Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Suy Ngẫm Nhỏ Từ Một Bài Tựa Kinh Lăng Già

13 Tháng Ba 201512:50(Xem: 10838)
Suy Ngẫm Nhỏ Từ Một Bài Tựa Kinh Lăng Già

SUY NGẪM NHỎ TỪ MỘT BÀI TỰA KINH LĂNG GIÀ

Huỳnh Ngọc Chiến


Kinh Lăng GiàTôi đọc lời tựa Lăng Già của Tô Đông Pha nhiều lần và không lần nào lại không thấy kính phục tầm nhìn thăm thẳm xuyên suốt đến cả ngàn năm sau của thiên tài Tô Thức. Cặp mắt đó đúng là “cặp mắt trong nghìn xưa”, như lời tán thán của Lâm Tây Trọng đối với ông trong phần bình về thiên Liệt ngữ Khấu của Nam hoa kinh.

Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả, xem nhưtâm ấn của chư Phật. Điều này đã được ghi chép trong kinh điển, dù có nhiều nhà nghiên cứu nghi ngờ tính xác thực của nó. Song một điều không ai phủ nhận rằng Thiền chỉ trở nên cực thịnh khi kinh Lăng Già được thay bởi kinh Kim Cương, và điều này được đánh dấu bằng sự kiện Lục tổ Huệ Năng, khi còn là người đốn củi, nhờ nghe câu "Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” mà phát minh tâm địa.

Từ sau thời Lục tổ, ngọn Thiền phong đã vươn lên đỉnh cao chót vót trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc với những gương mặt chói lọi của chư Tổ như Mã Tổ, Bách Trượng, Lâm Tế, Triệu Châu, Vân Môn… Nhưng cũng như mọi trào lưu theo lẽ sinh trụ dị diệt, sau một thời gian cực thịnh "Bách hoa nộ phóng, bách điểu tề minh” vào đời Đường, Thiền tông dần dần bị suy vibiến tướng vào thời mạt pháp. Ngay từ thời Tống, trong lời tựa cho kinh Lăng Gia ấn bản Kim sơn thường trụ, nhà thơ Tô Đông Pha đã nói lên thực trạng đau xót của kinh điển Phật giáoThiền tông. Bài tựa rất ngắn nhưng cực kỳ hàm súc, mà gần một ngàn năm sau, mỗi khi đọc lại, chúng ta không khỏi thán phục cho đôi mắt quán tuyệt thiên thu của ông.

Trước 1975, ở miền Nam, từ ảnh hưởng của bộ Thiền luận của Suzuki, phong trào nghiên cứu Thiền rộ lên ở miền Nam trong giới trí thức. Đi đâu cũng nghe đến Thiền, đến Zen, đi đâu cũng nghe đến Suzuki, đến Krishnamurti. Không ít người đua nhau tìm đến với Thiền bằng thái độ tìm đến với tác phẩm tiểu thuyết của Quỳnh Dao, xem như món "thời trang trí thức” cần phải có. Và có một dạo trong khoảng hai thập niên gần đây, các từ "vô sở đắc”, vô ngôn”, "vô thường”, "vô tâm”, "vô sở trụ”… với nội hàm ngôn ngữ cực kỳ vi diệu cũng đôi khi bị lạm dụng thành những thuật ngữ dễ dãi được sử dụng khắp nơi.

Tình cảnh trên không khác gì hiện tượng vào thời Tống, mà nhà thơ Tô Thức đã nói đến trong bài tựa kinh Lăng Gia:

"Gần đây, các học giả người nào cũng tôn sùng riêng thầy mình, nhằm điều giản tiện. Hễ được một câu kinh một bài kệ, đã tự cho là liễu chứng. Cho đến hạng đàn bà con nít cũng vỗ tay mà cười nói, đua nhau luận đàm thiền duyệt. Kẻ cao thì vì danh, kẻ thấp thì vì lợi. Cái dư ba mạt lưu đó, không nơi nào là không chảy tới, mà Phật pháp vẫn còn ẩn khuất vậy”. (Cận tuế học giả các tông kỳ sư, vụ tòng giản tiện, đắc nhất cú nhất kệ, tự vị tử chứng. Chí sử phụ nhân nhụ tử đề chưởng hy tiếu, tranh đàm thiền duyệt, cao giả vị danh, hạ giả vị lợi. Dư ba mạt lưu, vô sở bất chí, nhi Phật pháp vi hỷ!).

Đoạn văn trong bài tựa trên đã điểm đúng tâm bệnh trầm kha của không ít người tìm đến Thiền tôngPhật giáo vào thời đạo pháp suy vi. Theo thiển ý của tôi, tinh hoa Phật pháp - yếu tố quyết định sự tồn vong của Phật giáo vốn đã tỏa sáng từ gốc cây Bồ Đề cách đây hơn hai ngàn năm và tỏa rợp những chân trời tư tưởng của nhân loại - không bao giờ nằm trong các phong trào nghiên cứu rầm rộ mang tính văn hóa đại chúng, hoặc bởi số lượng sách vở in ấn hay số lượng đông đảo của tín đồ đến chùa, mà nằm ở chỗ: phần tinh yếu trong diệu nghĩa của chư Phật có được lĩnh hội hay không và được lĩnh hội đến mức độ nào, hay đó chỉ là những lời bàn bạc luận giải suông, như học phong mang tính từ chương phù phiếm của Trung Quốc vào thời tổ Đạt Ma qua Đông độ?

Bất cứ luận điểm triết học hay tư tưởng nào, khi được trình bày bằng ngôn ngữ, cũng đều hàm ẩn nguy cơ biến thành con dao hai lưỡi. Một khi được sử dụng bởi những kẻ sơ cơ, thì nó dễ trở thành vũ khí nguy hiểm và gây hại trở lại cho kẻ lập ngôn. Đạo Chích trong Nam hoa kinh đã từng dùng các khái niệm Nhân- Nghĩa của Khổng Tử để đả phá Khổng Tửbiện hộ cho hành vi cướp bóc của mình. Nhân- Nghĩa trong tay của Khổng Tử là Thiên kiếm, nhưng khi rơi vào tay của Đạo Chích, thì chúng lập tức biến thành Tuyệt đao. Tư tưởng của Nietzsche cũng bị sử dụng để biện minh cho phong trào diệt chủng của Phát xít Đức. Cõi đời này đâu thiếu những người suốt đời không đọc nổi những kháng thư Đại thừa thâm áo, song lại lên giọng cao đạo, dựa vào tông chỉ "bất lập văn tự" của Thiền tông để bài xích việc đọc kinh sách. Đó là bi kịch và hiểm họa của sự lập ngôn. Như vậy thì ta không lạ gì khi từ một tông phái đã hàm dưỡng tâm linh của dân tộc với đỉnh cao vòi vọi về mặt tâm linh trong các thời Lý Trần, có nhiều giai đoạn Thiền lại phải đối mặt với nguy cơ trở thành quái Thiền, loạn Thiền bởi những người chưa một lần trải nghiệm với kinh điển, ngoài những kiến thức góp nhặt đó đây theo lối “Đạo thính đồ thuyết”, mà đức Khổng Tử đã phê phán là hạng "Đức chi khí dã”!

Phật pháp tuy mênh mông vi diệu nhưng chỉ độ cho những người có duyên. Cây Thiền tông chỉ có thể bén rễ vào những mảnh đất đã có sự chuẩn bị sẵn sàng và đầy đủ về mặt tâm linh. Hạt mầm mà Sơ tổ Đạt Ma đem từ quê hương của chư Phật đến gieo xuống miền Đông độ cũng chỉ thực sự lớn mạnh để trở thành đại thụ kể từ sau thời Lục tổ. Kinh nghiệm tâm linh được đổi bằng cánh tay của Nhị tổ Huệ Khả trong một đêm tuyết lạnh trên đỉnh Tung Sơn, hoặc bằng những khắc khoải trằn trọc thậm chí bằng cả mạng sống của chư Tổ đâu phải là thứ mà ai ai cũng được phép luận bàn bằng thái độ dễ dãi và hời hợt?

Tôi đọc lời tựa Lăng Già của Tô Đông Pha nhiều lần và không lần nào lại không thấy kính phục tầm nhìn thăm thẳm xuyên suốt đến cả ngàn năm sau của thiên tài Tô Thức. Cặp mắt đó đúng là "cặp mắt trong nghìn xưa”, như lời tán thán của Lâm Tây Trọng đối với ông trong phần bình về thiên Liệt ngữ Khấu của Nam hoa kinh(1). Ý nghĩa lời tựa của Tô Đông Pha đối với kinh Lăng Già giống như ý nghĩa lời tựa của chủ nhân Mộng liên đường đối với Truyện Kiều. Nếu trước khi đọc Truyện Kiều, ta cần phải đọc bài tựa của Phạm Quý Thích, thì trước khi đọc kinh Lăng Già hay tìm hiểu Thiền tông, ta cần phải nghiền ngẫm lời tựa của Tô Đông Pha.

Bàn về Truyện Kiều, chủ nhân Mộng liên đường nói:

"Ta nhân lúc đọc hết cả một lượt, mới lấy làm lạ rằng: Tố Như tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu không phải có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời thì tài nào có cái bút lực ấy”. (Trần Trọng Kim dịch).

Còn Tô Đông Pha nói về kinh Lăng Gia:

"Kinh Lăng già ý nghĩa sâu xa u áo, văn tự súc tíchcổ kính. Người đọc khó lòng chấm câu cho đúng, còn nói gì đến chuyện bỏ văn để được nghĩa, quên nghĩa để ngộ tâm ru?” (Lăng Già nghĩa triếp u diễu, văn tự giản cổ. Độc giả hoặc bất năng cú, nhi huống di văn dĩ đắc nghĩa, vong nghĩa dĩ liễu tâm giả hồ?).

Giữa hai lời tựa nghe như bàng bạc một mối hòa thanh tương ứng. Nếu lời tựa của Phạm Quý Thích là cánh cửa dẫn vào phương trời u áo của thơ ca Nguyễn Du, thì lời tựa của Tô Đông Pha là cánh cửa dẫn vào cảnh giới huyền ẩn của tư tưởng Phật môn. Tôi xin dịch toàn bộ lời tựa của Tô Đông Pha viết cho kinh Lăng Gia để bạn đọc có thêm tư liệu tham khảo, như là hành trang cần thiết để đi vào cõi “Nhất thiết Phật ngữ tâm”.

***

Lời tựa kinh Lăng Già A Bạt Đa La Bảo Kinh
Tô Thức

Kinh Lăng Già A Bạt Đa La Bảo kinh là sở thuyết của chư Phật đời trước, vi diệu đệ nhất, chân thật liễu nghĩa. Cho nên mới gọi là Phật ngữ tâm phẩm. Tổ sư Đạt Ma trao cho Nhị Tổ, nói: “Ta thấy trong tất cả kinh sách ở miền Chấn Đán(2), chỉ có kinh Lăng Già bốn quyển này có thể dùng để ấn tâm, tổ tổ tương truyền, lấy làm tâm pháp”.

Như cuốn Nạn kinh của nghề thuốc, mỗi câu đều là lý, mỗi chữ đều là pháp. Bậc đạt đạo đời sau đều cho là thần diệusoi sáng đạo lý, như mâm tròn chứa hạt châu, như hạt châu chạy quanh trong mâm tròn, chẳng có gì là không trọn vẹn. Còn như có người đưa ra ý mới, cho rằng nền cựu học là đồ vô dụng đáng bỏ đi, nếu đó không phải là hạng ngu xuẩn vô trí thì là kẻ cuồng vọng vậy. Gần đây, các học giả người nào cũng tôn sùng riêng thầy mình, nhằm điều giản tiện. Hễ được một câu kinh một bài kệ, đã tự cho là liễu chứng. Cho đến hạng đàn bà con nít cũng vỗ tay mà cười nói, đua nhau luận đàm thiền duyệt. Kẻ cao thì vì danh, kẻ thấp thì vì lợi. Cái dư ba mạt lưu đó, không nơi nào là không chảy tới, mà Phật pháp vẫn còn ẩn khuất vậy. Cũng như thầy thuốc trong thôn xóm, chẳng theo kinh luận, cứ cho thẳng các bài thuốc để chữa bệnh, cũng có khi đúng bệnh. Chứ đến lúc gặp cơn bệnh ngặt nghèo, sống chết lửng lơ thì làm sao có thể bàn luận cùng các bậc hiểu kinh học cổ cho được? Thế nhân chỉ thấy họ có một điểm thành công bèn cho là họ giỏi hơn cổ nhân, nhân đó nói rằng không cần học Nạn kinh cũng được, há chẳng sai lầm lắm ru?

Kinh Lăng Già ý nghĩa sâu xa u áo, văn tự súc tíchcổ kính. Người đọc khó lòng chấm câu cho đúng, còn nói gì đến chuyện bỏ văn để được nghĩa, quên nghĩa để ngộ tâm ru? Vì thế cho nên mới vắng lặng trên cõi đời, hầu như bỏ phế mà rất ít khi nghe đến.

Thái tử Thái Bảo là Lạc Toàn tiên sinh Trương Đạo An, dùng quảng đại tâm mà được thanh tĩnh giác. Năm Khánh Lịch, ông thường đến Từ Châu, tới một Tăng xá, tình cờ thấy được kinh này, cầm vào tay mà trong lòng hoảng hốt như tìm lại được vật xưa. Trang kinh chưa lật mà túc chướng đều tan. Xem kỹ nét chữ, bút tích hãy còn như mới, bao nhiêu vui buồn đều dứt bặt. Nhân đó mà được ngộ nhập, thường lấy bốn bài kệ ở đầu kinh để phát minh điều tâm yếu.

Thức chơi ở cửa nhà ông được ba mươi năm. Tháng hai năm nay đi qua Nam Đô, gặp ông ở nhà riêng. Lúc đó ông đã bảy mươi chín tuổi, bao huyễn diệt đều dứt tận, huệ quang hồn nhiên sáng rỡ, mà Thức cũng đã trải qua ưu tư hoạn nạn quá nhiều, trăm ý nghĩ đã thành tro nguội, ông cho là có thể dạy được, nên trao cho kinh này. Ông lại đem tiền ba ngàn vạn lượng cho in kinh này để phố biến khắp vùng Giang, Hoài. Kim Sơn trưởng lãoPhật Ấn đại sư Liễu Nguyên nói rằng: “In kinh cho lưu hành cũng có lúc hết, viết để khắc thì vô tận”. Thức bèn viết lại, Liễu Nguyên đại sư sai thị giả là Hiểu Cơ đến vùng Tiền Đường tìm thợ giỏi để khắc bản in, lấy đó làm bản Kim Sơn thường trụ.

Nguyên Phong thứ tám (tức năm 1085, H.N.C), ngày mồng chín tháng chín.

***

Mọi kiến giảiluận bàn về Phật pháp đều phù phiếm nếu như nó không dựa trên sự thực chứng. Điều đó thường xuyên được nhắc nhở trong kinh điển, đặc biệtThiền tông với chủ trương: "Giáo ngoại biệt truyền”. Qua lời tựa của Tô Đông Pha, chúng ta hãy tự hỏi tại sao một thiên tài với trí tuệ siêu việt như Tô Đông Pha mà phải ba chìm bảy nổi trên đường công danh, phải kinh lịch hết cuộc bể dâu, phải "trải qua ưu tư hoạn nạn quá nhiều, trăm ý nghĩ đã thành tro nguội” (lão ư ưu hoạn, bách niệm khôi lãnh) mới tạm đủ điều kiện để Lạc Toàn tiên sinh dạy cho về kinh Lăng Già sau ba thập kỷ giao du? Thái độ của cổ nhân đối với Chánh pháp thật đáng là lời cảnh tỉnh để những kẻ hậu học chúng ta phải suy ngẫm, để tìm đến kinh điển Phật giáo hay bàn đến Thiền bằng tất cả sự cẩn trọng của một người đi trên băng mỏng.

Sài Gòn 11-2008

Huỳnh Ngọc Chiến

(1) Xem Nam hoa kinh, bản dịch của Nhượng Tống, NXB Tân Việt, 1962, tr.496.(2) Ngày trước, người Ấn Độ gọi Trung QuốcChấn Đán.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2251)
“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.
(Xem: 33133)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6561)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(Xem: 6522)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 3866)
Tạo sao gọi là Phổ Môn? vì tự tính của mình phổ biến khắp hư không pháp giới, nên gọi Phổ Môn.
(Xem: 5126)
“Quán” là xem xét, “Thế Âm” là âm thanh của thế gian. Quán Thế Âmxem xét âm thanh thế gian, tiêu biểu cho lòng từ bi của Bồ-tát.
(Xem: 11245)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30387)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 7963)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12161)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 3282)
Một bài pháp được ban cho chư Tăng Ni ở International Mahayana Institute tại Boudhanath, Nepal, ngày 2 tháng 2, năm 1975. Nicholas Ribush hiệu đính.
(Xem: 34713)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 52236)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 13059)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 21810)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9597)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 3093)
"Niệm Phật" nghĩa là xưng danh hiệu - hay nhớ tưởng đến hình tướng, bản nguyện hay công đức của một đức Phật - như Phật Thích-ca hay Phật A-di-đà.
(Xem: 10371)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12718)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12761)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16209)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 13788)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14305)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9178)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11730)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11250)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 11496)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 12610)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 20676)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 17632)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 31847)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12007)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11796)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 4324)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, Luận Tập Bộ Toàn; Kinh văn số 1678. Pháp Hiền dịch ra chữ Hán. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12740)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10313)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 16399)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 11745)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14773)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12002)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16793)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 12711)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 52055)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 12630)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 9905)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 14470)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20104)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13754)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15376)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17475)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 16782)
Nhập Trung Quán Luận (PDF) - Tổ Sư Nguyệt Xứng - Chuyển dịch: Thích Hạnh Tấn, TN Nhật Hạnh
(Xem: 13469)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 12459)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12048)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13269)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12517)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 25540)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 14518)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 28287)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 10285)
"Tánh Không" (còn gọi là tính-không) là một từ ngữ liên hệ đến sự giảng dạy chính yếu của mọi ngành Phật giáo, nhưng ý nghĩa thật sự của từ ngữ nầy thường bị hiểu lầm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant