Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Đôi Điều Về Kinh Kalama

20 Tháng Ba 201507:25(Xem: 12602)
Đôi Điều Về Kinh Kalama
ĐÔI ĐIỀU VỀ KINH KALAMA

Minh Chi


Doi dieu ve kinh KalamaNhà đại văn hào Nga Lép Tôlxtôi nói rằng: “Những chân lí sâu sắc nhất đồng thời cũng là giản dị nhất”. Nét đặc sắc khiến các bài thuyết pháp của Đức Phật Thích Ca có sức thuyết phụchấp dẫn lớn, không phải chỉ là ở tính lôgíc chặt chẽ của lập luận, mà còn ở những chân lí sâu sắc mà giản dị, được trình bày dưới hình thức gọn nhẹ, hình ảnh, và nhiều khi còn dí dỏm nữa.

Chúng ta có thể thấy dễ dàng nét đặc sắc đó trong bài “Thuyết pháp cho người Kalamas” thường được gọi tắt là Kinh Kalamas (Kalamas Sutta), mà chúng tôi giới thiệu những đoạn kinh chủ yếu sau đây. Một số học giả phương Tây, khi dẫn chứng Kinh này, nói rằng đó là những lời nói có một không hai của một vị giáo chủ!

Chúng ta có thể đọc Kinh này trong Tăng Chi Bộ Kinh, tập I (tr. 212, bản dịch của Hoà thượng Thích Minh Châu, Đại Tạng Kinh Việt Nam). Nhưng đầu đề trong bản dịch của Hoà thượng Thích Minh Châu “Các vị ở Kesaputta”, có khác với đầu đề quen thuộc của các bản dịch Anh ngữ, thí dụ bản dịch “Discourse to the Kalamas” (Bài thuyết pháp của những người Kalamas) của Tỉ kheo Khanti Palo. Cũng có bản dịch mang đầu đề gọn “Kalamas Sutta” tức là Kinh Kalamas.

Còn bản dịch Việt văn của Hoà thượng Thích Minh Châu thì mang đầu đề: “Các vị ở Kesaputta”. Kesaputta là thị trấn nơi bộ tộc Kalamas cư trú, là nơi Đức Phật Thích Ca đến, được người Kalamas hỏi về căn cứ của lòng tin đạo chân chính (chánh tín), và Đức Phật đã thuyết pháp kinh này cho họ nghe.

Những người Kalamas chất vấn Đức Phật Thích Ca thuộc hạng người nào?

tài liệu nói họ thuộc dòng Sát Đế Li (Khastryas), tức dòng vương tước, dòng nhà tướng, vốn không chịu khuất phục trước âm mưu chiếm địa vị thống trị xã hội của dòng họ Bàlamôn. Cũng có tài liệu nói họ là những người trí thức, tức là những người có trí, có học.

Cả hai khả năng trên đều rất quan trọng. Rõ ràngĐức Phật đã nói với họ như với những người trí thức. Vì từ đầu đến cuối bộ Kinh toát lên sự tôn trọng lí trí, tôn trọng tự do tư tưởng, tính lôgíc chặt chẽ của lập luận.

Thời bấy giờ ở ấn Độ có rất nhiều tôn giáo, nhiều triết phái, học thuyết. Và người theo tôn giáo, triết phái, học thuyết nào, cũng đều cho rằng tôn giáo, triết phái, học thuyết của mình là chân líbài bác, đả kích các tôn giáo, triết phái và học thuyết khác là sai lầm. Những người Kalamas ở thị trấn Kesaputta cũng được nghe nhiều giảng sư tán dương tôn giáo này, học thuyết này và bài bác tôn giáo kia, học thuyết kia, cho nên họ đâm ra hoang mang không biết đâu là phải, trái, đúng, sai. Họ đem sự hoài nghi, phân vân đó nói với Đức Phật, khi Ngài đến Kesaputta.

Đức Phật trả lời như thế nào? Ngài không bắt đầu từ chủ thuyết của mình, cũng không phê phán chủ thuyết của người khác. Nghĩa là thái độ của Đức Phật khác hẳn với thái độ của mọi giáo chủluận sư mà người Kalamas thường gặp. Trước tiên, Đức Phật khen người Kalamas hoài nghi và phân vân như vậy là đúng và Đức Phật giải thích rằng lòng tin chân chính không nên và không thể dựa trên 10 căn cứ sai lầm sau đây:

1. Căn cứ Thần Khải (revelation), thí dụ, tín đồ đạo Bàlamôn tin rằng, những điều ghi trong Kinh Veda là chân lí, vì rằng đó là những lời Thần Khải, những lời của Thần nói ra.

2. Căn cứ truyền thống, tin vào một điều được chấp nhận từ xưa, và được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, tức là tin vào truyền thống, nhưng truyền thống cũng có thể sai và không thể là căn cứ đảm bảo của niềm tin chân chính.

3. Điều người ta kể lại, dù đó là tu sĩ, cha mẹ, bà con thân thiết, cũng không phải là căn cứ đảm bảo của niềm tin chân chính.

4. Điều hợp với kinh sách, dù kinh sách đó là Thánh điển, thí dụ, Kinh Phật đối với Phật tử, Kinh Veda đối với tín đồ đạo Bàlamôn, Tân ước, Cựu ước đối với tín đồ đạo Kitô, v.v… cũng không phải là căn cứ đảm bảo của lòng chánh tín, bởi vì kinh sách chỉ là để hướng dẫn, tham khảo, chứ không phải để thay cho nhận thức và kiểm nghiệm cá nhân được.

5. Lập luận đơn thuần, siêu hình miên man, thường chỉ là lí luận suông, không phải là một cái nhìn vào chiều sâu chân lí, không phải là sự nắm bắt đối với thực tại.

6. Những dữ kiện được xem xét hời hợt, chỉ là những dữ kiện chết, không nói lên được gì hết, mặc dù chúng do thực tế cung cấp. Các dữ kiện phải được phân tích, tổng hợp như thế nào đó mới nói lên sự thực.

7. Dựa trên một quan điểm là một tiêu chuẩn không thể chấp nhận được, ngay ở ấn Độ thời Đức Phật, khi mà, các cuộc tranh luận và hội thảo tôn giáotriết học cũng thường xuyên và sôi động như là “các cuộc thi đấu bóng đá hiện nay vậy”. Trong những tranh luận và hội thảo như vậy, người nào cũng giữ riêng và bảo vệ quan điểm của mình, tất nhiên, nhưng không thể lấy quan điểm đó làm tiêu chuẩn để phân biệt phải trái, hơn thua.

8. Dựa trên lí thuyết mình vốn chấp nhận, cũng như dựa trên quan điểm của mình không thể là căn cứ đảm bảo của chánh tín.

9-10. Dựa vào quyền uy, hay là dựa vào sự tôn trọng đối với thầy học của mình, đều không thể là những chứng cứ đảm bảo của chánh tín. Vì trong các cuộc tranh luận và hội thảo về tôn giáo hay triết học, mỗi người tham gia đều có thầy của họ, đạo sư của họ, và quyền uy của thầy chỉ là chỗ dựa của họ. Nhưng đó là chỗ dựa tin cậy của riêng mình. Không phải là chỗ dựa tin cậy của người khác, đang tranh luận với mình.

Sau khi đã giới thiệu 10 căn cứ không đáng tin cậy của niềm tin chân chính, Đức Phật Thích Ca khuyến cáo những người Kalamas hãy nên tự biết mình, tự mình thấy, chứ không nên dựa vào quyền uy nào khác. Những điều gì là ác, là thiện, là trái, đều phải thông qua sự kiểm nghiệm của tự thân mình mới thấy rõ: nếu thực hiện những điều gì mà đem lại đau khổ, bất hạnh lâu dài cho mình và cho người khác thì đó là điều bất thiện, sai trái cần phải gạt bỏ đi; ngược lại, nếu thực hiện những điều gì đem lại hạnh phúcan lạc lâu dài cho mình và cho những người khác, thì đó là những điều thiện, đúng đắn, cần phải duy trì và phát huy.

Tiếp đó Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.

Để kết thúc bài thuyết pháp, Đức Phật khuyên tất cả các bậc đệ tử cao cả đã dứt bỏ được tham, sân, si hãy phát triển bốn đức tính vô lượng từ, bi, hỉ, xả gọi là bốn vô lượng tâm mà vị đệ tử cao cả có thể mãi mãi sống an lạchạnh phúc, ở ngay kiếp sống này cũng như các kiếp sống về sau.

Những bạn đọc nào muốn xem toàn văn bộ Kinh, có thể dùng bản dịch của Hoà thượng Thích Minh ChâuTăng Chi Bộ Kinh, tập I, tr. 212, bạn đọc cũng có thể kham khảo thêm bộ Kinh Bhaddiya trong Tăng Chi Bộ Kinh, tập II B in róneo, tr. 218, nội dung chủ yếu cũng giống Kinh Kalamas nhưng khác ở phần đầu và ở phần kết thúc.

Các bạn biết tiếng Pali và Anh ngữ cũng có thể tìm thấy bộ Kinh này trong “Anguttara Nikaya III, p. 65 (Bản dịch của “Pali text society”) “Gradual sayings I” the book of the Three, p. 170, một bản Anh ngữ khác là của The Buddhist publication Society (Hội xuất bản Phật giáo) trong tập san “The Wheel”, số 8 với đầu đề “Kalamas Sutta, The Buddha’s Charter of free Inquiry” (Kinh Kalamas, hiến chương tự do nghiên cứu tìm tòi của Đức Phật).

Minh Chi


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6702)
Hai chữ quy y có nghĩa là : quay về hay hồi chuyển. Y là nương tựa hoặc dựa vào, những hành vi hồi chuyển nương tựa hoặc quay đầu dựa dẩm tin tưởng.
(Xem: 6141)
Niềm tin sâu xa nhất trong giáo lý nhà Phật là tất cả mọi người đều có thể tự cải biến mình trong từng giây phút một. Chẳng có gì gọi là định mệnh cả.
(Xem: 6473)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn.
(Xem: 7728)
Nhẫn nhục là chịu nhịn những điều sỉ nhục xấu hổ, nhục nhã, chịu đựng tổn thương trước những cảnh, sự việc không vừa lòng, nghịch ý, trái tai gai mắt;
(Xem: 6231)
Nền giáo dục hòa bình của Đạo Phật là một con đường đạo đức nhân bảnthiết thực, là căn cứ trên chân lý từ bi, công bằng và...
(Xem: 6548)
Chúng ta chỉ có thể nhìn thấy mọi sự vật, hiện tượng trong phạm vi giới hạn của đôi mắt mình, nhưng...
(Xem: 5669)
Tôi đến với Phật pháp vì … quá khổ.
(Xem: 5544)
Phải luôn luôn có tâm tùy hỷ đến tất cả mọi người, nếu chưa được giải thoát thì sau khi chết, năng lực tùy hỷ sẽ đẩy mình đến những cảnh giới tốt.
(Xem: 5625)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ.
(Xem: 6739)
Chúng ta biết tu là chúng ta biết sống. Một thứ tài sản không bao giờ bị mất. Ai muốn giàu, muốn sung túc thì hãy ráng nhớ giữ gìn tài sản này.
(Xem: 6014)
Thuyết bốn Đế, tức bốn Chân lýcăn bản, là cốt lõi tinh túy của đạo Phật, là nội dung bài thuyết pháp đầu tiên của Phật ở Vườn Nai (Bénarès).
(Xem: 7025)
Đạo Phật thường quán niệmsuy tưởng về khổ đau vì đó là kinh nghiệm chung của toàn thể nhân loại.
(Xem: 6155)
Chúng ta chẳng cần tìm Phật ở đâu xa, ngài luôn luôn ở ngay trong cuộc đời, nhưng chúng ta không thấy, vì ...
(Xem: 6083)
Chúng ta có thể tìm ra chánh pháp của Phật, nghĩa là chân lý, ở khắp mọi nơi, chứ không bắt buộc chỉ tìm trong kinh điển.
(Xem: 6534)
Chúng ta đã tìm Phật và tìm Pháp, nay phải đi tìm Tăng cho đủ Tam Bảo, nói cho đủ là Tăng già, phiên âm chữ Phạn Sangha.
(Xem: 5839)
Dù là xuất gia hay tại gia, thường niệm pháp Quy Y trong đời sống, lấy Tam Bảo làm mục đích làm lợi ích cho Dân Tộc và cho cả chúng sinh.
(Xem: 6006)
Kinh sách và Đạo Pháp của Phật không phải giúp để góp nhặt sự hiểu biết mà phải dùng để tự biến cải lấy chính ta.
(Xem: 6387)
Tâm chúng sinh và Phật vốn không khác. Tất cả đều do tâm tạo. Mười cõi cũng do tâm tạo.
(Xem: 5610)
" Nầy các Tỳ kheo Như Lai nói tác ý tức là nghiệp vì có ý muốn làm mới có hành động thân khẩu ý ". Như vậy mười nghiệp lành là 10 điều giúp cho con người thực hiện trong sạch hoá thân khẩu và ý .
(Xem: 6762)
Khái niệm về sự tái sinh không phải là một khái niệm đặc thù của Phật Giáo mà đấy chỉ là một học thuyết chủ trương sự « đầu thai »
(Xem: 5928)
Có những niềm tin gây mê lầm, tội lỗi, gieo tai họa cho chính những người mang niềm tin đó mà họ không hay không biết, hoặc gieo tai họa lên nhiều người...
(Xem: 5811)
Theo kinh Lăng-già, Bồ-tát vì muốn độ tất cả chúng sanh đạt đến Niết-bàn nên phát nguyện ở lại thế giới nhiều khổ đau này để làm lợi ích cho chúng sanh.
(Xem: 6495)
Phật pháp tại thế gian, chẳng thể lìa thế gian mà có. Thế nên biết, người muốn ngộ được lẽ thật của muôn pháp, cũng phải từ muôn pháp mà ngộ,
(Xem: 5428)
Phật pháp tại thế gian, chẳng thể lìa thế gian mà có. Thế nên biết, người muốn ngộ được lẽ thật của muôn pháp, cũng phải từ muôn pháp mà ngộ,
(Xem: 5496)
Tin nhân quả làm chúng ta an tâm. Sự hợp lý, trật tự, ý nghĩa của một cuộc đời là do nhận thức được và sống theo nhân quả.
(Xem: 7978)
Mười nghiệp lành không những ngăn giữ chúng sanh khỏi bị đọa lạc vào bốn con đường đau khổ, mà còn mở cánh cửa thênh thang hạnh phúc an vui của phước báu nhân thiên sang cả.
(Xem: 6082)
Theo tâm lýkinh nghiệm, việc chọn lựa một tông phái để theo, phần lớn tùy thuộc vào sở thích và môi trường sinh sống của từng người.
(Xem: 5644)
Tất cả các hệ thống giáo lý phong phú của đạo Phật chỉ có một mục đích duy nhất là trình bày phương pháp và đường lối giải thoát,
(Xem: 8781)
Một người đã tin ở luật nhân quả trong đời hiện tại thì cũng phải tin ở luật nhân quả các đời quá khứ, và vị lai.
(Xem: 6459)
Thực tế cho chúng ta thấy, người học đạo thì nhiều, nhưng để sửa tâm tánh thì không bao nhiêu, đó là kết quả do việc không chịu lắng nghe.
(Xem: 5824)
"Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sinh ra; nghiệp là quyền thuộc, là nơi nương tựa" .
(Xem: 5733)
Ngày nay phong trào nghiên cứu Phật học không còn bị thu hẹp trong giới Phật giáo mà đã phổ biến vào mọi tầng lớp của xã hội, không phần biệt Tôn giáo.
(Xem: 5240)
Học Phật là học con đường trở về với chân tâm, với Phật tánh—vốn hàm tàng nơi chính mình và tất cả chúng sinh.
(Xem: 6656)
Phật giáo nguyên thủy, xuất phát từ miền nam Ấn Độ, rồi được truyền sang Tích Lan, từ Tích Lan truyền qua Miến Điện, Thái Lan, Campuchia, Lào...
(Xem: 6888)
Sám hối không có nghĩa là hết tội nhưng nó có mãnh lực làm cho tâm mình thanh thản, nhẹ nhàng vì vậy nó giúp ngăn hay chận bớt những ác nghiệp mà mình đã tạo ra.
(Xem: 10989)
Tứ đếgiáo nghĩa cơ bản dùng để giải thích mọi hiện tượng nhân sinh vũ trụ được quy nạp từ thập nhị nhân duyên, là con đường trung đạo duy nhất giải thoát sinh tử luân hồi.
(Xem: 7953)
“Những Điều Phật Đã Dạy” là một trong những quyển sách nói về Phật học bán chạy nhất ở các nước phương Tây, được dịch ra nhiều thứ tiếng...
(Xem: 5994)
Tham sống sợ chết, đó là sự thật của người đời. Thế nhưng tại sao lại giết hại, cắt đứt sự sống của chúng sanh khác?
(Xem: 5345)
Theo nguyên tắc chung, tôi nghĩ rằng tôn giáo của cha mẹ mình là tôn giáo thích nghi nhất cho mỗi người.
(Xem: 6997)
Quan niệm về cái gọi là "đời cha ăn mặn đời con khát nước" cho rằng có một cái gì vô hình lưu truyền cái nhân xấu do đời cha tạo ra và chuyển giao cái quả xấu do nhân xấu mang lại cho con cái.
(Xem: 5949)
Học Phật không phải chỉ biết được lời Phật dạy, biết qua kiến thức suông để đàm luận, lý luận, mà cần phải thực tập, áp dụng vào cuộc sống của mỗi người trong sự nghe thấy, tư duy và hành động.
(Xem: 6382)
Trong Phật Pháp, đức Phật đã chỉ sẵn một phương pháp, một nghệ thuật hay còn gọi là một bí quyết để có một đời sống hạnh phúc, đó là gìn giữ năm giới.
(Xem: 20969)
Vô thườngtính chất căn bản của đời sống; tất cả mọi sự vật sinh ra có điều kiện đều có tính chất của bốn giai đoạn “thành, trụ, hoại, diệt”
(Xem: 5772)
Mỉm một nụ cười, trở về với một hơi thở, bước một bước chân thảnh thơi... cũng có thể là những phép lạ giữa một cuộc sống căng thẳng và quá bận rộn.
(Xem: 7104)
Về phương diện đạo lý, Phật giáo cao hơn các hệ thống đạo đức khác, nhưng đạo đức chỉ là bước đầu chứ không phải cứu cánh của Phật giáo.
(Xem: 8535)
Bát Chánh Đạogiáo lý căn bản của Đạo đế (trong Tứ Đế) gồm ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Đây là những phương tiện hành trì phổ biến sâu rộng chung cho Ngũ thừa Phật giáo.
(Xem: 6834)
Chữ Không của Bát Nhã đứng vững là dựa trên lý nhân duyên, nếu lý nhân duyênchân lý thì chữ Không cũng sẽ là chân lý.
(Xem: 7688)
Đây là 4 pháp, 4 nguyên tắc sống mà tiền thân chư Phật, tức chư Bồ-tát thường áp dụng để nhiếp hóa, cảm hóa chúng sanh...
(Xem: 5325)
Có những người sinh trưởng ở những nơi mà niềm tin về tái sinh là một thành phần trong nền văn hóa của họ.
(Xem: 18497)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14293)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13452)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13440)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11721)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13149)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13568)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13836)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13152)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 14916)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16066)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant