Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương bảy

09 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 9561)
Chương bảy

KINH KIM CANG CHƯ GIA

KIM CANG NGŨ THẬP TAM GIA

CHƯƠNG BẢY

39.-ÂM:

Tu Bồ Đề? Ư ý vân hà? - Như Lai đắc A nậu đa la tam miệu tam bồ đề gia? Như Lai hữu sở thuyết pháp gia? Tu Bồ Đề ngôn: "Như ngã giải Phật sở thuyết nghĩa, vô hữu định pháp, danh A nậu đa la tam miệu tam bồ đề, diệc vô hữu định pháp Như Lai khả thuyết".

NGHĨA:

Này Tu Bồ Đề? Ý ông thế nào? - Như Lai có đặng pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác chăng? Như Lai có chỗ chi thuyết pháp chăng? Tu Bồ Đề bạch Phật: "Như con rõ nghĩa của Phật nói, thì không có định chắc pháp chi kêu là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cũng không có định chắc pháp chi mà Như Lai nói".

 

Giải : Tăng Nhược Nột giải: Không sanh tỏ thấu ý Phật nên nói trong cái nghĩa thứ nhứt, không có định chắc là có pháp chi mà đặng, và có pháp chi mà thuyết.

Trần Hùng giải: Trong kinh Lăng Già luận bảy thứ "không" có , có nói. Cả thảy pháp, lìa bỏ lời nói là không; nghĩa thứ nhứt  thì bực Thánh trí mới là đại không.

Như Lai tỏ đặng lý mầu nhiệm của nhơn không vốn không pháp chi mà đặng, cũng không pháp chi mà thuyết, nên mới lập ra lời hỏi ấy.

Đạo Vô thượng Bồ đề  là nghĩa thứ nhứt tất sâu xa không thế hình trạng đặng; hoặc trì giới nhẫn nhục mà đặng; hoặc tinh tấn thiền định mà đặng; hoặc xây tháp cất chùa, hoặc xưng niệm  Nam mô  cũng đều đặng cả, đâu có phải câu nệ theo pháp chi mà nhứt định hay sao?

Như Lai thương chúng sanh chưa tỏ ngộ, chẳng nỡ làm thinh mà không dùng ngôn thuyết, hoặc vì kẻ có chí cầu Thắng pháp  mà thuyết, hoặc vì kẻ cầu  Vô thượng huệ  mà thuyết, hoặc vì kẻ cầu Thanh Văn  mà thuyết, hoặc vì kẻ cầu làm Bích Chi Phật mà thuyết, đều ứng theo cơ duyêntrả lời, tùy chỗ cầu hỏi mà đáp lại, nào có pháp chi định chắc đâu?

Phật đã tột thấu cái nghĩa biến thông không chấp không trước, còn ông Tu Bồ Đề nói hai lần "không có pháp chi định chắc" vậy không phải là rõ đặng nghĩa của Phật thuyết hay sao?

Lý Văn Hội giải: Như Lai hữu sở thuyết pháp gia: Là ý của Phật hỏi đó, là còn e cho người nói Như Lai có chỗ thuyết -  Vô hữu định phápcăn khí  có chậm mau, tài học có cao thấp, tùy cơ duyên mà lập pháp, nhận chứng bịnh mà đầu thang.

Kinh  Pháp Hoa  có nói: "Các  căn khí  có mau chậm, hoặc tinh tấn giải đãi, tùy theo tài lựcthuyết pháp, cho nên pháp không định chắc mê ngộ khác nhau. Khi chưa  tỏ ngộ  tợ hồ không chỗ đặng, đến khi  tỏ ngộ  rồi tợ hồ có chỗ đặng. Đặng cùng không đặng đều là vọng kiến, nhưng chẳng nên chấp trước mới hiệp lý trung đạo; nào phải có pháp chi định chắc mà thuyết đâu?

Xuyên Thiền sư giải: Lạnh thì nói lạnh, nóng thì nói nóng.

Tụng: 

 

Mây ở Nam san mưa Bắc san,

Giống lừa, giống ngựa kể muôn ngàn.

Kìa coi lấy nước vô tình đó,

Mấy chỗ theo vuông mấy chỗ tròn.

 

40.-ÂM:

Hà dĩ cố? - Như Lai sở thuyết pháp, giai bất khả thủ, bất khả thuyết phi pháp phi phi pháp.

NGHĨA:

Bởi cớ sao? Bởi chỗ thuyết pháp, của Như Lai, đều chẳng nên chấp, là chẳng nên nói phi pháp cùng chẳng phải phi pháp.

 

Giải : Tạ Linh Vận giải: Phi pháp  là chẳng có, phi phi pháp  là chẳng không; có không đều không, mới là đúng lý.

Vương Nhựt Hưu giải: Pháp  là vì chúng sanh mà lập ra, chớ chẳng phải là có pháp chơn thiệt, cho nên nói: "Chẳng phải pháp". Nhưng mà, cũng phải mượn pháp để khai ngộ cho chúng sanh, lại cũng không nên nói quyết là "Chẳng phải phi pháp". Cho nên nói: "Chẳng phải phi pháp".

Trần Hùng giải: Pháp của Như Lai thuyết đó, là pháp Vô thượng Bồ đề, dùng tâm tánh mà tu thì đặng, chớ không dùng sắc tướng mà lấy đặng; nếu lấy đặng thì làm sao thấu đáo đến chỗ nhiệm mầu của tánh lý? Dùng tâm truyền thì đặng, chớ dùng lời nói mà nói thì không đặng; nếu nói đặng thì làm sao mà siêu thoát cái phạm vi của ngôn ý? Cho nên ông Tu Bồ Đề mới biện luận đến hai lần "chẳng nên".

Cái pháp ấy, nhiệm mầu huyền diệu sâu xa khó hiểu, một lý cho là có, tuy có mà chẳng hề có, một lý cho là không, tuy không mà chẳng hề không. Ấy là cái ý nghĩa "phi pháp chẳng phải phi pháp". Chơn không mà chẳng không, cũng như vậy chăng?

Lý Văn Hội giải: Bất khả thủ : là ông Không Sanh rất e cho người học đạo không tỏ cái ý "vô tướng" của Như Lai. Bất khả thuyết: là rất e cho người học đạo chấp trước những câu bài của Như Lai nói. Phi: là không - Phi phi : là chẳng không.

Huỳnh Nghiệt Thiền Sư giải: Pháp vốn chẳng có, nhưng chớ cho là không, pháp vốn chẳng không, nhưng chớ cho là có. Nói không, thành ra đoạn diệt, nói có, phạm vào tà kiến.

Phó Đại Sĩ giải:

Tụng:

 

 Tu hành lìa luận thuyết, Tự thuở hẳn vô nhơn.

 Lý nhị không viên mãn, Chứng tam muội pháp thân

 Trước tâm thì phải vọng, Không chấp mới rằng chơn

 Nếu tỏ "phi phi pháp", Tiêu diêu khỏi lục trần.

 

Xuyên Thiền sư giải: Vậy là làm sao?

Tụng: 

Làm sao cũng chẳng đặng,

Chẳng sao cũng chẳng đặng.

Trống rỗng cõi hư không,

Chim bay không ảnh dạng,

Thôi!

Giong ruỗi ngựa xe lại trở về,

Đông Tây Nam Bắc dầu du ngoạn.

41.-ÂM:

Sở dĩ giả hà? - Nhứt thế Hiền Thánh giai dĩ vô vi pháp nhi hữu si biệt.

NGHĨA:

Sở dĩ sao? - Cả thảy Hiền Thánh đều dùng pháp "vô vi" mà cũng có hơn kém.

 

Giải : Sớ Sao giải: Chưa tỏ đặng  lý nhơn không; pháp không  đều gọi là  chấp trước, tỏ hai cái lý không ấy gọi là  vô vi.

Bồ Tát đều chứng đặng hai cái  lý không; Thanh Văn mới khỏi  nhơn không  chưa thông pháp không, cho nên nói: "Khỏi đặng một cái quấy" (ly nhứt phi). Viện chứng cái nghĩa ấy cho nên nói: "Mà có hơn kém".

Lục Tổ giải: Căn tánh của ba bực thừa, sự hiểu rõ chẳng đồng nhau, nghe thấy có cao thấp, cho nên nói: "hơn kém" Phật nói cái thuyết "vô vi" ấy tức là "vô trụ", vô trụ  tức là "vô tướng", vô tướng  tức là  "vô khởi", vô khởi  tức là "vô diệt", rỗng rang vắng lặng, tỏ soi đều đủ, xem xét không ngại, mới thiệt là tánh Phật giải thoát.

Phật tức là  giác, giác  tức là quán chiếu (hồi quang phản chiếu) quán chiếu  tức là  trí huệ, trí huệ  tức là Bát Nhã.

Vương Nhựt Hưu giải: Đã nói là Hiền Thánh đều dùng pháp  vô vi  mà có hơn kém là cớ sao? Là bởi pháp vô vi, hễ tỏ đặng còn thấp thì làm người Hiền, như bốn quả  Tu Đà Hoàn v.v... tỏ đặng cao thì làm bực Thánh, như Bồ Tát, Phật. Bởi vậy nên mới nói là "hơn kém" đó chăng?

Nhan Bính giải: Phật hỏi ông Tu Bồ Đề: "Như Lai đặng  Vô thượng Chánh giác  chăng! Như Lai có chỗ chi thuyết pháp chăng?".

Đáp: Như tôi rõ đặng cái nghĩa lý của Phật, đều không có pháp chi nhứt định là Vô thượng Chánh giác  và thuyết pháp cả - Bởi sao vậy? Là bởi chỗ thuyết pháp của Như Lai như người uống nước, lạnh ấm tự mình biết lấy.

Bất khả thủ, bất khả thuyết phi pháp phi phi pháp : Pháp thuộc về có, phi pháp  thuộc về không. Chấp có thì trước tướng, chấp không lại lạc vào không. Cho nên nói: "Chẳng phải pháp, chẳng phải phi pháp".

là dùng, vô vi  là tự nhiên giác tánh, không mượn ai làm nên cả thảy Hiền Thánh đều dùng phép  vô vi  ấy. Nhưng mà pháp vốn là  vô vi, bởi hiểu có cao thấp mới sanh ra hơn kém chớ đáo đầu thì cũng có một mà thôi.

Lý Văn Hội giải: Pháp tánh vô vi  vốn không có tướng nhứt định là cao thấp đặng, bằng có nhứt định hẳn không hơn kém. Hữu si biệt  là  căn khí có mau chậm, tài học có thấp cao, cho nên nói: "hơn kém". Mà đã có hơn kém thì không có tướng nhứt định.

Hải Giác Nguyện Thiền Sư 

Tụng:

Chế nhiều đồ khéo quí,

Bởi thợ hay dùng trí.

Hà tất chốn Tỳ va, ([104])

Người người rằng bất nhị. ([105])

 

 

Phó Đại Sĩ giải:

Tụng:

Pháp, nhơn đều gọi chấp, Tỏ thấu thảy vô vi.

Bồ Tát đặng tề chứng , Thanh Văn khỏi nhứt phi.

Bằng tham sân dứt hết, Thì thiệt tướng còn chi.

Quán ấy mà thường dụng, Hẳn thành Phật chẳng nghi.

 

Xuyên Thiền sư giải: Sai thù chừng một mảy, trời đất cách xa nhau.

Tụng:

 

Người chánh nói pháp tà,

Phép tà trở lại chánh.

Người tà nói pháp chánh,

Phép chánh thảy đều tà.

Quít Giang Nam chỉ miền Giang Bắc,

Bởn tớn chào xuân nẩy nở hoa.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 40014)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 37202)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28236)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28844)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 27114)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 34521)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27755)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 33186)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28499)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30012)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25448)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 51197)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26639)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28557)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 24290)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27395)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31847)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30116)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27639)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35365)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27384)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 31666)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 24114)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 22950)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
(Xem: 26561)
Nếu chúng ta thẩm tra thế giới tinh thần của chúng ta, chúng ta thấy rằng có những nhân tố tinh thần đa dạng có cả những khía cạnh tích cựctiêu cực.
(Xem: 28187)
Càng trau dồi, Giác Trí càng khai mở thì Pháp Phật càng sáng tỏ hơn; giống như càng nghiên cứu học hỏi thì kiến thứctư tưởng càng phong phú và sâu sắc hơn.
(Xem: 29301)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 33189)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 21700)
Để dễ tiếp cận, chúng ta sẽ nêu câu hỏi cụ thể, rằng “Ai đã vượt qua cả thiện và ác?” và các trích dẫn nơi đây sẽ chỉ tập trung riêng vào Kinh Pháp Cú (Dhammapada).
(Xem: 20548)
Theo Trung Quán, duyên khởi không có nghĩa là nguyên lý của một tiến trình ngắn ngủi, mà là nguyên lý về sự lệ thuộc vào nhau một cách thiết yếu của các sự vật.
(Xem: 22165)
Vì sự vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, nên tâm khôngtự tính. Sáu thức hay tâm thức đã vô thường thì nó cũng không có chơn thật.
(Xem: 23903)
Nói khái quát, Phật giáo quan niệm thực tại không ngừng biến chuyểnbác bỏ khái niệm bền vững lâu dài. Tất cả là một dòng sát na sinh diệt liên tục, tất cả là lưu chú...
(Xem: 22785)
Với hy vọng và một cảm giác hạnh phúc, thân thể chúng ta cảm thấy an lạc. Vậy nên hy vọnghạnh phúc là những nhân tố tích cực cho sức khỏe của chúng ta.
(Xem: 23117)
Một quan điểm khách quan mà nói, các kinh dù nguyên thủy hay phát triển, cốt tủy Giác Ngộ được Cứu CánhGiải Thoát khỏi dòng Tâm Thức vẩn đục...
(Xem: 30329)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 21728)
Sodpa hay Nhẫn nhục ba la mật là một trong những pháp thực hành Bồ tát đạo quan trọng nhất. Có những hoàn cảnh đặc biệt bạn cần phải thực hành hạnh Sodpa.
(Xem: 19205)
Với Phật giáo, sống là sống với. Do đó, bạn bè là một thuộc tính riêng có của các loài chúng sanh nói chung và của con người nói riêng...
(Xem: 20106)
Muốn đền đáp ân đức cha mẹ là khi cha mẹ chưa có lòng chính tín thì khuyên bảo cha mẹ có lòng chính tín để có được nơi an ổn từ niềm tin đó...
(Xem: 32636)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 33946)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27704)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 23768)
Tâm kinh Bát-nhã là một bản kinh trọng yếu trong nhà Thiền, bản kinh này nói về “tánh không” của các pháp. Người tu Phật phải mở được cánh cửa trí tuệ...
(Xem: 23147)
Từ bi bác ái, tự giác giác tha. Ấy là mục đích của bậc chơn tu chánh đạo. Xưa, Phật ra đời khai môn giáo hóa, tế độ quần sanh trong bốn mươi chín năm...
(Xem: 28075)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 19158)
Ở một chừng nào đó có thể hiểu, đi theo con đường của Phật, noi theo công hạnh của Phật, để cuối cùng được kết quả như Phật… thì được xem là đang làm việc Phật.
(Xem: 24505)
Nội dung của Kinh Di Giáo là những lời dạy của đức Thế Tôn trước khi nhập diệt. Lời lẽ đã tha thiết, ý nghĩa lại sâu xathực tế.
(Xem: 21384)
Bổn phận của người Xuất Giatu đạo, truyền đạoduy trì Phật giáo, cho đến thực hiện tinh thần Bồ-tát nhập thế, còn bổn phận của người Tại Gia là ở bên ngoài hộ trì Phật giáo.
(Xem: 23773)
Diệu Pháp Liên Hoa, đề kinh được cấu tạo theo thể cách Pháp và Dụ. Diệu Pháp ám-tỷ cho cái Tri Kiến Phật nhiệm mầu vốn có của tất cả chúng sanh...
(Xem: 29327)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 30951)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25264)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 20064)
Nghiệp báo, trước tiên nhất có nghĩa là hành động. Chúng ta phân biệt một loại nghiệp báo, là bản chất tinh thần, một nhân tố tinh thần...
(Xem: 18992)
Theo lời dạy của Đức Phật, sắc sanh như là các hạt nhỏ. Các hạt nhỏ này có thể nhỏ hơn các nguyên tử. Khi quý vị thực hành thiền tứ đại một cách có hệ thống...
(Xem: 20087)
Diệu pháp đại thừa pháp Liên hoa một đóa trăng Cõi trời người cung kính Quy mạng đốn giác môn.
(Xem: 19996)
Đức Phật là vị thầy, người hướng dẫn và chỉ đạo tâm linh của chúng ta. Do thế, những hành vi thân thể, lời nóitư tưởng phải phù hợp với lời dạy của ngài.
(Xem: 19371)
Chúng ta sống trong không gian vô cùngthời gian vô tận tất phải có nhận thức về thế gian. Thế gianmột thế giới hiện tượng lưu chuyển mãi...
(Xem: 22516)
Tất cả các đệ tử đã đến đây, bởi đang tìm kiếm sự giải thoáthạnh phúc vô song tối thượng của sự toàn giác. Mọi người tập họp ở đây vì chúng sinh, vì Giáo Pháp...
(Xem: 31073)
Vâng, để Giác Ngộ, chỉ cần xoáy vào một chữ tâm đó thôi. Chỉ cần an trụ, chỉ cần hàng phục được cái tâm đó là xong! Nghĩa là trở thành một bậc Giác ngộ, ngang hàng với Phật...
(Xem: 19640)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 19648)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant