Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Suy Ngẫm Nhỏ Từ Một Bài Tựa Kinh Lăng Già

13 Tháng Ba 201512:50(Xem: 10854)
Suy Ngẫm Nhỏ Từ Một Bài Tựa Kinh Lăng Già

SUY NGẪM NHỎ TỪ MỘT BÀI TỰA KINH LĂNG GIÀ

Huỳnh Ngọc Chiến


Kinh Lăng GiàTôi đọc lời tựa Lăng Già của Tô Đông Pha nhiều lần và không lần nào lại không thấy kính phục tầm nhìn thăm thẳm xuyên suốt đến cả ngàn năm sau của thiên tài Tô Thức. Cặp mắt đó đúng là “cặp mắt trong nghìn xưa”, như lời tán thán của Lâm Tây Trọng đối với ông trong phần bình về thiên Liệt ngữ Khấu của Nam hoa kinh.

Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả, xem nhưtâm ấn của chư Phật. Điều này đã được ghi chép trong kinh điển, dù có nhiều nhà nghiên cứu nghi ngờ tính xác thực của nó. Song một điều không ai phủ nhận rằng Thiền chỉ trở nên cực thịnh khi kinh Lăng Già được thay bởi kinh Kim Cương, và điều này được đánh dấu bằng sự kiện Lục tổ Huệ Năng, khi còn là người đốn củi, nhờ nghe câu "Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” mà phát minh tâm địa.

Từ sau thời Lục tổ, ngọn Thiền phong đã vươn lên đỉnh cao chót vót trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc với những gương mặt chói lọi của chư Tổ như Mã Tổ, Bách Trượng, Lâm Tế, Triệu Châu, Vân Môn… Nhưng cũng như mọi trào lưu theo lẽ sinh trụ dị diệt, sau một thời gian cực thịnh "Bách hoa nộ phóng, bách điểu tề minh” vào đời Đường, Thiền tông dần dần bị suy vibiến tướng vào thời mạt pháp. Ngay từ thời Tống, trong lời tựa cho kinh Lăng Gia ấn bản Kim sơn thường trụ, nhà thơ Tô Đông Pha đã nói lên thực trạng đau xót của kinh điển Phật giáoThiền tông. Bài tựa rất ngắn nhưng cực kỳ hàm súc, mà gần một ngàn năm sau, mỗi khi đọc lại, chúng ta không khỏi thán phục cho đôi mắt quán tuyệt thiên thu của ông.

Trước 1975, ở miền Nam, từ ảnh hưởng của bộ Thiền luận của Suzuki, phong trào nghiên cứu Thiền rộ lên ở miền Nam trong giới trí thức. Đi đâu cũng nghe đến Thiền, đến Zen, đi đâu cũng nghe đến Suzuki, đến Krishnamurti. Không ít người đua nhau tìm đến với Thiền bằng thái độ tìm đến với tác phẩm tiểu thuyết của Quỳnh Dao, xem như món "thời trang trí thức” cần phải có. Và có một dạo trong khoảng hai thập niên gần đây, các từ "vô sở đắc”, vô ngôn”, "vô thường”, "vô tâm”, "vô sở trụ”… với nội hàm ngôn ngữ cực kỳ vi diệu cũng đôi khi bị lạm dụng thành những thuật ngữ dễ dãi được sử dụng khắp nơi.

Tình cảnh trên không khác gì hiện tượng vào thời Tống, mà nhà thơ Tô Thức đã nói đến trong bài tựa kinh Lăng Gia:

"Gần đây, các học giả người nào cũng tôn sùng riêng thầy mình, nhằm điều giản tiện. Hễ được một câu kinh một bài kệ, đã tự cho là liễu chứng. Cho đến hạng đàn bà con nít cũng vỗ tay mà cười nói, đua nhau luận đàm thiền duyệt. Kẻ cao thì vì danh, kẻ thấp thì vì lợi. Cái dư ba mạt lưu đó, không nơi nào là không chảy tới, mà Phật pháp vẫn còn ẩn khuất vậy”. (Cận tuế học giả các tông kỳ sư, vụ tòng giản tiện, đắc nhất cú nhất kệ, tự vị tử chứng. Chí sử phụ nhân nhụ tử đề chưởng hy tiếu, tranh đàm thiền duyệt, cao giả vị danh, hạ giả vị lợi. Dư ba mạt lưu, vô sở bất chí, nhi Phật pháp vi hỷ!).

Đoạn văn trong bài tựa trên đã điểm đúng tâm bệnh trầm kha của không ít người tìm đến Thiền tôngPhật giáo vào thời đạo pháp suy vi. Theo thiển ý của tôi, tinh hoa Phật pháp - yếu tố quyết định sự tồn vong của Phật giáo vốn đã tỏa sáng từ gốc cây Bồ Đề cách đây hơn hai ngàn năm và tỏa rợp những chân trời tư tưởng của nhân loại - không bao giờ nằm trong các phong trào nghiên cứu rầm rộ mang tính văn hóa đại chúng, hoặc bởi số lượng sách vở in ấn hay số lượng đông đảo của tín đồ đến chùa, mà nằm ở chỗ: phần tinh yếu trong diệu nghĩa của chư Phật có được lĩnh hội hay không và được lĩnh hội đến mức độ nào, hay đó chỉ là những lời bàn bạc luận giải suông, như học phong mang tính từ chương phù phiếm của Trung Quốc vào thời tổ Đạt Ma qua Đông độ?

Bất cứ luận điểm triết học hay tư tưởng nào, khi được trình bày bằng ngôn ngữ, cũng đều hàm ẩn nguy cơ biến thành con dao hai lưỡi. Một khi được sử dụng bởi những kẻ sơ cơ, thì nó dễ trở thành vũ khí nguy hiểm và gây hại trở lại cho kẻ lập ngôn. Đạo Chích trong Nam hoa kinh đã từng dùng các khái niệm Nhân- Nghĩa của Khổng Tử để đả phá Khổng Tửbiện hộ cho hành vi cướp bóc của mình. Nhân- Nghĩa trong tay của Khổng Tử là Thiên kiếm, nhưng khi rơi vào tay của Đạo Chích, thì chúng lập tức biến thành Tuyệt đao. Tư tưởng của Nietzsche cũng bị sử dụng để biện minh cho phong trào diệt chủng của Phát xít Đức. Cõi đời này đâu thiếu những người suốt đời không đọc nổi những kháng thư Đại thừa thâm áo, song lại lên giọng cao đạo, dựa vào tông chỉ "bất lập văn tự" của Thiền tông để bài xích việc đọc kinh sách. Đó là bi kịch và hiểm họa của sự lập ngôn. Như vậy thì ta không lạ gì khi từ một tông phái đã hàm dưỡng tâm linh của dân tộc với đỉnh cao vòi vọi về mặt tâm linh trong các thời Lý Trần, có nhiều giai đoạn Thiền lại phải đối mặt với nguy cơ trở thành quái Thiền, loạn Thiền bởi những người chưa một lần trải nghiệm với kinh điển, ngoài những kiến thức góp nhặt đó đây theo lối “Đạo thính đồ thuyết”, mà đức Khổng Tử đã phê phán là hạng "Đức chi khí dã”!

Phật pháp tuy mênh mông vi diệu nhưng chỉ độ cho những người có duyên. Cây Thiền tông chỉ có thể bén rễ vào những mảnh đất đã có sự chuẩn bị sẵn sàng và đầy đủ về mặt tâm linh. Hạt mầm mà Sơ tổ Đạt Ma đem từ quê hương của chư Phật đến gieo xuống miền Đông độ cũng chỉ thực sự lớn mạnh để trở thành đại thụ kể từ sau thời Lục tổ. Kinh nghiệm tâm linh được đổi bằng cánh tay của Nhị tổ Huệ Khả trong một đêm tuyết lạnh trên đỉnh Tung Sơn, hoặc bằng những khắc khoải trằn trọc thậm chí bằng cả mạng sống của chư Tổ đâu phải là thứ mà ai ai cũng được phép luận bàn bằng thái độ dễ dãi và hời hợt?

Tôi đọc lời tựa Lăng Già của Tô Đông Pha nhiều lần và không lần nào lại không thấy kính phục tầm nhìn thăm thẳm xuyên suốt đến cả ngàn năm sau của thiên tài Tô Thức. Cặp mắt đó đúng là "cặp mắt trong nghìn xưa”, như lời tán thán của Lâm Tây Trọng đối với ông trong phần bình về thiên Liệt ngữ Khấu của Nam hoa kinh(1). Ý nghĩa lời tựa của Tô Đông Pha đối với kinh Lăng Già giống như ý nghĩa lời tựa của chủ nhân Mộng liên đường đối với Truyện Kiều. Nếu trước khi đọc Truyện Kiều, ta cần phải đọc bài tựa của Phạm Quý Thích, thì trước khi đọc kinh Lăng Già hay tìm hiểu Thiền tông, ta cần phải nghiền ngẫm lời tựa của Tô Đông Pha.

Bàn về Truyện Kiều, chủ nhân Mộng liên đường nói:

"Ta nhân lúc đọc hết cả một lượt, mới lấy làm lạ rằng: Tố Như tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu không phải có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời thì tài nào có cái bút lực ấy”. (Trần Trọng Kim dịch).

Còn Tô Đông Pha nói về kinh Lăng Gia:

"Kinh Lăng già ý nghĩa sâu xa u áo, văn tự súc tíchcổ kính. Người đọc khó lòng chấm câu cho đúng, còn nói gì đến chuyện bỏ văn để được nghĩa, quên nghĩa để ngộ tâm ru?” (Lăng Già nghĩa triếp u diễu, văn tự giản cổ. Độc giả hoặc bất năng cú, nhi huống di văn dĩ đắc nghĩa, vong nghĩa dĩ liễu tâm giả hồ?).

Giữa hai lời tựa nghe như bàng bạc một mối hòa thanh tương ứng. Nếu lời tựa của Phạm Quý Thích là cánh cửa dẫn vào phương trời u áo của thơ ca Nguyễn Du, thì lời tựa của Tô Đông Pha là cánh cửa dẫn vào cảnh giới huyền ẩn của tư tưởng Phật môn. Tôi xin dịch toàn bộ lời tựa của Tô Đông Pha viết cho kinh Lăng Gia để bạn đọc có thêm tư liệu tham khảo, như là hành trang cần thiết để đi vào cõi “Nhất thiết Phật ngữ tâm”.

***

Lời tựa kinh Lăng Già A Bạt Đa La Bảo Kinh
Tô Thức

Kinh Lăng Già A Bạt Đa La Bảo kinh là sở thuyết của chư Phật đời trước, vi diệu đệ nhất, chân thật liễu nghĩa. Cho nên mới gọi là Phật ngữ tâm phẩm. Tổ sư Đạt Ma trao cho Nhị Tổ, nói: “Ta thấy trong tất cả kinh sách ở miền Chấn Đán(2), chỉ có kinh Lăng Già bốn quyển này có thể dùng để ấn tâm, tổ tổ tương truyền, lấy làm tâm pháp”.

Như cuốn Nạn kinh của nghề thuốc, mỗi câu đều là lý, mỗi chữ đều là pháp. Bậc đạt đạo đời sau đều cho là thần diệusoi sáng đạo lý, như mâm tròn chứa hạt châu, như hạt châu chạy quanh trong mâm tròn, chẳng có gì là không trọn vẹn. Còn như có người đưa ra ý mới, cho rằng nền cựu học là đồ vô dụng đáng bỏ đi, nếu đó không phải là hạng ngu xuẩn vô trí thì là kẻ cuồng vọng vậy. Gần đây, các học giả người nào cũng tôn sùng riêng thầy mình, nhằm điều giản tiện. Hễ được một câu kinh một bài kệ, đã tự cho là liễu chứng. Cho đến hạng đàn bà con nít cũng vỗ tay mà cười nói, đua nhau luận đàm thiền duyệt. Kẻ cao thì vì danh, kẻ thấp thì vì lợi. Cái dư ba mạt lưu đó, không nơi nào là không chảy tới, mà Phật pháp vẫn còn ẩn khuất vậy. Cũng như thầy thuốc trong thôn xóm, chẳng theo kinh luận, cứ cho thẳng các bài thuốc để chữa bệnh, cũng có khi đúng bệnh. Chứ đến lúc gặp cơn bệnh ngặt nghèo, sống chết lửng lơ thì làm sao có thể bàn luận cùng các bậc hiểu kinh học cổ cho được? Thế nhân chỉ thấy họ có một điểm thành công bèn cho là họ giỏi hơn cổ nhân, nhân đó nói rằng không cần học Nạn kinh cũng được, há chẳng sai lầm lắm ru?

Kinh Lăng Già ý nghĩa sâu xa u áo, văn tự súc tíchcổ kính. Người đọc khó lòng chấm câu cho đúng, còn nói gì đến chuyện bỏ văn để được nghĩa, quên nghĩa để ngộ tâm ru? Vì thế cho nên mới vắng lặng trên cõi đời, hầu như bỏ phế mà rất ít khi nghe đến.

Thái tử Thái Bảo là Lạc Toàn tiên sinh Trương Đạo An, dùng quảng đại tâm mà được thanh tĩnh giác. Năm Khánh Lịch, ông thường đến Từ Châu, tới một Tăng xá, tình cờ thấy được kinh này, cầm vào tay mà trong lòng hoảng hốt như tìm lại được vật xưa. Trang kinh chưa lật mà túc chướng đều tan. Xem kỹ nét chữ, bút tích hãy còn như mới, bao nhiêu vui buồn đều dứt bặt. Nhân đó mà được ngộ nhập, thường lấy bốn bài kệ ở đầu kinh để phát minh điều tâm yếu.

Thức chơi ở cửa nhà ông được ba mươi năm. Tháng hai năm nay đi qua Nam Đô, gặp ông ở nhà riêng. Lúc đó ông đã bảy mươi chín tuổi, bao huyễn diệt đều dứt tận, huệ quang hồn nhiên sáng rỡ, mà Thức cũng đã trải qua ưu tư hoạn nạn quá nhiều, trăm ý nghĩ đã thành tro nguội, ông cho là có thể dạy được, nên trao cho kinh này. Ông lại đem tiền ba ngàn vạn lượng cho in kinh này để phố biến khắp vùng Giang, Hoài. Kim Sơn trưởng lãoPhật Ấn đại sư Liễu Nguyên nói rằng: “In kinh cho lưu hành cũng có lúc hết, viết để khắc thì vô tận”. Thức bèn viết lại, Liễu Nguyên đại sư sai thị giả là Hiểu Cơ đến vùng Tiền Đường tìm thợ giỏi để khắc bản in, lấy đó làm bản Kim Sơn thường trụ.

Nguyên Phong thứ tám (tức năm 1085, H.N.C), ngày mồng chín tháng chín.

***

Mọi kiến giảiluận bàn về Phật pháp đều phù phiếm nếu như nó không dựa trên sự thực chứng. Điều đó thường xuyên được nhắc nhở trong kinh điển, đặc biệtThiền tông với chủ trương: "Giáo ngoại biệt truyền”. Qua lời tựa của Tô Đông Pha, chúng ta hãy tự hỏi tại sao một thiên tài với trí tuệ siêu việt như Tô Đông Pha mà phải ba chìm bảy nổi trên đường công danh, phải kinh lịch hết cuộc bể dâu, phải "trải qua ưu tư hoạn nạn quá nhiều, trăm ý nghĩ đã thành tro nguội” (lão ư ưu hoạn, bách niệm khôi lãnh) mới tạm đủ điều kiện để Lạc Toàn tiên sinh dạy cho về kinh Lăng Già sau ba thập kỷ giao du? Thái độ của cổ nhân đối với Chánh pháp thật đáng là lời cảnh tỉnh để những kẻ hậu học chúng ta phải suy ngẫm, để tìm đến kinh điển Phật giáo hay bàn đến Thiền bằng tất cả sự cẩn trọng của một người đi trên băng mỏng.

Sài Gòn 11-2008

Huỳnh Ngọc Chiến

(1) Xem Nam hoa kinh, bản dịch của Nhượng Tống, NXB Tân Việt, 1962, tr.496.(2) Ngày trước, người Ấn Độ gọi Trung QuốcChấn Đán.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8292)
Đạo Phật trên ý nghĩa thiết yếu là “biện chứng giải thoát” hay là con đường gỉai thoát. Gỉai thoát khỏi khổ đau, sinh tử luân hồi.
(Xem: 7576)
Lâu nay mình đã sống trọn vẹn hết thời giờ chưa? Mình có để lãng phí thời giờ hay không? Và bằng cách nào để chúng ta sống một cách có ý nghĩa?
(Xem: 8603)
Hai chữ “Sinh Tử” đã khiến cho biết bao nhiêu người bất kể trí ngu giàu nghèo từ xưa đến nay đều phải lưu ý tới và khổ tâm vì nó.
(Xem: 7140)
Những gì có mang một tính chất riêng (svalakṣaṇa) đều được gọi là pháp (dharma): “svalakṣaṇadhāraṇād dharmaḥ”[1], tức do duy trì yếu tính của tự thân nên nó được gọi là Pháp.
(Xem: 8414)
Đối với Phật giáo mỗi người làm chủ lấy vận mạng của chính mình. Mỗi chúng ta đều mang trong mình một tiềm năng ngang nhau...
(Xem: 7702)
Đạt được cơ sở con người, cơ sở đó giống như một cái bình thật quý và hiếm hoi, giúp ta có thể giải thoát tất cả kẻ khác và cho cả chính ta
(Xem: 7003)
Như Lai hay Như Khứ là dịch nghĩa của từ Sanskrit: Tathāgata, được ghép từ hai yếu tố là tathā và Agata hoặc tathā và gata.
(Xem: 8221)
TA THƯỜNG NGHE NÓI rằng thật khó tìm được một thân người. Không phải là bất kỳ thân người nào mà là một thân người “quý báu” có nối kết với Giáo pháp – đó chính là điều khó đạt được.
(Xem: 9236)
Đọc tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung, người ta thường thấy câu thành ngữ “Buông đao đồ tể, lập tức thành Phật”.
(Xem: 7932)
Thuật từ Uẩn 蘊, ngữ nguyên Sanskrit là skandha, Pāli là khandha, Hán phiên âm, Tắc-kiện-đà 塞健陀, dịch là tích tụ, loại biệt, tức là năm loại khác nhau về các pháp hữu vi.
(Xem: 8421)
“Bạn có nghĩ rằng hôm nay chỉ là một ngày nữa của đời mình chăng? Thật ra hôm nay không phải chỉ là ‘một ngày nữa’ thôi, mà nó là một ngày được riêng dâng tặng cho bạn.
(Xem: 8059)
Phật dạy chúng ta hãy đem chánh niệm vào tất cả những việc mình làm trong đời sống hằng ngày. Ngài không bỏ ra ngoài bất cứ một việc làm nhỏ nhặt nào hết...
(Xem: 9612)
Những lời khuyên thiết thực, thâm sâutrong sáng của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma, chỉ cho ta cách tu tập giúp biến cải tâm linh ta, biến ta thành một con người cao cả hơn...
(Xem: 6777)
Trong cuộc sống, chúng ta thường dùng lời nói để trao đổi thông tin, để diễn đạt ý tưởng hoặc để bày tỏ, biểu lộ tâm tư tình cảm của mình…
(Xem: 6809)
Đức Phậtlòng từ bi mà thương xót chúng sinh, nên đã chỉ ra nỗi khổ, niềm đau, chỉ dạy phương pháp dứt khổ, để chúng ta cùng được sống trong bình yên, hạnh phúc.
(Xem: 7027)
Hộ trì các căn (Indriyesu guttadvàro) hay phòng hộ các giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) là một trong các biện pháp tu tập căn bản của đạo Phật.
(Xem: 6664)
Tăng quan luận (僧官論) là một trong những bộ luận do ngài Thích Ngạn Tông (557-610)1 trước tác, nhằm thuyết minh và lý giải các chức vụ do chư Tăng đảm nhiệm (廣明僧職)
(Xem: 7209)
Chưa có tài liệu nào về niên đại của đức Phật lịch sử, vị sáng lập đạo Phật, được truyền thừa nhất quán trong các tông phái chính của Phật giáo cũng như được các học giả cùng công nhận.
(Xem: 6848)
Kinh Hoa Nghiêm, như các kinh điển Đại thừa, lấy tánh Không làm nền tảng. Tánh Không trong kinh này là Pháp thân của Phật bổn nguyên Tỳ-lô-giá-na, và toàn thể vũ trụhiện thân của Ngài.
(Xem: 16243)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
(Xem: 7541)
Con đường Bồ tátcon đường lý tưởng nổi tiếng của Phật giáo Đại thừa – không phải là pháp tu để thành thánh, thành tiên, mà là một lối sống ai cũng có thể ước mong thành tựu được.
(Xem: 6483)
Sau kiến đạo, các pháp hữu lậu không thuộc kiến sở đoạn (darśana-prahātavya). Tức các pháp hữu lậu còn lại, trừ kiến chấp ô nhiễm khởi lên do tà phân biệt.
(Xem: 6959)
Đa số người xưng là Phật tử mà không biết rõ đường lối tu hành, ai bày sao làm vậy, trở thành mê tín sai lầm, khiến người đời phê bình đạo Phật là huyền hoặc, là vô ích.
(Xem: 7283)
Tánh "không" (S. 'Suunyataa, P. Su~n~nataa) là một trong các học thuyết quan trọng bậc nhất của Phật giáo và cũng là học thuyết bị người khác đạo hiểu sai lầm nhiều nhất.
(Xem: 6367)
Tánh Khôngbản tánh của tất cả mọi sự vật, mọi hiện tượng, mọi hành động của thân khẩu ý, nên ở đâu trong không gian nào thời gian nào chúng ta cũng có thể nhận ra nó...
(Xem: 6724)
Nói đến Bát-nhã (Trí huệ), các luận thường phân làm ba: Bát-nhã văn tự, Bát-nhã quán chiếu, và Bát-nhã thật tướng.
(Xem: 5579)
Người Phật tử chân chính chớ nên dòm ngó lỗi người, chúng ta chỉ nên nhìn lại hành động của mình, xem đã làm được điều gì tốt đẹp hay chưa.
(Xem: 8904)
"Vậy nên này Ananda, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình (atta-dipà viharatha), hãy tự mình y tựa chính mình (attàsaranà) chớ y tựa một cái gì khác.
(Xem: 7394)
Tổ Quy Sơn dạy: "Nếu mình chưa là bậc thượng lưu, vượt thẳng lên thềm vô thượng giác thì hãy để tâm vào giáo pháp, ôn tầm kinh điển, rút ra nghĩa lý tinh hoa, truyền bá tuyên dương tiếp dẫn hậu lai, trả ơn đức Phật".
(Xem: 22298)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 7791)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 6855)
Bài Pháp này nhắc nhở các bạn về một số điều Phật dạy, như một cách để sách tấn, khuyến khích các bạn chăm chỉ thực hành đúng theo lời Phật dạy.
(Xem: 15034)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 8615)
Sự hình thành và phát triển tâm lý học Phật giáo là một quá trình vừa diễn dịch vừa xây dựng kéo dài suốt hàng thế kỷ trong lịch sử truyền thừa Phật giáo kể từ thời Đức Phật.
(Xem: 13090)
Giáo lý Duyên khởi (Cái này sinh, nên cái kia sinh, cái này diệt nên cái kia diệt) là nguyên tắc chung giải thích về sự hình thành hay hủy diệt của các pháp.
(Xem: 18962)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 6005)
Phật Thích Ca sau 49 năm thuyết pháp cũng bảo những lời ta nói là thuyết lại lời cổ Phật. Khổng Tử thì nhắn nhủ hậu thế: ông chỉ truyền lời Thánh hiền không thêm bớt không sáng tạo...
(Xem: 6239)
Ở đời cái gì cũng vậy, không phải ngẫu nhiên có được, mà đòi hỏi mỗi con người chúng ta phải tự nỗ lực, tự tầm cầu, tự suy tư để tìm đến con đường giải thoát cho tự thân và tha nhân.
(Xem: 6999)
Chân lý tương đối là những sự thật còn nằm trong đối đãi đối trị nhau. Những sự đối đãi ấy là...
(Xem: 7310)
Sanh tử sự đại là một đề mục lớn của Thiền Tông, và sanh tử luân hồi là một chủ đề phổ thông của Phật Giáo. Nói đến sanh tử luân hồi thì người Phật tử nào cũng nghĩ đến việc thoát ly sanh tử luân hồi.
(Xem: 8368)
Nghiệp báo đóng một vai trò rất quan trọng trong giáo lý nhà Phật.
(Xem: 5671)
Người ta thường tìm đủ mọi cách để gán một nhãn hiệu nào đó lên các lời giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 5872)
Đã lâu, đa số thanh niên quan niệm giải thoát của đạo Phật là siêu hình huyền hoặc đâu đâu, để dành riêng cho những người chán thực tại cầu vào chốn hư vô tịch diệt.
(Xem: 5513)
Sự hiện hữu của mỗi chúng ta hiện giờ và ở đây là do, từ, bởi, nhiều nguyên nhânđiều kiện.
(Xem: 6501)
Đồng Mông Chỉ Quán là một trước tác rất hàm xúc và có hệ thống, nếu hành giả cố gắng thực hành theo "Pháp yếu tọa Thiền tu tập Chỉ Quán" này chắc chắn sẽ đạt được kết quả lớn lao.
(Xem: 5921)
Đạo Phật chủ trương giác ngộ mang ánh sáng trí tuệ soi rọi cho thế gian. Mọi lẽ thật đều hiện bày dưới ánh sáng giác ngộ,
(Xem: 7507)
Mọi chúng sinh dù là người hay là thú , dù giầu hay nghèo, già hay trẻ, không ai là có thể tồn tại lâu dài mãi mãi trong một tình trạng , mọi thứ đều sẽ phải thay đổi và xa rời đi.
(Xem: 5806)
Bốn dấu ấn tiếng Phạn gọi là caturlaksana, tiếng Pa-li là caturlakkhana, hoặc còn gọi là Dharma mudra.
(Xem: 6724)
Đại thừa (Mahāyāna) phát triển một nhận thức mới về bản chất lịch sử của Đức Phật Śākyamuni.
(Xem: 6788)
Khi chúng ta tự gọi mình là những Phật tử, có nghĩa là chúng ta là những người đi theo Phật.
(Xem: 5725)
Phật Giáo là một tôn giáo xây dựng trên trí thông minh, khoa học và sự hiểu biết. Mục đích của tôn giáo ấy là để giúp loại trừ khổ đau và các nguyên nhân mang lại khổ đau.
(Xem: 6226)
Chúng ta học Phật, Phật dạy chúng ta hồi đầu, quy y tự tính giác. Tự tính giác tức là Phật tính. Phát Bồ đề tâm, tu Bồ Tát hạnh...
(Xem: 5511)
Phật pháp là những điều đức Phật chứng kiến được sau khi giác ngộ, đem chỗ chứng kiến ấy nói lại để cho mọi người hiểu biết để dứt sạch mê lầmgiác ngộ
(Xem: 7136)
Ý niệm về nghiệp hữu lý trên nhiều phương diện, nhưng một số người đã hiểu lầm về nghiệp.
(Xem: 6099)
Khả năng thích ứng tuyệt vời của Phật giáo đã giúp Phật giáo hội nhập với các nền văn hoá khác.
(Xem: 7922)
Bụt là thầy chỉ đạo Bậc tỉnh thức vẹn toàn Tướng tốt đoan trang Trí và bi viên mãn.
(Xem: 6086)
Người có tuệ giác biết nhìn thẳng vào sự thậtchấp nhận sự thật ấy dù đau thương rồi nỗ lực chuyển hóa, thăng hoa.
(Xem: 7113)
Đạo Phậtđạo từ bi và hành động thiết thực của nó mang đến sự an vui, bình yên cho tất cả chúng sinh.
(Xem: 6958)
Ai có thể hàng phục được mười tám giới: sáu căn, sáu trần, và sáu thức, khiến chúng đừng tạo phản thì người đó chính là Bồ Tát.
(Xem: 7015)
Trong Phật giáo, các từ ngữ "cầu nguyện," "cầu xin" hay "ước nguyện" được hiểu đồng nghĩa với thuật ngữ "pràrthanà" (Sanskrit) hay "patthanà" (Pali).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant