hằng hà sa Bồ-tát và thọ trì một danh hiệu Quán Thế Âm thôi, hai công đức bằng nhau không khác, vì mục đích đạt đến ngang nhau.

Đáp câu hỏi của Vô Tận Ý Bồ-tát, Quán Thế Âm vân du khắp Ta-bà với hình thức nào?

Thế Âm thường trực ở trong tâm tưởng của tất cả chúng sanh trong 10 pháp giới thánh phàm. Chúng sanh nào cần cứu độ thì Thế Âm dùng thân đó mà thuyết pháp hoá độ. Vì Thế Âm là “tiếng lòng thường trực” của tất cả chúng sanh vậy.

Pháp Quán Thế Âm là thứ pháp thí cho chúng sanh vô-uý (không sợ). Vì quán niệm Thế Âm nhất tâm thanh tịnh, thì chẳng còn gì đáng sợ nữa, kể cả sự chết, hành giả cũng xem đó là việc rất bình thường. Bình thường vì đó là quy luật, là chân lý tất yếu, tự nhiên.

Giác ngộ vô thượng không có gì cao xa và bí ẩn cả.

Người giác ngộ là người hiểu rõ, nắm trọn quy luật đó, để cuộc sống khỏi bất mãn, khỏi khổ đau, mà kinh điển thường gọi là sống theo “chân lý”. Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ-tát, Phật có ông nào trường sanh bất tử đâu. Thế mà cái chết của các Ngài được gọi là “Niết Bàn” là “Thoát ly sanh tử”. Còn phàm phu chỉ là chết mà gọi là “sanh tử luân hồi”, “ưu bi khổ não”. Nguồn gốc do đâu? Do chấp cái “ Ta” và cái “của Ta”. Khởi niệm chấp là trái với chân lý, trái quy luật thiên nhiên vũ trụ. Gốc khổ phát sinh từ ý niệm chấp thủ của con người, là “vô minh nghiệp tướng”.

Quán Thế Âm là “nhân”, “bổn giác” và “thỉ giác” là “quả”. Bổn giác, thỉ giác mới là mục tiêu cứu cánh của tu pháp quán niệm Thế Âm. Vì vậy Thế Âm Bồ-tát không dám nhận “quà” của Vô Tận Ý Bồ-tát cúng dường. Sau khi nghe lời Phật khuyến khích Thế Âm mới nhận, nhưng rồi tức khắc dâng lên Đa Bảo Như Lai (bổn giác) và Thích Ca Mâu Ni (thể giác). Vì chỉ có bổn giác và thỉ giác mới là địa vị thẩm quyền tối thượng để nhận “của báu vô giá” của tấm lòng trong trắng “Vô Tận Ý” hiến dâng.

Sắp chấm dứt thời pháp về Quán Thế Âm Trì Địa Bồ-tát (tâm địa) xuất hiện tán thán biểu đồng tình. Đó là một sự kiệný nghĩa sâu xa ! Tâm và Ý cần tiếp thunhận thức một cách hổ tương và đồng bộ thì hiệu quả giác ngộ giải thoát mới cao. Rằng: Hãy vận dụng tâm và ý mà quán niệm Thế Âm. Làm được vậy là Diệu Âm sẽ ở mãi nơi lòng ta. Diệu âm không về đâu cả.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 40006)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 37191)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28227)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28830)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 27101)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 34504)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27738)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 33146)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28479)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30003)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25440)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 51176)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26626)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28546)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 24279)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27374)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31825)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30104)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27626)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35354)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27373)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 31659)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 24102)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 22942)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
(Xem: 26554)
Nếu chúng ta thẩm tra thế giới tinh thần của chúng ta, chúng ta thấy rằng có những nhân tố tinh thần đa dạng có cả những khía cạnh tích cựctiêu cực.
(Xem: 28185)
Càng trau dồi, Giác Trí càng khai mở thì Pháp Phật càng sáng tỏ hơn; giống như càng nghiên cứu học hỏi thì kiến thứctư tưởng càng phong phú và sâu sắc hơn.
(Xem: 29292)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 33179)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 21687)
Để dễ tiếp cận, chúng ta sẽ nêu câu hỏi cụ thể, rằng “Ai đã vượt qua cả thiện và ác?” và các trích dẫn nơi đây sẽ chỉ tập trung riêng vào Kinh Pháp Cú (Dhammapada).
(Xem: 20541)
Theo Trung Quán, duyên khởi không có nghĩa là nguyên lý của một tiến trình ngắn ngủi, mà là nguyên lý về sự lệ thuộc vào nhau một cách thiết yếu của các sự vật.
(Xem: 22154)
Vì sự vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, nên tâm khôngtự tính. Sáu thức hay tâm thức đã vô thường thì nó cũng không có chơn thật.
(Xem: 23894)
Nói khái quát, Phật giáo quan niệm thực tại không ngừng biến chuyểnbác bỏ khái niệm bền vững lâu dài. Tất cả là một dòng sát na sinh diệt liên tục, tất cả là lưu chú...
(Xem: 22780)
Với hy vọng và một cảm giác hạnh phúc, thân thể chúng ta cảm thấy an lạc. Vậy nên hy vọnghạnh phúc là những nhân tố tích cực cho sức khỏe của chúng ta.
(Xem: 23106)
Một quan điểm khách quan mà nói, các kinh dù nguyên thủy hay phát triển, cốt tủy Giác Ngộ được Cứu CánhGiải Thoát khỏi dòng Tâm Thức vẩn đục...
(Xem: 30319)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 21707)
Sodpa hay Nhẫn nhục ba la mật là một trong những pháp thực hành Bồ tát đạo quan trọng nhất. Có những hoàn cảnh đặc biệt bạn cần phải thực hành hạnh Sodpa.
(Xem: 19196)
Với Phật giáo, sống là sống với. Do đó, bạn bè là một thuộc tính riêng có của các loài chúng sanh nói chung và của con người nói riêng...
(Xem: 20096)
Muốn đền đáp ân đức cha mẹ là khi cha mẹ chưa có lòng chính tín thì khuyên bảo cha mẹ có lòng chính tín để có được nơi an ổn từ niềm tin đó...
(Xem: 32629)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 33940)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27694)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 23759)
Tâm kinh Bát-nhã là một bản kinh trọng yếu trong nhà Thiền, bản kinh này nói về “tánh không” của các pháp. Người tu Phật phải mở được cánh cửa trí tuệ...
(Xem: 23145)
Từ bi bác ái, tự giác giác tha. Ấy là mục đích của bậc chơn tu chánh đạo. Xưa, Phật ra đời khai môn giáo hóa, tế độ quần sanh trong bốn mươi chín năm...
(Xem: 28032)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 19155)
Ở một chừng nào đó có thể hiểu, đi theo con đường của Phật, noi theo công hạnh của Phật, để cuối cùng được kết quả như Phật… thì được xem là đang làm việc Phật.
(Xem: 24486)
Nội dung của Kinh Di Giáo là những lời dạy của đức Thế Tôn trước khi nhập diệt. Lời lẽ đã tha thiết, ý nghĩa lại sâu xathực tế.
(Xem: 21375)
Bổn phận của người Xuất Giatu đạo, truyền đạoduy trì Phật giáo, cho đến thực hiện tinh thần Bồ-tát nhập thế, còn bổn phận của người Tại Gia là ở bên ngoài hộ trì Phật giáo.
(Xem: 23732)
Diệu Pháp Liên Hoa, đề kinh được cấu tạo theo thể cách Pháp và Dụ. Diệu Pháp ám-tỷ cho cái Tri Kiến Phật nhiệm mầu vốn có của tất cả chúng sanh...
(Xem: 29315)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 30927)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25247)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 20053)
Nghiệp báo, trước tiên nhất có nghĩa là hành động. Chúng ta phân biệt một loại nghiệp báo, là bản chất tinh thần, một nhân tố tinh thần...
(Xem: 18984)
Theo lời dạy của Đức Phật, sắc sanh như là các hạt nhỏ. Các hạt nhỏ này có thể nhỏ hơn các nguyên tử. Khi quý vị thực hành thiền tứ đại một cách có hệ thống...
(Xem: 20077)
Diệu pháp đại thừa pháp Liên hoa một đóa trăng Cõi trời người cung kính Quy mạng đốn giác môn.
(Xem: 19989)
Đức Phật là vị thầy, người hướng dẫn và chỉ đạo tâm linh của chúng ta. Do thế, những hành vi thân thể, lời nóitư tưởng phải phù hợp với lời dạy của ngài.
(Xem: 19362)
Chúng ta sống trong không gian vô cùngthời gian vô tận tất phải có nhận thức về thế gian. Thế gianmột thế giới hiện tượng lưu chuyển mãi...
(Xem: 22498)
Tất cả các đệ tử đã đến đây, bởi đang tìm kiếm sự giải thoáthạnh phúc vô song tối thượng của sự toàn giác. Mọi người tập họp ở đây vì chúng sinh, vì Giáo Pháp...
(Xem: 31060)
Vâng, để Giác Ngộ, chỉ cần xoáy vào một chữ tâm đó thôi. Chỉ cần an trụ, chỉ cần hàng phục được cái tâm đó là xong! Nghĩa là trở thành một bậc Giác ngộ, ngang hàng với Phật...
(Xem: 19628)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 19641)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant