Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Hoa Nghiêm Kinh Thám Huyền Ký Quyển 5 Phẩm Xiii: Công Đức Của Bồ-tát Sơ Phát Tâm

19 Tháng Ba 201510:57(Xem: 10128)
Hoa Nghiêm Kinh Thám Huyền Ký Quyển 5 Phẩm Xiii: Công Đức Của Bồ-tát Sơ Phát Tâm
Hoa Nghiêm Kinh Thám Huyền Ký Quyển 5 Phẩm Xiii:
Công Đức Của Bồ-tát Sơ Phát Tâm

Chân Hiền Tâm



Hoa Nghiêm Kinh Thám Huyền Ký QuyểnCũng có 4 môn phân biệt như trên.

I. GIẢI THÍCH ĐỀ TỰA

Bản giác nội huân đại tâm mới khởi, nên nói PHÁT TÂM. Hạnh thành vị lập, gọi là BỒ-TÁT. Công trải qua các kiếp lâu xa, đức nhiều như cát bụi, nên nói CÔNG ĐỨC. Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa, nên nói BỒ-TÁT, là để phân biệt với chung tâm nên nói SƠ PHÁT. Đây nói về công đứcsơ tâm có được không phải nói về tướng phát tâm, nên lấy đó đặt tên.

II. DỤNG Ý : Có ba.

1. Phẩm Thập trụPhạm hạnh trên nói về cái thể của hạnh vị, còn đây hiển thắng đức của nó nên có phẩm này.

2. Phẩm trước, cuối sơ phát tâm liền thành chánh giác, chưa biết tâm này có công đức gì mà lại có thể như thế. Dụng ý của phẩm này là để giải thích nghĩa đó.

3. Hai phẩm trước thì dùng pháp y nơi căn khí mà thuyết, khiến hạnh vị có phần hạn. Đây thì dùng căn khí y nơi pháp mà hiển đức lượng không có giới hạn. Cho nên, hai phẩm trước thông cả hai giáo đồng và biệt, còn phẩm này chỉ nói về biệt giáoNhất thừa huyền diệu. Trong phần kệ sau, dùng ngôn từ hoa mỹ tán thán nên có phẩm này.

III. TÔNG THÚ : Nói ‘Sơ phát tâm nhiếp Phổ Hiền đức đầy đủ nhân, quả, phần lượng, pháp giới v.v…’ là tông của phẩm này.

IV. GIẢI THÍCH VĂN KINH : Phẩm này phân làm 4 phần : 1/Thỉnh phần. 2/Thuyết phần. 3/Chứng phần. 4/Tụng phần. Có hai : Trước, là trường hàng, phân ra mà nói. Sau, là dùng kệ tụng tổng nhiếp lại.

TRƯỜNG HÀNG

Phân làm hai : Trước là thế giới này. Sau là kết thông mười phương.

I. TẠI THẾ GIỚI NÀY. Có hai : Trước là chánh thuyết. Sau là chứng thành.

1. Chánh thuyết : Có hai : Trước hỏi, sau trả lời. Trong phần trả lời có ba :

1/ Tổng tán thán thâm pháp khiến sinh sự mong muốn.

2/ Nêu lượng so sánh, hiển sự thù thắng để sinh tịnh tín.

3/ Ngay nơi tướng nói về chỗ thâm sâu khiến sinh sự hiểu biết chân chánh.

1. Trong phần hỏi : Thiên Đế Thích hỏi là vì ở Thiên giới, hiển công đức tự tại. Pháp Tuệ thuyết là vì tuệ tương ưng với pháp mới tận cùng bờ công đức.

2. Trong phần thuyết : Có hai : Trước, tán thán thâm pháp khiến sinh tín tâm. Sau, chánh thuyết khiến sinh sự hiểu biết. Cũng có thể giải thích : Trước, là khởi sự mong muốn. Sau, là truyền trao pháp lý. Trước, là hiển cái thể thậm thâm. Sau, nói về cái dụng quảng đại. Trước, hiển nghĩa rất sâu. Sau, hiển giáo rất rộng.

1. Tán thán thâm pháp : Đoạn “Chỗ này thậm thâm ... khó phân biệt”.

Có 7 nghĩa : Nghĩa đầu là tổng. Sáu nghĩa sau thuộc biệt.

Thậm thâm : Vì 6 biệt nghĩa nói sau.

Khó biết : Tự mình chẳng thể biết.

Khó tin : Người nghe chẳng tin.

Khó hiểu : Tư duy thì chẳng hiểu.

Khó nói : Nói rõ thì chẳng thể nói.

Khó thông : Tu tuệ chẳng thể thông.

Khó phân biệt : Trí báo sinh không thể phân biệt.

Cũng có thể giải thích : Giáo lượng thì khó biết. Nghĩa sâu thì khó tin. Tư duy thì khó hiểu. Ứng với giáo thì khó nói. Muốn chứng thì khó thông. Số tột cùng nên khó phân biệt.

2. Nêu lượng so sánh hiển sự thù thắng : Có 11 đoạn.

ĐOẠN 1 : Lấy việc so lượng lợi vật làm ví dụ.

ĐOẠN 2 : Lấy việc so lượng vượt qua các quốc độ làm ví dụ.

ĐOẠN 3 : Lấy số kiếp thành hoại làm ví dụ.

ĐOẠN 4 : Lấy việc khéo biết dục lạc làm ví dụ.

ĐOẠN 5 : Lấy việc khéo biết các căn làm ví dụ.

ĐOẠN 6 : Lấy việc khéo biết hy vọng làm ví dụ.

ĐOẠN 7 : Lấy việc khéo biết phương tiện làm ví dụ.

ĐOẠN 8 : Lấy việc khéo biết tâm y của người làm ví dụ.

ĐOẠN 9 : Lấy việc khéo biết nghiệp tướng làm ví dụ.

ĐOẠN 10 : Lấy việc khéo biết phiền não làm ví dụ.

ĐOẠN 11 : Lấy công đức cúng Phật làm ví dụ.

Trong luận, nhiếp lại thành sáu : Đoạn 4, 5,6,7, 8 thành một. Đoạn 9 và 10 thành một. Nên chỉ còn sáu.

Giải thích thì có 3 môn : 1/Đối với 6 thứ thậm thâm nói trên. 2/Ứng vào tương tự tâm bồ-đề của Bồ-tát. 3/Ứng vào trị 6 chướng.

ĐOẠN 1 : Lấy lượng so lường lợi vật làm ví dụ.

Có hai : Trước là so để hiển cái hơn. Sau, giải thích vì sao hơn.

1. So để hiển tướng hơn : Có 10 lớp phân làm hai : Đầu là biệt thuyết, sau là thông thuyết. Trong phần biệt thuyết có bốn :

1. Nêu sự rộng lớn : Có 4 thứ rộng lớn :

. Chỗ cúng dường rộng lớn. Đó là a-tăng-kỳ chúng sinh v.v…

. Sự cúng dường rộng lớn. Đó là tất cả vật ưa thích.

. Thời cúng dường rộng lớn. Đó là một kiếp v.v…

. Lợi ích rộng lớn. Đó là khiến tu Ngũ giới v.v…

2/ Hỏi.

3/ Trả lời hiển sự rộng lớn.

4/ Nói việc vượt hơn.

9 đoạn sau cũng có bốn phần như thế. Phần đầu nêu 9 sự của 9 đoạn đó, cũng có đủ cả 4 sự rộng lớn như thế. Chỉ có phần tăng nhiều v.v… là khác.

2. Giải thích hiển tướng hơn : Có hai :

1. Hỏi vặn : Vì sao?. Có hai ý :

. Trước đã nói công đức rất nhiều, sao so với đây lại không đồng, nên giải thích rằng: Vì “Công đức của Bồ tát sơ phát tâm không vì giới hạn” nên chẳng thể so sánh.

. Bồ-tát sơ phát tâm có thắng đức gì mà vượt hơn các vị trước? Giải thích rằng: “Vì không muốn đoạn Phật chủng v.v… cho nên vượt hơn các vị trước.

2. Giải thích thành : Đoạn “Vì khi Phật mới phát tâm”. Có hai :

. “Vì khi Phật … ở đời”, là nói không vì các sự có giới hạnphát tâm. Hiển 4 việc rộng lớn trước không phải là rộng lớn.

. “Vì muốn Phật chủngphát tâm bồ-đề”, là nói vì các sự không có giới hạnphát tâm. Cho nên, nói công đức phát tâm hơn hẳn các công đức kia.

Phần này có 12 câu :

Muốn Phật chủng không đoạn : Câu này là tổng, là nói địa vị vượt hơn. Vì tâm bồ-đề là Phật chủng Bồ-tát hằng khởi, nên nói không đoạn. Lại, Bồ-tát giáo hóa chúng sinh lập trong chủng Như Lai, chẳng khiến họ giữ tiểu quả, nên cũng nói không đoạn. Chẳng đồng với Ngũ giới nói trên.

11 câu sau là biệt.

Đầy khắp tất cả mười phương giới … là nói tâm vượt hơn. Y theo kệ sau thì nên nói vì muốn “Tâm đại từ đại bi. Đầy khắp mười phương giới”. Lật lại mười a-tăng-kỳ thế giới trước.

Độ thoát tất cả chúng sinh là hạnh vượt hơn. Lật lại cái hạn cuộc trước nên nói tất cả.

Biết tất cả thành hoại của thế giới là biết tướng thành hoại của khí thế giới vượt hơn, cũng là biết xứ giáo hóa, vì biết thành hoại sai biệt. Cũng là biết thành tức là hoại v.v… Đây là Nhất thiết trí của Phật, cho nên ‘rộng lớn’.

Biết sự sinh khởi tịnh nhiễm của chúng sinh … là biết chúng sinh trong khí thế gian ấy, báo loại cấu tịnh đều do nghiệp khác nhau. Đây là Nghiệp lực trí.

Tự tánh thanh tịnh của tất cả thế giới là biết khí thể trước vốn tịnh. Đây là Như lý trí.

Biết phiền não tập khí hư vọng… là biết kiết sử tập khí thô tế của chúng sinh mình giáo hóa. Đây là Lậu tận trí. Nghĩa là, biết các thứ đó là không, cũng là thành chướng[1] v.v…

Biết tất cả chúng sinh chết đây sinh kiaSinh tử trí thông, là thiên nhãn lực.

Biết các căn phương tiệnCăn lực trí.

Biết tâm tâm sở niệm …Tha tâm trí.

Phân biệt tất cả chúng sinhTam đạt trí, cũng có Túc mạng trí.

Biết cảnh giới bình đẳng : Cũng là Như lý trí.

Trong 11 câu này, 2 câu đầu là đại bi. 9 câu sau là đại trí. Trong đại trí, trí (5) và trí (11) là Nhất thiết tríPhật địa. Các trí còn lại là Nhất thiết chủng trí. Đều không có phần hạn nên nói vượt hơn.

ĐOẠN 2 : Lấy lượng so lường đi qua các quốc độ làm ví dụ.

Có hai : Trước ví dụ về chỗ không bằng được. Sau là giải thích, hiển tướng hơn.

1. Trong phần ví dụ : Đoạn “Có thể đi qua … không thể biết được”. Có 100 lớp. 10 lớp đầu nói riêng. Còn lại thì nói chung chung.

2. Giải thích : Có hai.

1. Hỏi vặn : Vì sao?

2. Giải thích thành : Có hai :

Vì tạng công đức… là nói công đức của Bồ-tát sơ phát tâm không phải là việc có giới hạn, hiển các thứ trước không bằng thứ sau.

Đều vì tất cảtam bồ-đề là nói công đức của Bồ-tát không có giới hạn, hiển việc này hơn hẳn việc trước. Trong đó cũng có 12 câu :

2 câu đầu Đều vì tất… vì muốn độ… bi tâm. Câu đầu là tổng nêu. Câu sau là biệt giải thích. Vì muốn khiến họ đạt được quả nên nói .

10 câu sau nói về trí. Vì thành tựu trí tự tại.

Câu đầu là tổng biết. 8 câu kế là biệt hiển. Câu còn lại là kết ý.

Câu đầu là nói về cái biết ‘bình man’ trùm khắp. 8 câu kế là nói về cái biết ‘trùng trùng’ vô ngại tương tức tương nhập. Trong đó gồm có :

. Đại tiểu tương tức.

. Nhiều ít tương tức.

. Rộng hẹp tương tức.

. Một nhiều tương tức.

. Tương nhập.

. Nhiễm tịnh.

. Lưới châu của trời Đế Thích.

. Tương sinh.

8 câu đó có hai nghĩa tương tức tương nhập. Hai nghĩa đó, mỗi nghĩa đều có đồng thể và dị thể. Hai thứ đồng và dị đó lại có hai nghĩa đắc thành tương tức tương nhập.

1/ Ứng vào môn duyên khởi : Cũng có hai nghĩa.

. Ứng vào thể : Có nghĩa không và hữu, nên được tương tức.

. Ứng vào dụng : Có nghĩa hữu lực và vô lực, nên được tương nhập.

Ứng vào môn duyên khởi có nghĩa đãi và không đãi nên có hai môn đồng và dị.

2/ Ứng vào môn chân tánh : Cũng có hai nghĩa.

. Duyên bất hoại nên tương nhập.

. Duyên tương tận nên tương tức.

Đều là nghĩa viên dung vô ngại tự tại.

ĐOẠN 3 : Lấy số kiếp thành hoại làm ví dụ.

Có hai : Trước nêu thí dụ hiển chỗ không thể bằng. Sau, giải thích tướng vượt hơn.

1. Nêu thí dụ hiển chỗ không thể bằng : Có hai. Trước, nêu thí dụ rộng lớn. Sau, đối với đó mà hiển cái vượt hẳn. Trong phần nêu ví dụ rộng lớn, trước nói 10 lớp ở phương đông, ức ức có thể biết. Sau, nói kết thông 9 phương. Mỗi phương dều có 10 lớp.

2. Giải thích tướng vượt hơn : Trước hỏi. Sau giải thích.

Trong phần giải thích có hai :

. Giới hạn không cùng … nên vượt hơn.

. Đều biết rõ… là biết các sự không có giới hạn, nên không thể ví dụ.

Trong đó có 10 câu : Câu đầu là tổng biết. 8 câu kế là biệt biết.

Vì sao phân biệt biết? Vì tương tức tương nhập như thế thì trùng trùng nhiếp nhau, tự tại, vô ngại, như vậy mà biết.

Cũng có thể hiểu : Trước là ‘bình man biến’ mà biết. Sau là ‘trùng trùng tương tức tương nhập tự tại vô ngại’ mà biết, hiển tướng thuần thục.

Trường đoản tương tức : Trường, là đại kiếp. Đoản, là tiểu kiếp. Thế giới Sa-bà thuộc đoản kiếp. Thế giới An lạc thuộc trường kiếp. Tương tức nên vô ngại.

Một kiếp là một nhiều tương tức.

Có Phật không Phật là ứng vào việc Phật có hay không. Như Trang Nghiêm kiếpHiền kiếp v.v… là kiếp có Phật. Qua khỏi Tinh Túc kiếp, về sau có sáu vạn hai ngàn kiếp uổng phí không có Phật. Hai loại kiếp này tương tức.

Một Phật kiếp… là ứng vào việc Phật nhiều hay ít. Như trong kiếp Tinh túc có tám vạn Phật xuất hiện, là trong mộtPhật kiếp có vô lượng Phật. Như khi Phật Đại Thông Trí Thắng ra đời, Phạm vương tán thán rằng: ‘Ngàn kiếp … uổng phí không có Phật, nay mới được thấy một Phật Đại Thông …’. Cũng tương tức nên nói vậy.

Dị vô dị, là thuần và tạp vô ngại. Quá khứvị lai, gọi là dị . Hiện tại, gọi là vô dị. Quá khứvị lai nhập hiện tại. Hiện tại nhập quá khứvị lai nên nói vậy.

Tận vô tận là tồn và diệt vô ngại. Như «Trời Người thấy kiếp tận. Đất này thường an ổn ...»

Nhất niệm tức vô lượng kiếp, vì tích niệm thành kiếp, nên kiếp không có thể riêng mà chính là niệm.

Hữu vô tương nhập là dứt niệm qui chân, là kiếp nhập vô kiếp. Y chân khởi vọng là không kiếp nhập kiếp. Trước là từ sự vào lý, sau là từ lý vào sự, nên vô ngại.

Trong phần kết luận, trước là tổng kết sở tri, sau là nói về bản thể nguyện. Cho nên «Công đức của đại Bồ-tát sơ phát tâm giới hạn không cùng …». Tại Phật quả nên không thể nói.

ĐOẠN 4 : Lấy việc khéo biết dục lạc làm ví dụ.

Trong phần hiệu lượng cũng có hai : Trước nêu thí dụ nói chỗ không thể bằng. Sau, hỏi vì sao là để giải thích sự vượt hơn.

1. Nêu thí dụ : Mười phương đều có 10 lớp, gấp nhiều lần lên, có thể tự biết.

2. Giải thích : Đầu tiên là hỏi vặn vì sao để biết lý do thù thắng hơn. Sau, giải thích vì sao thù thắng hơn.

Giới hạn không cùng, là để biết những thứ trước không bì được.

Đoạn «Vì muuốn biết mọi thứ dục lạc … tam bồ-đề» : Nói ra tướng vượt trội.

Vì muốn biết mọi thứ dục lạc là câu tổng. Dùng trí lực ‘Biết tất cả chúng sinh dục lạc’ của Như Lai biết dục lạc hải của chúng sinh, nên nói mọi thứ dục lạc.

Trong phần biệt hiển có hai : Trước là ứng vào pháp mà biết. Sau, ứng vào người mà biết. Luận gọi cái trước là biết khắp, cái sau là biết vi tế cũng được ; Trước là dị tướng, sau là đồng tướng.

1. Ứng vào pháp : Để biết tướng dị. Có 23 câu.

Muốn biết vô lượng … là ứng với tâm cầu của chúng sinh, là riêng, nên nói vô lượng dục. Đồng một quả, nên nói tức là mộc dục. Tuy đồng một quả nhưng hạnh cầu hằng khác, nên nói không hoại tất cả dục tánh. Lại, vì niệm hy vọng không hai, đồng nhiếp thuộc Dục số trong biệt cảnh, tâm pháp không khác, nên nói tức là một dục, nhưng lạc của chúng thì có sai biệt nên nói không hoại… Đây là ứng vào một tâm chúng sinh, dục lạc trước sau nhiều mối mà tương tức vô ngại.

Dục lạc hải, là vì dục lạc của chúng sinh xôm tụ sâu rộng như biển.

Một dục lạc tức là … , là tâm dục lạc hải của chúng sinh khác loại, duyên khởi vô ngại nên tương tức. Lại, biết tâm thiện ác vô ký của một chúng sinh thì tất cả chúng sinh cũng như vậy, nên nói tức là.

Dục lạcquá khứ … là tùy theo mọi thứ dục lạc trong ba đời nơi một chúng sinh mà biết mỗi mỗi chúng sinh thảy đều như thế, nên nói tất cả …

Dục tương tợ … : Dòng loại đồng, gọi là tương tợ. Sở thích khác nên nói không tương tợ.

Tất cả dục tức là một dục : Dục, ứng với Tam thừa phân biệt, nói là tất cả. Đồng qui Nhất thừa, nên nói tức là một. Thật, tức là Nhất thừa, gọi là một dục. Quyền, mở thành Tam thừa, gọi là tất cả dục. Ứng vào duyên khởi vô ngại, chung cả các vị tự tha v.v… có thể tự biết.

Dục lạcNhư Lai, là đồng với Phật quả trí, là dục lạc trí lực trong thập lực.

Muốn biết hữu thượng dục … : Cầu Tam thừa v.v… gọi là hữu thượng dục. Cầu Nhất thừa, gọi là vô thượng dục.

Hữu dư dục vô dư dục : Sở cầu nếu là chỗ rốt ráo, gọi là vô dư dục. Ngược với trên gọi là hữu dư dục.

Đẳng dục bất đẳng dục : Cầu lý, gọi là đẳng. Cầu sự, gọi là bất đẳng.

Hữu sở y dục…: Y tựa vào các tâm sở khác, là hữu sở y. Độc khởi dục số, gọi là vô sở y. Lại, y nơi cảnh khởi dục, gọi là hữu sở y. Biết cảnh duy tâm, tâm trí không chỗ y tựa, gọi là vô sở y.

Cộng dục bất cộng dục : Đồng cầu, là cộng. Dị cầu, là bất cộng.

Hữu biên dục … : Dục ở tại nhân vịhữu biên, đến vị Phật quảvô biên. Vì hoặc chướng hết.

Thiện dục … : Thuận với lý, là thiện dục. Nghịch với lý, là bất thiện dục.

Thế gian dục … : Theo dòng, gọi là thế. Ngược dòng, gọi là xuất thế.

Cầu Phật trí đức, gọi là đại trí dục.

Cầu Phật đoạn đức, gọi là tịnh dục.

Vượt qua địa vị phàm phuTiểu thừa, gọi là thắng dục.

Cầu thành Bồ-tát đăng địa, chứng trí Bát-nhã gọi là vô ngại trí dục.

Luận thì giải thích : Đại trí dục, là ở Chủng tánh vị. Tịnh dục, là ở Kiến vị. Thắng dục, là ở Tu vị. Vô ngại trí, là từ Bát địa trở lên, là Vô công dụng vị.

Vô ngại trí Phật … : Là ở địa vị Phật quả. Đại trí vô ngại viên minh giải thoát.

Nhiễm mà không nhiễm, gọi là thanh tịnh dục. Không nhiễm mà nhiễm, gọi là không thanh tịnh dục. Lại, nếu lìa danh lợi thế gian, gọi là tịnh. Cầu danh lợi thế gian, gọi là bất tịnh.

Cầu nhiều gọi là rộng dục. Ít cầu, gọi là hẹp dục. Lại, đại bi cứu sinh, gọi là rộng. Chuyên cầu tự thoát, gọi là hẹp.

Cầu sâu xa, gọi là tế. Cầu cạn, gọi là thô.

2. Ứng vào người : Để nói về tướng đồng của dục. Nói 10 số nhưng phần liệt kê tên thì chỉ có 8. Đó là giảm số của mười.

Nhân khổ sinh dục : Nhân nơi cái khổ bức bách của sinh tử mà đuổi theo cái lạc niết bàn. Nghĩa là, nhân khổ mà nghĩ đến lạc, như người tù cầu giải thoát.

Phương tiện dục là ở nơi các sự thiện ác, nhân nghe và tư duysinh dục lạc.

Hy vọng dục là có tâm cầu mong đối với các việc vừa ý.

Trước vị dục là được rồi không bỏ.

Tùy nhân sinh dục là dục do chủng nhân đời trước mà sinh, Cũng là từ tư tưởng sinh. Kinh nói: «Dục dục biết gốc ông. Chỉ từ tư tưởng sinh. Ta nay chẳng nghĩ ông. Ông lại chẳng được sinh».

Tùy duyên sinh dục là dục do nương vào cảnh bên ngoài mà sinh. Lại, vì thiện ác mà phát ra sự hóa dẫn chúng sinh, cũng gọi là Tùy duyên sinh dục.

Không pháp chẳng cầu, gọi là tận dục. Cầu niết bàn tận diệt cũng gọi là tận dục.

Rộng cầu các pháp, gọi là nhất thiết dục. Cầu bồ-đề vô biên cũng gọi là nhất thiết dục.

Rõ biết hết lưới dục là phần tổng kết. Lưới dục có ba nghĩa :

1. Nghĩa khó thoát : Như lưới ở thế gian, chim cá vào rồi khó thoát. Do mọi thứ lưới dục mà sinh tử khó thoát. Đây là nói về dục nhiễm ô.

2. Nghĩa sàn lọc : Như lưới lọc ở thế gian. Là khởi dục thanh tịnh sàn lọc các hữu tình giúp họ ra khỏi biển khổ sinh tử. Văn kinh sau nói : «Vua trí tuệ đã nói, dục là gốc các pháp, nên khởi dục thanh tịnh, chí cầu đạo vô thượng». Đây là nói về dục thanh tịnh.

3. Nghĩa ẩn chiếu : Như lưới của trời Đế Thích. Các dục nhiễm và tịnh sai biệt đan nhau vô ngại trùng trùng tương nhập, nên nói lưới. Đây là nói về thể của dục.

ĐOẠN 5 : Lấy việc khéo biết các căn làm ví dụ.

Cũng cần hiển đầy đủ vì đồng loại, nên trong văn lược nói ‘Vì cầu trí lực của mọi thứ căn trong thập lực của Như Lai’.

ĐOẠN 6 : Lấy việc khéo biết hy vọng làm ví dụ.

Phần ‘hy vọng’ này so với ‘dục lạc’ nói trên có gì sai biệt? Nói chung thì không khác nhưng nếu phân biệt thì Dụcy cứ vào lúc đầu, nên nói trước các căn. Hy vọngy cứ vào lúc sau, nên nói sau các căn.

ĐOẠN 7 : Lấy việc khéo biết phương tiện làm ví dụ.

Phương tiện là, tạo duyên khởi hạnh gọi là phương tiện, là phương tiện phát nghiệp nên không đồng với nghiệp.

ĐOẠN 8 : Lấy việc khéo biết tâm ý của người làm ví dụ.

Biết tâm ý , là vì cầu tha tâm trí của Như Lai. Trước, nói về tâm pháp. Đây nói về tâm thể.

ĐOẠN 9 : Lấy việc khéo biết nghiệp tướng làm ví dụ.

Biết nghiệp, là vì cầu nghiệp trí lực trong thập lực của Như Lai.

Năm đoạn trên đều lược nêu.

ĐOẠN 10 : Lấy việc khéo biết phiền não làm ví dụ.

Có hai : Trước, nêu ví dụ. Sau, hiển thắng tướng.

1. Nêu thí dụ : Nêu ví dụ để thấy không thể bì kịp.

2. Giải thích : Hiển thắng tướng.

Trong phần thắng tướng, trước hỏi vì sao?, sau giải thích.

Trong phần giải thích : Trước, không do phần hạn mà biết nên hiển lỗi này trước. Sau, là trí lực lậu tận không giới hạn nên trước nói không thể bì kịp.

Vì muốn phân biệt … là câu tổng.

Đó là … là biệt hiển. Có 18 câu, lược thành 10 môn phân biệt.

Hai câu phiền não nặng … nhẹ, là ứng vào nhẹ và nặng mà phân biệt. Suất lược[2] tâm khởi, là phiền não nhẹ. Ân hậu[3] tâm khởi, là phiền não nặng. Vi tế khởi dễ dừng, là phiền não nhẹ. Thô trọng khởi khó dứt, là phiền não nặng. Chánh sử là phiền não nặng. Tàn tập là phiền não nhẹ. Bản phiền nãophiền não nặng. Tùy phiền não phiền não nhẹ. Trong tùy phiền não, tiểu tùy là phiền não nhẹ, thượng và trung là phiền não nặng.

Hai câu Phiền não kiết sử … triền, là ứng vào sử và triền mà phân biệt. Sử là 10 sử, là 5 kiến cùng với tham, sân, si, mạn, nghi. Triền là 10 triền, là vô tàm, vô quí, thùy miên, hối hận, san tham, tật đố, trạo cử, hôn trầm, phẩn và phú. Địa Trì Du-già chỉ nói 8 triền, không có phẩn và phú. Vì sao không có hai thứ đó? Vì có luận sư cho rằng phẩn và phú, tánh nó thuộc sử. Phẩn, thuộc sử sân tánh. Phú, thuộc sử tham tánh, là tham lợi người, che dấu lỗi mình.

Sử và triền làm sao phân biệt? Luận Tạp Tâm nói: «Căn bản gọi là sử. Tân dịch, gọi là triền cấu. Cấp phược, gọi là triền. Khinh phược, gọi là cấu». Trong đó kiết, là 9 kiết, có thể tự biết.

Hai câu Vô lượng phiền não … : Ứng vào nhân quảphân biệt. vô lượng phiền não của tất cả chúng sinh, là quả tham sân sichúng sinh đã khởi. Mọi thứ giác quán phiền não, là cái nhân phiền não từ các thứ đó phát sinh. Kinh Niết Bàn nói: «Có 8 loại giác quán…», nên nói mọi thứ. 8 thứ đó là[4] :

. Dục giác : Cầu sự vừa ý.

. Sân giác : Niệm muốn sân với người.

. Não giác : Niệm muốn não loạn người.

. Thân lý giác : Nhớ nghĩ thân duyên.

. Quốc độ giác : Nghĩ đến sự an nguy ở đời.

. Bất tử giác : Tích tài lợi dưỡng.

. Tộc tánh giác : Nghĩ đến sự cao thấp của dòng tộc.

. Khinh vũ giác : Vũ, là kiêu mạn, là niệm tự thị lấn người.

Hai câu Vô minh phiền não, ái … : Ứng vào bản và mạt phiền nãophân biệt, cũng là ứng vào si và ái mà phân biệt. Vô minhvô minh trụ địa. Y nơi vô minh mà khởi, là chỉ cho hằng sa thượng phiền não. Ái, là ba ái ở cõi Dục, Sắc, Hữu. Hữu ái trụ địa tương ưng đó thì cho ra phiền não của Ái tương ưng,[5] là nhân nơi ái mà sinh ưu v.v…

Bốn câu tham dục bất thiện căn … là ứng vào ba bất thiện cănphân biệt. Có thể tự hiểu.

Hai câu Tất cả phiền não … là ứng vào địa và khởi mà phân biệt. Tất cả phiền não, là ngũ trụ khởi. Căn bản phiền não, là ngũ trụ địa.

Hai câu Ngã ngã sở … là ứng vào lợi và độn mà phân biệt. Ngã ngã sở, là lợi. Ngã mạn, là độn.

ức niệm … là ứng vào thứ lớp sinh nhau mà phân biệt. ức niệm hư vọng, là ba thứ đảo tâm, tưởng và kiến. Sinh phiền não, là từ ba thứ đảo mà sinh bốn thứ đảo.

Nhân thân kiến sinh, là ứng vào hai kiến bản và mạt mà phân biệt. Vì 62 kiến đều y nơi thân kiến mà sinh, lấy đó làm gốc.

Hai câu Cái phiền não, là ứng vào lỗi và hoạn mà phân biệt. Cái, là ngũ cái. Đó là tham, sân, thùy miên, trạo cử và nghi. Che chắn hành nhân chẳng được thiền trí nên gọi là cái (che). Chướng, là hai chướng phiền nãosở tri. Vì sở tri chướng cũng có thể gọi là phiền não nên trong câu kết, do phiền não khó thoát mà gọi chung là lưới hoặc. Do ủy tế mà biết rõ tất cả phiền não, là Nhất thiết chủng trí.[6] Đều muốn đoạn để hết hẳn, là đại từ bi.

ĐOẠN 11 : Lấy công đức cúng Phật làm ví dụ.

Có hai : Trước là nêu ví dụ. Sau hiển sự siêu vượt.

1. Nêu ví dụ : Nêu ví dụ để thấy không thể bì kịp. Có 10 lớp. Lớp đầu là biệt thuyết. Chín lớp sau là tổng thuyết.

Trong lớp đầu có bốn :

Đoạn «Trong khoảng một niệm …” : Nêu sự rộng lớn. Trước nêu phương đông, sau hiển chín phương còn lại.

Trong phương đông có năm :

. Trong một niệm thấy nhiều Phật nhiều chúng sinh.

. Tự mình cúng dường nhiều, trong nhiều thời.

. Khuyên chúng sinh đồng cúng dường với mình.

. Tự mình xây tháp thù thắng cúng dường.

. Khuyên người cũng đồng xây tháp cúng dường.

Đoạn «Ý ông thế nào …», là đối với việc đó mà hỏi rộng lớn chăng?

Đoạn «Đế Thích đáp rằng …», là trả lời việc đó cực rộng lớn.

Đoạn «Pháp Tuệ đáp rằng …» là so sánh để hiển sự thù thắng.

2. Giải thích : Hiển sự siêu vượt. Có hai : Trước hỏi, sau giải thích.

. Ý hỏi rằng : Như ở phương đông, một niệm liền thấy vô biên chư Phật. Dùng niệm lực này trải qua vô lượng kiếp cúng dường để thấy Phật v.v…. rất rộng lớn. Như ở phương đông, chín phương còn lại cũng như vậy, là hiển sự cực rộng lớn. Một người đã vậy, còn khuyên tất cả chúng sinh khác cũng như vậy, huống là gấp bội trước. Đến lớp thứ mười thì phần hạn công đức khó biết. Vì sao ngay cả với phần công đức chẳng thể nói cũng chẳng bằng một so với công đức của sự phát tâm, nên hỏi vì sao?

. Trong phần giải thích, câu «công đức của Bồ-tát đó không vì giới hạn trong việc cúng dường Như Lai », là nói ‘không bị giới hạn …’ nên công đức phát tâm hơn công đức cúng dường trước. Câu kế «Vì muốn cúng dường ba đời chư Phật ở mười phương… », là nói ‘không có phần hạn’, nên hiển công đức phát tâm lớn hơn công đức cúng dường. Tướng vượt hơn tuy vô lượng, nhưng đại lược có 6 loại.

1. Xứ vượt hơn : Muốn cúng dường hết vô tận thế giới xứ Phật như vô tận pháp giới, hư không v.v… ở mười phương, bao gồm cả xứ Đế võng v.v…, nên không đồng với trước.

2. Thời vượt hơn : Gồm hết chư Phật ba đời, là gồm cả chín đời, mười đời v.v… vô tận trùng trùng thời.

3. Phật vượt hơn : Gồm tất cả cảnh giới Phật của chư Phật, thảy đều cúng dường, nên không chỉ như trước.

4. Cúng dường vượt hơn : Trong tất cả pháp giới thì tự và tha, sắc và tâm, lý và sự, hạnh v.v… đều lấy đó cúng dường, nên không chỉ như trước.

5. Tâm vượt hơn :Với vô tận Phật cảnh, mỗi một chỗ Phật đều dùng vô tận sự cúng dường, đều trải qua vô tận thời cúng dường, tâm vẫn không tận, nên vượt hơn trước.

6. Hạnh vượt hơn : Rõ thấu năng sở, ba việc bình đẳng, viên dung, vô ngại, nên vượt hơn.

Hỏi : Chỉ có thể so sánh chung chung mà nói không bằng thì được, với phần công đức không thể nói há có thể chẳng bằng một sao?

Đáp : Công đức phát tâm đồng với pháp giới, bất khả phân. Dù với phần công đức không thể nói, một phần cũng biến khắp pháp giới. Không hỏi nhiều ít, đều không thể so sánh. Như lúa gạo của thường trụ tăng, một hộc cũng biến khắp mười phương tăng, cho đến một lẻ cũng biến khắp mười phương tăng. Do đó bất khả phân.

3. Ngay nơi tướng nói về chỗ thâm sâu : Đoạn «Phát tâm này rồi …»

Có hai : Trước nêu, sau giải thích.

1. Nêu lên :

Phát tâm này rồi, là nhắc lại tâm được so hơn ở các ví dụ trước, là hiển từ phát tâm.

Biết được vô thượng…, là nói về công đức sâu xa. Trong đó, đầu tiên là nhiếp nhân tận cùng nên nói sâu xa. Kế là đồng với Phật quả nên nói sâu xa, là phát tận cùng tâm bồ-đề hậu tế, là Phật cảnh tối cùng. Đây là nêu cảnh sở tri, là biết công đứctrí tuệ của ba đời chư Phật.

Đại Bồ-tát này đều tin hướng …, là thành tựu thâm hạnh. Tin hướng, là Thập tín. Thọ trì, là Thập trụ. Tu tập, là Thập hạnhThập hồi hướng. Đắc chứng, là Sơ địa trở lên. Thân chứng, là mãn Thập địa trở lại. Lại, nội chứngđắc chứng. Cùng với bên ngoài hiện rõ, nên nói thân chứng. Như trong Tiểu thừa, lấy Diệt tận định làm thân chứng, đây cũng đồng. Trước là hạnh chứng, sau là vị chứng. Trước là trí tương ưng, sau là thân tương ưng. Cũng có thể hiểu đắc chứng là ứng vào nhân tròn, thân chứng là ứng vào quả mãn. Đều đồng với …, là đồng với Phật quả, nên nói sâu xa.

2. Giải thích : Giải thích hai việc đã nêu trên. Có ba : 1/Giải thích nhân đồng. 2/Giải thích quả đồng. 3/ Kết lại phần hạn của nhân.

1.Giải thích nhân đồng : Có hai : Trước hỏi. Sau giải thích.

Hỏi : Hỏi vi sao là vì sao biết sơ phát tâm rồi thì có thể chứng đắc đại phúc trí của ba đời chư Phật?

Giải thích : Có 20 câu. Muốn hiển đồng với âm sở hành lộ của ba đời Phật âm, nên nói đồng. 11 câu đầu là ngoại hóa đức, là bi đức. 9 câu sau là nội tự đức, là Trí đức.

- Trong 11 câu, câu đầu là tổng, 10 câu sau là biệt.

Muốn không đoạn tánh … là giáo hóa chúng sinh khiến phát tâm bồ-đề, tiếp thừa Phật chủng, nên nói không đoạn.

Muốn khiến tâm từ bi đầy khắp, là khởi tâm thương xót chúng sinh.

Muốn độ thoát tất cả chúng sinh, là khởi ý cứu độ.

Muốn biết tất cả thế giới thành bại, là biết trụ xứ của nơi giáo hóa.

Muốn biết cấu tịnh khởi , là biết từng loại riêng của nơi giáo hóa, là biết nghiệp thiện ác khởi quả báo khổ vui, nên nói cấu tịnh khởi. Cũng là Nghiệp trí lực trong Thập lực.

Muốn khiến chúng sinh trong ba cõi được thanh tịnh, là khởi ý quảng đại, cũng là khiến lìa nghiệp chướng.

Muốn biết tâm niệm và tập phiền não, là biết hoặc chướng nặng nhẹ của nơi giáo hóa. Cũng là cầu Lậu tận trí lực. Cũng là khiến đoạn phiền não chướng.

Muốn biết chúng sinh chết đây sinh kia, là biết tướng luân chuyển. Cũng là Thiên nhãn trí lực. Cũng là khiến xả báo chướng.

Muốn biết hết các căn phương tiện, là biết căn thuần thục hay chưa thuần thục, là khởi hạnh sở y, chính là Chư căn trí lực.

Muốn biết hết tâm tâm hạnh …, là biết tâm tạo tu chánh minh khởi hạnh. Cũng là Tha tâm trí lực.

Muốn biết tất cả chúng sinh trong…, là tổng kết sở tri. Cũng là Tam đạt trí lực.

- 9 câu sau là cầu công đức tự lợi của Phật. Câu đầu là tổng. 8 câu sau là biệt.

Một câu đầu muốn biết hết công đức đầy đủ … là câu tổng.

Hai câu kế là nhân quả phân biệt. Muốn biết hết bồ-đề vô thượng là biết quả bồ-đề. Muốn biết hết tịnh pháp đầy đủ là biết nhân bồ-đề, chính là tịnh pháp.

Hai câu kế là lý hạnh phân biệt. Muốn biết hết tướng pháp bình đẳng, là biết lý pháp bình đẳng. Muốn biết hết trí tuệ vô thượngnhân duyên thanh tịnh…, là biết trí hạnh thanh tịnh.

Bốn câu kế là thể đức phân biệt. Ba câu đầu là Phật đức. Muốn biết hết lực trí tuệ trưởng dưỡng ba đời chư Phật, là Thập lực. Muốn đầy đủ pháp vô úy của ba đời chư Phật, là được cái đức không sợ. Muốn trang nghiêm đầy đủ pháp bất cộng, là được pháp bất cộng. Câu cuối Muốn biết hết pháp giới đẳng đồng…, là Phật thể, là thật trí bình đẳng.

2. Giải thích quả đồng : Trước hỏi, khởi phần giải thích sau. Phần giải thích có ba : Đầu là tổng, hai là biệt, ba là kết.

Chính là Phật, là câu tổng. Có người giải thích ‘là trong nhân nói quả’. Hoặc giải thích ‘kiến giải đồng với Phật cảnh’. Hoặc giải thích ‘Ứng với lý bình đẳng’. Nếu ứng với giáo của Tam thừa thì nói như vậy là được.

Nay, y vào văn kinh trước sau, ứng với giáo của Nhất thừa mà nói, thì thủy và chung tương nhiếp, viên dung, vô ngại. Được thủy tức là chung. Tận chung mới nguyên thủy. Một, là do môn Đà-la-ni duyên khởi tương nhiếp. Hai, là do tâm bồ-đề Phổ Hiền biến khắp sáu vị, ngay nơi nhân là quả. Ba, là do pháp tánh không có thủy chung. Phát tâm nhập thủy chính là nhập chung. Cho nên, văn kinh trước nói: «Khi mới phát tâm, liền thành chánh giác, đầy đủ tuệ thân, không do nơi khác mà ngộ» là đây.

Trong phần biệt, có 15 câu. 5 câu đầu, ứng vào nội đức của Phật sung mãn v.v… 10 câu sau, ứng vào hóa dụng bên ngoài của Phật đầy khắp v.v…

Trong 5 câu, câu đầu Đều bình đẳng với ba đời chư Phật là tổng. 4 câu sau là biệt. Trong phần biệt, hai câu đầu là pháp sở y : Bình đẳng với tam thế Phật cảnh giới, là cảnh chân đế. Bình đẳng với tam thế Phật chánh pháp, là cảnh tục đế. Hai câu sau là đức năng y: Được nhất thân và … trí tuệ, là được thân và trí của Phật.

10 câu sau là nói về ngoại dụng. Câu đầu là tổng, 9 câu sau là biệt.

Chúng sinh giáo hóa cũng đồng, là câu tổng.

3 câu kế là giáo hóa khiến thoát khổ.

Chấn động tất cả … , là động để sinh tín tâm.

Chiếu khắp tất cả … , là chiếu để sợ mà tỉnh giác.

Ngưng dứt các áo đạo khổ , là chánh để khiến thoát khổ.

5 câu kế là giáo hóa khiến nhập pháp.

Nghiêm tịnh tất cả, là trang nghiêm chỗ giáo hóa.

Đều thị hiện thành Phật, là hiện thành Phật.

Khiến chúng sinh đều được hoan hỉ, là hiện thông để khiến chúng hoan hỉ.

Khiến chúng sinh hiểu sâu pháp giới : Chánh, khiến nhập pháp.

Hộ trì chủng tánh của chư Phật : Nhập pháp rồi, hộ niệm khiến chẳng mất.

Câu cuối được trí tuệ quang minh…, là trí ngoại hóa.

Cũng có thể giải thích :

Trong 15 câu, câu đầu là tổng, 14 câu sau là biệt. Trong phần biệt, Năm câu đầu là Trí chánh giác thế gian tự tại đồng. Trong đó, hai câu đầu là ứng vào pháp đồng : Một là sở duyên và phần hạng đồng. Hai là lý giáo đồng. Ba câu sau là ba nghiệp đồng. Vì nơi giáo hóa, là ứng với ngữ nghiệp mà nói.

Bốn câu tiếp, là nói Khí thế gian tự tại đồng. Trong đó, một là động, hai là chiếu, ba là trừ, bốn là nghiêm.

Năm câu tiếp nữa, là nói Chúng sinh thế gian tự tại đồng. Trong đó, một là hiện thành Phật, hai là khiến hân hoan, ba là trao pháp, bốn là hộ trì, năm là đắc quả. Nếu không hộ trì thì sợ rơi vào Nhị thừa.

3. Kết lại phần hạn của nhân :

Chẳng lìa chư Phật … là nói về các pháp Tam bảo, chúng sinh, nhiễm tịnh v.v…. Đây có hai nghĩa :

. Do Bồ-tát được cái thân thông cả ba đời, nên thường trùm khắp tam tế, không chỗ nào không trụ được.

. Do Bồ-tát được cái thân là pháp giới, dọc thì bao hàm nhiễm tịnh, ngang thì trùm khắp tam tế, nên nói chẳng xa lìa.

Phần còn lại có thể tự hiểu.

2. Chứng thành : Có hai :

1. Hiển cái thật : Đoạn «Lúc ấy, do thần lực của Phật …». Có bốn : Một, là động địa. Hai, là mưa cúng dường. Ba, là chấn âm. Bốn, là phóng quang.

2. Chứng thành : Đoạn «Lúc ấy, qua khỏi thập Phật sát trần». Có hai : Trước là hiện thân tác chứng. Sau là tác chứng lợi ích.

1. Hiện thân tác chứng : Vì sao Phật tự tác chứng? Vì ngay khi sơ phát tâm, liền nhiếp Phật nhânPhật quả. Việc này khó tin nên Phật tự tác chứng. Cũng là hiển nhân quả đồng tánh. Cũng là hiển nhân quả nhiếp thành ở vị thắng tiến.

2. Tác chứng lợi ích của việc thuyết pháp : Hiển bày trong tất cả các thế giới, những gì Pháp Tuệ đã nói là có lợi ích. Nói để biết pháp đó quyết định chẳng hư dối. Cũng vì pháp đó khó tin nhận nên có sự tác chứng. Do tạng tâm này nhiếp đức viên tịnh, nên gọi là Tịnh Tâm Như Lai.

Từ trên đến đây, nói trong một thế giới xong.

II. KẾT THÔNG MƯỜI PHƯƠNG : Có hai :

1. Hiển pháp trùm khắp vô tận thế giới : Đoạn «Trên điện Diệu Thắng … có tên là Pháp Tuệ»

2. Giải thích lý do trùm khắp : Vì sao pháp này trùm khắp mười phương, nơi thuyết, người thuyết, pháp được thuyết cùng với sự tác chứng đều đồng? Có 10 câu :

Do thần lực của Phật : Đây là Phật Xá-na cùng với tất cả chư Phật đều lấy lực uy thần hiện tại đồng chung gia trì nên khiến như thế.

Do bản nguyện lực : Được bản nguyện lực của chư Phật nhiếp trì.

Do hiển thị phật pháp : Vì muốn hiển thị pháp sở đắc của Phật, lý số như vậy trùm khắp mười phương.

Do quang minh trí tuệ chiếu khắp : Quang minh Phật trí khiến chiếu khắp.

Do hiểu đệ nhất nghĩa : Muốn khiến hiểu và ngộ chân lý trùm khắp.

Do pháp như vậy : Pháp giới duyên khởi cùng theo pháp nhĩ, nên cần thuyết khắp.

Do các Bồ-tát hoan hỉ : Vì người thích đại pháp mà chỉ dạy pháp xứng tánh quảng đại khiến họ hoan hỉ.

Do tán thán công đức của chư Phật : Phật đức trùm khắp, muốn tán thán đầy đủ.

Do biết chư Phật bình đẳng : Hiển thị tất cả chư Phật ở mười phương đồng pháp sở đắc, vì bình đẳng không có sai biệt.

Do hiểu pháp giới không hai : Vì khiến hiểu biết mười phương pháp giới không có hai vết.

Do 10 nghĩa trên mà nói trùm khắp. Nói 10 nghĩa cũng là phép tắc hiển sự vô tận. Nghĩa kết thông ở các văn trước sau đều theo đó mà hiểu.

Phần trường hàng nói về thế giới này và các thế giới khác, tổng thành tất cả xứ trong vô tận thế giới, tới đây là xong..

TRÙNG TỤNG

Phần đại đoạn kệ tụng tổng nhiếp này có hai : Một, là Tự thuyết ý. Hai, là Chánh trùng hiển.

I. Ý TỰ THUYẾT : Đoạn “Lúc ấy, Bồ-tát Pháp Tuệ quán khắp mười phương…”. Có 10 câu.

. Quán khắp mười phương : Vì vô tận thế giớimười phương đồng nói pháp này.

. Quán khắp tất cả đại chúng : Muốn khiến tất cả chúng hải ở mười phương đều đồng nghe.

. Quán hư không giới : Hiển tự tâm như hư không không bị hạn cuộc.

. Quán chúng sinh giới : Quán thành tựu pháp môn của chúng sinh.

. Không trái nghiệp báo, thanh tịnh như hư không giới : Quán xứng pháp tánh như hư không tuy tịnh mà nhân quả không mất.

. Muốn bạt cấu uế cho chúng sinh … : Muốn khiến lìa hoặc.

. Muốn khiến chúng sinh được đại giải thoát : Được giải thoát của Nhất thừa.

. Muốn biết chủng chủng các căn : Muốn liễu đạt căn hải. …

. Quán chánh thú niết bàn ba đời : Hội duyên nhập thật.

. Hiện các công đức thanh tịnh của tự thân : Hiện công đức phát tâm vô tận của mình khiến chúng sinh thấy rồi, liền tu tập.

II. CHÁNH TRÙNG HIỂN : Có 241 ½ bài kệ. Phân làm bốn :

1/ 163 ½ bài kệ đầu tụng lại phân đoạn thứ ba trên : Có 27 đoạn.

Kệ (1) đến (6) : Tụng lại phần văn kinhVì muốn tâm từ bi đầy khắp …”.

Kệ (7) đến (13) : Tụng lại các phần kinh muốn biết tất cả thế giới rộng hẹp tương tức tương nhập v.v…, là hiển tác dụng lợi sinh v.v…

Kệ (14) đến (16) : Tụng lại các phần kinh “Muốn không đoạn tánh của …” v.v…

Kệ (17) (18) : Tụng lại phần văn kinhĐều được trí tuệ quang minh của chư Phật”.

Kệ (19) (20) : Tụng lại các phần kinh đều muốn biết mọi thứ nghiệp, mọi thứ tâm, mọi thứ căn tánh v.v…’.

Kệ (21) đến (26) : Tụng lại các câu kinh “Muốn được pháp giới …’ v.v… và “Bình đẳng với ba đời chư Phật’.

Kệ (27) (28) : Tụng lại phần kinh “Cúng dường tất cả Phật…”.

Kệ (29) đến (36) : Tụng lại phần kinh “Biết hết trí tuệ vô thượngnhân duyên”. Vì trí tuệnhân duyêntam muội thậm thâm và cảnh sở sinh của chân như. Trong đó, đều hiển tác dụng của thông tuệ.

Kệ (37) đến (45) : Tụng lại các câu “Độ thoát chúng sinh” v.v…

Kệ (46) đến (48) : Tụng lại các câu “Biết thế giới thành hoại …” v.v… Vì sự thành hoại này chỉ là Phật trí cảnh. Nay tin Phật vô ngại nên cũng biết rõ.

Kệ (49) đến (53) và ½ : Tụng lại phần “Ngưng dứt các ác đạo khổ …”.

Kệ (54) đến (60) : Tụng lại phần “Đều có thể chiếu khắp tất cả thế giới…”. Nói luôn cõi được chiếu, trong đó có Phật thuyết pháp.

Kệ (61) đến (64) : Tụng lại các câu “Tam thế Phật chánh pháp” v.v…

Kệ (65) đến (75) : Tụng lại phần văn kinhỞ nơi tất cả thế giới đều thị hiện thành Phật…” v.v...

Kệ (76) đến (83) : Tụng lại các câu “Trí tuệ bình đẳng của ba đời chư Phật…” v.v…

Kệ (84) đến (91) : Tụng lại các câu “Được nhất thânvô lượng thân ...” v.v…

Kệ (92) đến (101) : Cũng tụng lại các câu đồng với cảnh giới của ba đời chư Phật. Đây là phần hạn cảnh giới. Có 10 loại đồng : 1/Lìa nhiễm đồng. 2/Cứu sinh đồng. 3/Trí tuệ đồng. 4/Tướng hảo đồng. 5/Sở tri đồng. 6/Chứng lý đồng. 7/Thâm định đồng. 8/Hạnh kiên đồng. 9/Tâm an đồng. 10/Đầy khắp đồng.

Kệ (102) (103) : Nêu công đức khuyên tu.

Kệ (104) đến (107) : Nêu phần hạn của giáo thuyết.

Hai phần này không tụng lại phần văn kinh đã nói.

Kệ (108) đến (113) : Tụng lại phần văn kinh : Được trí tuệquang minh của ba đời chư Phật. Vì soi chiếu tục cảnh mà thường ở tại chân.

Kệ (114) đến (117) : Tụng lại phần văn kinh : Đều hay nghiêm tịnh tất cả thế giới.

Kệ (118) đến (125) : Tụng lại các câu : Chúng sinh được chư Phật giáo hóa thảy đều đồng v.v...

Kệ (126) đến (129) : Tụng lại phần văn kinh : Biết số kiếp ngắn dài tương tức tương nhập.

Kệ (130) đến (141) : Tụng lại phần văn kinh : Bồ-tát sơ phát tâm được trí Thập lực của Phật.

Kệ (142) đến (150) : Tụng lại phần văn kinh : Đều có thể chấn động vô lượng thế giới, là nhập đế võng v.v…

Kệ (151) đến (157) : Tụng lại các phần văn kinh : Đều muốn trưởng dường trí tuệ của chư Phật.

Kệ (158) đến (163) : Tụng lại phần văn kinh : Bồ-tát không lìa Chư Phật, Bồ-tát, Nhị thừachúng sinh.

Từ trên đến đây là tụng chung về phân đoạn ba. Ngay nơi tướng mà luận, xong.

2/ 29 bài kế tụng lại phân đoạn hai ứng vào các thí dụ trên : Phân làm sáu.

Kệ (164) đến (169) : Tụng lại ví dụ lợi sinh đệ nhất.

Kệ (170) đến (171) : Tụng lại ví dụ đi qua các quốc độ.

Kệ (172) đến (175) : Tụng lại ví dụ số kiếp.

Kệ (176) đến (181) : Tụng lại 5 ví dụ Dục v.v… Đó là : 1/Dục. 2/Hy vọng. 3/Căn. 4/Phương tiện. 5/Tâm pháp. Hợp lại có thể biết.

Kệ (182) đến (185) : Tụng lại phần ví dụ thứ chín và thứ mười : Biết nghiệp và phiền não.

Kệ (186) đến (192) : Tụng lại thí dụ thứ mười một : Cúng dường chư Phật.

Phần tụng lại các thí dụ xong.

3/ 39 bài kế tụng câu tán thán đầu tiên, hiển sự thậm thâm : Phân làm bảy.

Kệ (193) đến (199) : Tụng lại câu tổng thậm thâm đầu tiên. Vì thâm triệt Phật quả, thâm vượt các cõi, thâm đồng pháp tánh, thâm dụng trùm khắp, thâm trí biết xa, đều như văn kinh đã nói.

Kệ (200) đến (206) : Tụng lại phần thậm thâm khó biết thứ hai. Kệ (200) đến (203) nói về sự sâu rộng khó biết. Kệ (204) và (205) là Phật dùng thâm đức gia trì khó biết. Kệ (206) là câu kết đức khó biết. Vì công đức như hư không, không phải tính đếm mà có thể biết, nên nói khó biết.

Kệ (207) đến (211) : Tụng lại phần thậm thâm khó tin. Vì do Sơ phát tâm liền thành Phật quả, công đức vô biên, là việc khó tin nhận.

Kệ (212) đến (219) : Tụng lại phần thậm thâm khó hiểu. Vì khiến chỗ an lạcNhị thừa tam giới có được vẫn ở tại Bồ-tát sơ phát tâm. Việc này khó hiểu, nên trong văn kinh từ kệ (212) đến (215) nêu hai vị được chỗ an lạc. Mỗi vị hai bài kệ. Kệ (216) đến (219) giải thích lý do hai vị ấy được sự an lạc. Mỗi vị hai bài kệ.

Kệ (220) đến (224) : Tụng lại phần thậm thâm khó nói. Vì trí sâu, đức rộng, nghiệp dụng nhiều, đa ngôn nói khó đến, nên nói xưng tán chẳng thể tận.

Kệ (225) đến (228) : Tụng lại phần thậm thâm khó thông, là tâm trụ bình đẳng vì chúng thuyết pháp. Hai vị tương nghịch khiến cực tương thuận, nên rất khó thông hội.

Kệ (229) đến (231) : Tụng lại phần thậm thâm khó phân biệt. Vì vị sơ tâm đồng với ranh hạn Phật vị, khó phân biệt.

4/ 10 bài cuối tổng kết, tán thán hiển sự thù thắng : Kết, tán thán và khuyên tu.

Kệ (232) (233) : Nêu đức khuyên tu.

Kệ (234) (235) : Tụng lại công đức sâu rộng.

Kệ (236) đến (239) : Tụng lại năng lực thù thắng của đức dụng.

Kệ (240) đến (241) : Khuyên học cứu cánh.



[1] Tính vốn không nhưng nếu đủ duyên để sinh khởi thì thành chướng.

[2] 率略心起

[3] 慇厚心起

[4] Bản Hán không có, thêm vào để hiểu.

[5] (99, 2, 4) 是有愛住地相應是與愛相應之煩惱也

[6]由委細了知一切煩惱是一切種智.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12093)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15191)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16515)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12124)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11381)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14153)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 24422)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10595)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
(Xem: 12394)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10252)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12234)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11530)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 11930)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 12903)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11344)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 17279)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21216)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10590)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19098)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12307)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 25831)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 14274)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 13628)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16713)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17403)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13017)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12434)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11524)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11474)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 20260)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18818)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19422)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18492)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14890)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 14955)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13863)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15423)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 14484)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 15723)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12789)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18261)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15666)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 10979)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53450)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 12875)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16392)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15263)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 19816)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15424)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15243)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15060)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 10285)
Với Phật giáo, toàn bộ nội dung tư tưởng Phật dạy là lấy con người làm gốc, gắn bó mật thiết với đời sống nhân quần xã hội...
(Xem: 20185)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 15349)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 12950)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 19853)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13175)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 28929)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11603)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
(Xem: 18184)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant