Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phật dạy về tình bạn theo Kinh Giáo Thọ Thi Ca La Việt

22 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 19197)
Phật dạy về tình bạn theo Kinh Giáo Thọ Thi Ca La Việt

PHẬT DẠY VỀ TÌNH BẠN
THEO KINH GIÁO THỌ THI CA LA VIỆT
Chúc Phú

blankBạn bè là sự thể hiện sinh động cho mối quan hệ đặc thù giữa người với người. Mối quan hệ đó được thiết lập căn bản trên sự đồng đẳng hoặc bất đồng đẳng về giới tính, tuổi tác, chí nguyện, đam mê, sở thích,… là tiêu chí quan trọng để khẳng định nhân cách hoặc quan điểm sống của một con người.

Với Phật giáo, sống là sống với. Do đó, bạn bè là một thuộc tính riêng có của các loài chúng sanh nói chung và của con người nói riêng, và là một trong những nhân tố quan trọng, có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực lên bối cảnh sống cũng như khả năng thăng hoa tâm linh của một con người. Sống phải có bạn bè. Không có bạn bè, được xem là một trong năm điều bất hạnh đã được Đức Phật cảnh báo(1).

Phân loại đặc tính của một tình bạn tốt

Sự vận hành tất bật của dòng sống sinh động đã đưa con người đến với nhau. Có những mối gặp gỡ và liên hệ thoáng qua, có những mối gặp gỡ và liên hệ vững bền. Trong sự phong phú của các mối liên hệ và quan hệ đó, tình bạn xuất hiện. Do bởi đặc tính riêng của từng mối quan hệ và liên hệ nêu trên, tình bạn cũng được thể hiện với nhiều dạng thức phong phúsinh động.

Theo quan niệm thường tình, nếu căn cứ về phương diện hình thức thì tình bạn có thể tạm phân định ra những dạng như: bạn đường, bạn học, bạn đồng hương, bạn đồng nghiệp, bạn tri kỷ, bạn đời, bạn đạo, bạn đồng tu… Nếu xét riêng về phương diện giá trịtính chất, thì tình bạn có thể phân làm hai loại: bạn tốt và bạn xấu. Trong quan hệ bạn bè nói chung, hai tính chất này đóng vai trò quyết định cũng như xác định chiều hướng thăng hoa hay suy đọa của từng mối quan hệ.

Ở đây, mặc dù hình thứctính chất là hai yếu tố luôn hiện hữu bên nhau trong quan hệ bạn bè, tuy nhiên, hình thức là biểu hiện dễ thấy nhất. Bởi lẽ, đặc thù của điều kiện sinh hoạthoàn cảnh sống của con người đã tạo ra những hình thức bạn bè tương ứng. Do đó, để hiểu rõ thực chất về các mối quan hệ bạn bè, thì việc khảo sát về hình thứctính chất của từng mối quan hệ đó là những việc cần làm. Tuy nhiên, theo cảm quan của người viết, dù mang bất cứ hình thức nào đi chăng nữa, thì tính chất của mối quan hệ bạn bè là điều tối quan trọng, vì tính chất sẽ nói lên thực chất của mối quan hệ đó là gì. Và do vậy, bài viết chỉ tập trung khảo sát về tính chất, mà cụ thểtính chất tích cực, của các mối quan hệ bạn bè theo lời dạy của Đức Phật trong kinh điển.

Theo kinh Giáo thọ thi ca La việt - Sigalovada Sutta(2), mặc dù bạn bè có nhiều dạng thức khác nhau, nhưng thực chất bạn tốt thì không nhiều. Theo kinh văn, có bốn loại bạn tốt mà ta có thể bắt gặp trên cuộc đời, đó là:

Thứ nhất, là những người có thể che chở bản thân bạn và cả tài sản khi bạn vô ý phóng dật, là chỗ nương tựa khi bạn sợ hãi, giúp đỡ bạn thật nhiều khi bạn túng thiếu(3).

Đã là con người, ai cũng có đôi khi lâm vào tình cảnh yếu đuối, thế cô, mất kiểm soát bản thân cũng như tài sản. Cụm từ vô ý phóng dật thể hiện cho sự vô tình mất kiểm soát bản thân, trong việc sa đà vào những trò vui thông thường mà thế gian thường có. Một cuộc giao du thân hữu, một buổi liên hoan quá đà, khi tri giác bị mê mờ và thân thể oặt ẹo thì có khả năng bạn sẽ đối diện với bao nguy cơ bất an về sinh mệnh và cả tài sản. Sự hiện hữu của bạn tốt vào lúc này có thể giúp bạn vượt thoát khỏi tình cảnh nguy hiểm nêu trên.

Kế đến, sợ hãi là một thuộc tính tâm lý gắn kết với con người từ khi lọt lòng cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay. Thử hỏi, có mấy ai trên cuộc đời này không từng hơn một lần đối diện với một hoặc nhiều nỗi sợ hãi? Sợ thất nghiệp, sợ hết tiền, sợ ốm đau, sợ không đẹp, sợ già, sợ chết, sợ túng thiếu, sợ phản bội, sợ kẻ thù, sợ thiên tai…. Tuổi trẻ, trung niên và lão niên đều có những mối lo âu thường trực, gắn liền với từng chặng đường tuổi tác. Trong khi lâm vào hoàn cảnh sợ hãi đó, tâm bạn sẽ bối rối bất an và khổ đau là hệ quả kéo theo, làm khô cằn và héo úa tâm tư của bạn. Ở đây, một người bạn chân tình sẽ là chỗ dựa tin cậy, lắng nghe và sẻ chia, giúp bạn vượt qua trong từng nỗi sợ cụ thể.

Kế nữa, một người bạn tốt là người bạn có thể giúp bạn khi bạn lâm vào hoàn cảnh túng thiếu, khó khăn. Giúp một cách thật lòng và thật nhiều. Một người bạn tốt phải vượt qua quan niệm hoán đổi vật chất dung tục: bánh ít đi, bánh quy lại mà phải là cho đi không cầu mong nhận lại bao giờ. “Giúp đỡ cho bạn của cải gấp hai lần những gì bạn thiếu” đó là ý chính của nguyên ngữ kinh văn.

Thứ hai, một người bạn tốt luôn chung thủy với bạn, khi khổ cũng như khi vui, chia sẻ những điều sâu kín trong tâm tư mình và đồng thời giữ bí mật cho bạn, không bỏ bạn hoặc khinh thường khi bạn gặp khó khăn, dám hy sinh thân mạng vì bạn(4).

Tình bạn tốt là tình bạn được thử thách qua hoàn cảnhthời gian. Một tình bạn tốt là một tình bạn vẫn được giữ bền vững khi nghèo khó cũng như khi giàu sang. Trong nhân gian, hấp lực của của cải vật chất dễ làm chao đảo và thay đổi lòng người. Một tình bạn chân chính phải vượt qua sự cuốn hút đó cũng như phải tránh xa hiện thực: giàu đổi bạn mà người đời cực lực lên án. Thủy chung, như nhất với bạn, trước sao sau vậy là đức tính cần có của một tấm chân tình.

Kế đến, trải nghiệm bản thân để rút ra những tri thức quý giá là điều mà con người thường thực hiện. Do bởi việc tự thân trải nghiệm đôi khi phải trả giá bằng đau khổ của chính mình, cho nên chỉ có thể sẻ chia tri thức đó, và chỉ có thể sẻ chia những điều sâu kín trong lòng cho những ai là bạn thân.

Song song đó, giữ điều bí mật cho người cũng là đức tính mà người bạn tốt cần phải kiện toàn. Vì giữ bí mật cũng đồng nghĩa với việc bảo hộ thanh danh, tiếng tốt cho bạn. Nếu bạn gặp khó khăn, ta phải ra tay cứu giúp. Nếu bạn bị sa cơ thất thế, ta cần phải lân mẫn quan tâm, không được coi thường hay khinh rẻ bạn.

đặc biệt, một đức tính được thắp lên chất ngất sáng ngời, là dấu hiệu cao cả của một tình bạn tốt, đó là dám hy sinh thân mạng vì bạn. Ai cũng rõ, cái quý nhất trên cuộc đời là sinh mạng, là sự sống. Sự sống là giá trị duy nhất không thể có cái thứ hai. Đó cũng là điều dễ hiểu để lý giải tại sao đôi khi người ta bất chấp tất cả, miễn làm sao giữ được sinh mạng của chính mình. Dám hy sinh cái duy nhất, cái quý nhất đó là một điều mà người bạn tốt có thể thực hiện. Kiện toàn được tiêu chuẩn này, thì khoảng cách vươn tới chân lý Vô ngã không còn xa. Không những lần đầu tiên xuất hiện trong kinh Phật, đọc lại lịch sử phát triển của nhân loại, Đông cũng như Tây, ở quá khứ cũng như hiện tại, gương hy sinh vì bạn bao giờ cũng được tán thán và tôn vinh.

Thứ ba, một người bạn tốt phải biết khuyến khích bạn làm điếu tốt, ngăn chặn bạn làm điều xấu ác, chỉ bày bạn những điều bạn chưa hiểu, chia sẻ và đưa ra những lời khuyên bổ ích, hướng bạn vươn lên những cõi thiện, lành(5).

Làm người thì vẫn chưa đủ, mà phải là làm người tốt. Bạn bè cũng vậy, tình bạn tốt khác với tình bạn thông thường ở chỗ, đó là phải nỗ lực khuyên bảo bạn làm điều tốt, ngăn chặn, không cho bạn làm điều xấu, điều không hay. Có như vậy, ý nghĩa hỗ tương lẫn nhau của một tình bạn được thể hiện. Có thể, sự khuyên răn của ta đôi khi làm bạn bực dọc, chán ngán, nhưng một khi đời sống của bạn có sự chuyển hóa thật sự từ sự khuyên răn kia, tất sự hàm ơn sẽ xuất hiện trong tâm của bạn. Và như vậy, tính tương hỗ, keo sơn của bạn bè thân hữu, sẽ được thăng hoa lên cung bậc mới. Đó cũng là điều được khẳng định trong kinh Dhananjani(6): người vì bạn bè thân hữu làm các điều đúng pháp, làm các điều chơn chánh, người ấy tốt đẹp hơn. Là một người bạn tốt, thì cần phải sẻ chia cho nhau, không những phương diện vật chất mà con cả phương diện tinh thần. Ở đây, bạn tốt phải là người sẻ chia tri thức, kinh nghiệm. “Học thầy không tày học bạn”. Dân gian đã khái quát giá trị đó thành một phương châm kiện toàn kiến thức hữu hiệu cho mọi người.

Hơn thế nữa, sự gần gũi, sự thấu hiểu, sự cảm thông lẫn nhau giữa một tình bạn tốt, là điều kiện thuận lợi để có thể đưa ra những lời khuyên phù hợp và bổ íchTăng Chi(7). Ở đây, chỉ có bạn bè, thường là người đầu tiên đưa ra lời khuyên kịp thời cho bạn nhất. trong những tình huống đời thường. Một lời khuyên kịp thời và bổ ích đôi khi cứu được sinh mạng của một con người hoặc có khả năng chuyển hóa một tâm trạng bế tắc, cùng quẫn. Cũng vì vậy, giá trị của lời nói đúng lúc, đúng thời được đánh giá rất cao trong kinh

Và chuẩn mực cuối cùng, một người bạn tốt phải là người có chí nguyện hướng thượng, thanh cao và cùng đưa bạn vươn lên thực hiện chí nguyện đó. Không thân cận kẻ ngu/ Nhưng gần gũi bậc trí/ Ðảnh lễ người đáng lễ/ Là điềm lành tối thượng(8).

Thứ tư, một người bạn tốt phải là người lấy khổ đau và hạnh phúc của bạn làm khổ đau hay hạnh phúc của mình; ngăn chặn những ai nói xấu bạn và tán thán những ai ca ngợi bạn(9).

Vui với niềm vui của bạn và buồn khi bạn gặp chuyện bất an là tâm thế cần có của một người bạn tốt. Bạn vui thì mình vui là điều dễ thực hiện, nhưng khi bạn buồn đòi hỏi mình phải có một thái độ phù hợp để sẻ chia. Nguyên văn của kinh là: “Không hoan hỷ khi bạn gặp hoạn nạn; hoan hỷ khi bạn gặp may mắn”. Ở đây, ý nghĩa tích cực của cụm từ không hoan hỷ đồng nghĩa với việc ra tay tương trợ khi bạn gặp hoạn nạn. Khi hoạn nạn mới biết ai là bạn. Quan niệm phổ thông và thường tình đó của thế gian dường như là sự biến tấu nhiệm mầu về chân lý tình bạnĐức Phật đã dạy từ lâu trong kinh điển.

Một người bạn lý tưởng thì luôn sẵn sàng lăn xả khi bạn của mình gặp hiểm nguy, vì lằn ranh giữa bạn và ta vốn dĩ rất nhạt nhòa cho một tình bạn thực lòng và đúng nghĩa.

Mặt khác, khi sống trong cuộc đời, ai cũng từng đối diện với tám ngọn gió của thế gian, như: lợi danh và thất bại, tiếng xấudanh thơm, tán thánchỉ trích, hạnh phúc và khổ đau(10). Nói xấu nhau cũng như ca ngợi nhau là hai trong tám ngọn gió đời có thể làm xáo trộn và đôi khi gây ra sự biến loạn trong đời sống của một con người. Ngăn chặn ai đó nói xấu bạn cũng như tán thán ai đó khen ngợi bạn, là minh chứng sinh động của một tình bạn tốt.

Vài suy nghĩ về một tình bạn vững bền

Tìm kiếm và có được một người bạn tốt là hạnh phúc cho bất cứ ai khi sống trên cuộc đời này. Tuy nhiên, không phải ai cũng có may mắn đó. Trong trường hợp tìm mãi mà vẫn không gặp bạn hiền, thì cần phải suy ngẫm thêm từ những lời dạy của Đức Phật trong kinh Tiểu Bộ: Nếu không được bạn lành/ Thận trọng và sáng suốt/ Bạn đồng hành chung sống/ Bạn thiện trú hiền trí/ Hãy như vua từ bỏ/ Ðất nước bị bại vong/ Hãy sống riêng một mình/ Như tê ngưu một sừng(11). Sống một mình tuy cũng buồn và bất tiện về nhiều mặt, nhưng thực ra vẫn còn tốt hơn khi sống chung với người không tốt. Mặt khác, sống riêng một mình vẫn là một cơ hội để bạn trải nghiệm cảm giác tự chủtự do như con tê ngưu một sừng, tự tại bình yên giữa chốn rừng xanh.

Kế đến, tìm bạn để chơi vốn là điều khó và càng khó hơn để nhận ra đâu là người bạn tốt để đặt niềm tin tưởng, sẻ chia. Để thiết lập một tình bạn đúng nghĩa và chân thành, chúng ta đừng để cái vỏ hào nhoáng của hình thức bề ngoài chi phối. Vì lẽ, vẻ bề ngoài chưa thể phản ánh đúng giá trị đích thực của một con người. Không phải do sắc tướng/ Biết rõ được con người/ Không phải nhìn thoáng qua/ Ðặt được lòng tin cậy/(12). Từ việc biết bạn, hiểu bạn đến tin bạn là cả một quá trình dài. Trong quan hệ bạn bè, niềm tin là một yếu tố quan trọng, bởi lẽ niềm tin là một trong những cơ sở của đạo đức. Xã hộiniềm tinxã hộiđạo đức, bạn bè có niềm tin thì tình bạn mới vững bền. Tuy nhiên, niềm tin muốn đặt đúng chỗ, đúng người, là điều cần phải cân nhắc, cần phải có sự thẩm sát của lý trí, trí tuệ. Hiểu bạn để rồi tin bạn, là một trong những yêu cầu bắt buộc để có được một tình bạn vững bền. Vì lẽ, khi chơi với bạn nhưng không hiểu bạn thì tình bạn đó có nguy cơ tan rã rất cao.

Thứ ba là sự tương ưng, mà nghĩa gần nhất là giống nhau, cùng chung nhau, tương tự như nhau. Ở đây, nghĩa rộng nhất liên hệ đến thuật ngữ Phật học gọi là đồng sự13, giữ một vai trò quan trọng cho một tình bạn vững bền. Tiêu chuẩn tương ưng đặt ra ở đây là tương ưng về nhận thức, tương ưng về đạo đức, tương ưng về nghiệp lựctương ưng trong việc phóng xả, vị tha(14).

Trước hết, sự tương đồng về nhận thức, về tri thức, về kiến giải là cửa ngõ để tạo nên một sự thấu hiểu, cảm thông giữa hai người. Nhận thức, tri thức ở đây không hẳn là sự thông minh, sáng tạo mang tính trường lớp. Nhận thức, tri thức ở đây cần được hiểu như là sự hiểu biết nhất định, có thể do học tập, có thể do tự rèn luyện về một hoặc nhiều lãnh vực nào đó của đời sống. Không tương đồng về nhận thức, tri thức là mấu chốt tạo ra mọi sự khập khiễng ở tất cả các mối quan hệ.

Bên cạnh sự thấu hiểu, cảm thông, một người bạn hiền cần phảiđức hạnh tốt. Đức hạnh là sự tự chế ngự, tự kiểm soát bản thân mình, tuân hành những nguyên tắc sống đem đến sự an lạc cho mình cũng như cho người. Đức hạnh được ví như tài sản riêng có của một con người mà không có thể quy đổi và tạo ra một sắc thái, hấp lực riêng trong mắt của bạn bè.

Sự tương ưng tiếp theo là sự tương ưng về hành nghiệp. Những người có cùng sở thích, cùng đam mê, cùng xu hướng dễ gần gũi nhau hơn. Đây là một trong những yếu tố đáng lưu tâm để xây dựng một tình bạn tốt đẹpbền vững.

cuối cùng, đức tính hào phóng, hỷ xả, vị tha là một trong những tố chất để xây dựng một tình bạn tốt đẹp. Sẽ rất bất hạnh cho một tình bạn nếu như người kia chỉ biết có bạn và có mình. Sống phóng xả, vị tha là chất liệu cần có của một tình bạn đẹp. Vì lẽ, tính phóng xạ, vị tha còn được xem là một trong liên hệ gần với bốn đức tính tối quan trọng mà Phật giáo gọi là Bốn tâm vô lượng.

Lưu ý cuối cùng, lựa bạn mà chơiquan niệm thường tình trong nhân gian. Quan niệm đó thật đúng khi được soi rọi bằng ánh sáng tuệ giác từ kinh điển: Người gần kẻ hạ liệt/ Rồi cũng bị hạ liệt/ Thân cận người đồng đẳng/ Ðược khỏi bị thối đọa/ Ai gần bậc thù thắng/ Mau chóng được thăng tiến/ Do vậy hãy sống chung/ Bậc ưu thắng hơn mình15. Có một lưu ý nhỏ từ đoạn kinh văn trên. Vì trong khi thiết lập quan hệ bạn bè, nếu như ai cũng chọn đối tượng hơn mình về tất cả các mặt, thì thử hỏi người ưu việt kia, làm sao có thể bằng lòng chọn một người thấp hơn mình để mà chơi được? Vả lại, với người thấp kém kia, mãi mãi không có khả năng vươn lên vì không ai dám kết bạn cùng họ? Cần phải thấy rằng, bạn bè là sự tổng hòa đồng điệu của những yếu tố ngang bằng nhau, giống nhau và bình đẳng như nhau về một hoặc nhiều phương diện. Nếu quá cách biệt nhau thì chưa thể gọi là quan hệ bạn bè mà có thể rơi vào những dạng quan hệ khác, đan xen nhau trong cuộc sống này. Chính vì vậy mà ta có thể thấy người hạ liệt vẫn có bạn hạ liệt và kẻ thanh cao vẫn có bạn thanh cao. Ở đây, tính tối ưu tối thắng của người cần được hiểu rằng: tuy đồng chất, đồng hàng với nhau, nhưng trong mỗi con người, ai cũng có những giá trị tích cực riêng có. Thấy được điều ưu thắng đó từ bạn bè và nỗ lực học tập, là tâm thế tích cực của một tình bạn tốt. Nói rõ hơn, bạn bè ai cũng có những điều hay, là bạn tốt, cần phải học những điều hay từ bạn bè để tự mình hoàn thiện.

Cuộc đời có bao nhiêu mối quan hệ thì có bấy nhiêu dạng bạn bè. Mặc dù trong mỗi mối quan hệ bạn bè hiện hữu nhiều tính chất khác nhau. Thế nhưng hai tính chất căn bảnthen chốt, có mặt hầu hết trong các mối quan hệ bạn bè, đó là bạn tốt và bạn xấu. Bạn xấu thì phong phú đa dạng và hầu như khó có thể liệt kê ra hết. Bạn tốt thì ít và khó phát hiện.

Trong thời đại ngày nay, khi những giá trị đạo đức căn bản của đời sống con người đang rung lên những hồi chuông báo động, thì những chất liệu biểu trưng cho một tình bạn tốt, được thể hiện trong kinh Giáo thọ thi ca la việtchúng ta vừa khảo sát ở trên, vẫn mang tính thời sự hơn bao giờ hết. Thực tế đó, một lần nữa xác tín rằng, những chân lý trong giáo pháp của Đức Phật, dù liên hệ đời thường, nhưng tất cả đều chiếu sáng rực rỡ khi được khám phá ra(16). 

 

(1) Kinh Tăng Chi, chương Năm pháp, phẩm Du hành dài, kinh Du hành dài: Có năm điều nguy hại, này các Tỷ-kheo, cho người sống du hành dài, du hành không có mục đích. Thế nào là năm? Không nghe điều chưa được nghe; không làm cho thanh tịnh điều đã được nghe; có sợ hãi một phần điều đã được nghe; cảm xúc bệnh hoạn trầm trọng; không có bạn bè.

(2)  Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, kinh Trường Bộ, tập 2, Kinh giáo thọ thi ca la việt. Nxb. TP. HCM, 1991, tr 539

(3) Kinh Trường Bộ, Sđd, đoạn 22

(4) Kinh Trường Bộ, Sđd, đoạn 23

(5) Kinh Trường Bộ, Sđd, đoạn 24

(6) Kinh Trung Bộ, tập 2, kinh số 97, kinh Dhananjani.

(7) Kinh Tăng Chi, chương Năm pháp, phẩm Hiềm hận: “Tôi sẽ nói đúng thời, không phải phi thời”; “Tôi sẽ nói chơn thật, không phải phi chơn thật”; “Tôi sẽ nói nhu hòa, không phải thô bạo”; “Tôi sẽ nói lời liên hệ đến lợi ích, không phải lời không liên hệ đến lợi ích”; “Tôi sẽ nói với từ tâm, không phải với sân tâm”.

(8) Kinh Tiểu Bộ, kinh Tập, kinh Điềm lành lớn (kinh Đại hạnh phúc - Maha Mangala Sutta)

(9) Kinh Trường Bộ, Sđd, đoạn 25.

(10) Kinh Tăng Chi, chương Tám pháp, kinh Tùy chuyển thế giới. Nguyên văn: Lợi dưỡng và không lợi dưỡng, danh vọng và không danh vọng, tán thánchỉ trích, lạc và khổ.

(11) Kinh Tiểu Bộ, kinh Tập, phẩm Rắn, kinh Con tê ngưu một sừng.

(12) Kinh Tương Ưng, tập 1, Thiên có kệ, chương Ba, Tương ưng Kosala, phẩm thứ hai, Bện tóc

(13) Kinh Tăng Chi, chương Bốn pháp, phẩm Bánh xe, kinh Nhiếp pháp.

(14) Xem thêm, kinh Tăng Chi, chương Bốn pháp, phẩm Nguồn sanh phước, kinh Xứng đôi. Nguyên văn: cả hai người là đồng tín, đồng giới, đồng thí, đồng trí tuệ.

(15) Kinh Tăng Chi, chương Ba pháp, phẩm Người, kinh Cần phải thân cận.

(16) Xem thêm, kinh Tăng Chi, chương Ba pháp, phẩm Kusinara, kinh Che giấu.

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10287)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12176)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15287)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16580)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12198)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11459)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14258)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 24580)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10674)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
(Xem: 12474)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10344)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12322)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11622)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 12026)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 12992)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11431)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 17428)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21363)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10666)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19215)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12395)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26009)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 14354)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 13716)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16821)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17550)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13109)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12510)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11600)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11583)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 20437)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18961)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19530)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18617)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14993)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15024)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13975)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15505)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 14541)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 15829)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12863)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18407)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15759)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 11057)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53622)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 12966)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16519)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15390)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 19921)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15547)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15340)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15140)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 10372)
Với Phật giáo, toàn bộ nội dung tư tưởng Phật dạy là lấy con người làm gốc, gắn bó mật thiết với đời sống nhân quần xã hội...
(Xem: 20323)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 15483)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 13021)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 20090)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13268)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 29014)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11691)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant