Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Học Phật Và Phật Học

19 Tháng Tư 201509:00(Xem: 5979)
Học Phật Và Phật Học
HỌC PHẬT VÀ PHẬT HỌC

Huệ giáo

Học Phật Và Phật Học

I\ Mở Đề:

Phật tử, mỗi người chúng ta luôn mang tâm nguyện tiến tu trên con đường giải thoátgiác ngộ, việc trước nhất thể hiện ý nghĩa đó là cần phải học Phật. Có học Phật cặn kẽ, rõ ràngcăn bản, chúng ta mới có cơ hội để tiếp nhận ánh sáng của đức Phật tỏa chiếu muôn nơi mà không e sợ đi lạc đường, lầm lối, dẫn vào tà đạo, và mới có thể mang lại nhiều lợi ích thiết thực trong cuộc sống cho chính mình và cho tha nhân.

Học Phật không phải chỉ biết được lời Phật dạy, biết qua kiến thức suông để đàm luận, lý luận, mà cần phải thực tập, áp dụng vào cuộc sống của mỗi người trong sự nghe thấy, tư duy và hành động. Có như thế thì lời Phật dạy không phải là những bài pháp khô cứng, lỗi thời mang tính cổ xưa, mà chính là những lời dạy sinh động ngay trong cuộc sống, những bài pháp sống động luôn chuyển tải một tiềm năng thức tỉnh cho từng đối tượng nghiên cứu, tu tập.

II/ Nội dung:

1/ Định nghĩa:

a/ Phật học: Là một hệ thống tư tưởng của đức Phật, là tổng hợp tất cả lời dạy của đức Phật xuyên suốt trong suốt 49 năm hoằng pháp độ sanh, sau này được các vị tổ sư phân loại thành nhiều vấn đề, chương tiết. Nói chung, tất cả lời dạy của đức Phật được gói gọn một cách khoa học trong tam tạng kinh điển ( Tipitakà). Đây là một hệ thống lý thuyết bao gồm toàn bộ vấn đề liên quan đến nhân sinhvũ trụ, do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết giảng, như là một bộ môn khoa học, được gọi là Phật học( Buddhist Studies). Đứng về mặt khoa học, Phật học được so sánh giống như các bộ môn khoa học khác như : Tâm lý học, Sử học, Luật học, Giáo dục học, Triết học, Xã hội học, Kinh tế học, Nhân chủng học..v.v. Do đó, để trở thành một nhà Phật học chúng ta cần phải học nhiều, biết nhiều về lời Phật dạy, tuỳ thuộc theo chương trình nghiên cứu, và phân loại đề ra. Tóm lại, Phật họcphương pháp học hỏi kiến thức của đức Phật (Tri).

b/ Học Phật: Là học về đức tánh, hạnh nguyện, nhân cách của đức Phật, học làm Phật; đây là ý nghĩa rốt ráo của đạo Phật, của những người Phật tử. Nghĩa là áp dụng lời Phật dạy vào ngay cuộc sống của mình, trong tư duy và hành động (Hành) để chuyển hóa toàn bộ từ một con người phàm phu thành một bậc giác ngộ.

2/ Phân loại:

a/: Phật học:

Là một hệ thống lời Phật dạy được thâu tóm biên soạn, chứa đựng trong tam tạng kinh điển: Kinh- Luật- Luận.

Kinh:

Được phân chia ra thành nhiều hệ thống, bộ phái.

Kinh Nguyên Thủy gồm có 5 bộ Nikaya dịch từ tiếng Pali cũng còn gọi là Kinh Điển Pali và bây giờ đã được dịch sang tiếng Việt nam.

Kinh A hàm gồm có 4 bộ A Hàm dịch từ tiếng Phạn về sau này dịch sang tiếng Trung hoa và đã dịch ra tiếng Việt nam.

Kinh Đại Thừa gồm có như kinh Pháp Hoa, Duy Ma, Bát nhã, Hoa nghiêm, Lăng Nghiêm, Lăng Già, Kinh Kim Cương, Di đà.v.v.

Luật:

Luật Thanh Văn( Tỳ kheo giới).

Luật Bồ tát (Đại thừa giới).

Luận: Luận của Nguyên thủy Phật giáo.

Luận của Hữu bộ.

Luận của Đại thừa.

Từ tam tạng kinh điển này, về sau chúng ta thấy lại được các nhà Phật học phân loại thành nhiều ngành thuộc về Phật học như: Tâm lý học phật giáo; Sử học phật giáo; Luật học phật giáo; Triết học phật giáo; Xã hội học phật giáo; Chính trị học phật giáo; Phụ nữ học phật giáo; Kinh tế học phật giáo; Nghệ thuật học phật giáo, Âm nhạc Phật giáo; Mỹ học phật giáo; Kiến trúc phật giáo.v.v.

b/ Học Phật: Là học bao gồm cả: Đức tánh, Hạnh nguyện, Nhân cách của đức Phật, và học làm Phật.

Đức tánh: Đại Hùng- Đại Lực- Đại Từ Bi. Đại hùng là người đã đủ sức mạnh, hùng lực ở ngôi vô thượng, là Thầy của ba cỏi sáu đường. Là người đã vượt thoát lưới ma, phá tan màn vô minh, thoát ra sanh tử luân hồi. Đại lực là người có đủ trí tuệ phá tan được nghiệp chướng, phiền não mê hoặc sâu dày của mình và của chúng sanh. Đại từ bi là người có khả năng cứu độ chúng sanh trong chín nẽo luân hồi. Và còn rất nhiều đức tánh chi tiết khác nữa chúng ta cần phải học.

Hạnh Nguyện: Tự giác, Giác thaGiác hạnh viên mãn. Tự giác là người đã tự nguyện giác ngộ lấy chính mình. Giác tha là mang sự giác ngộ của mình giúp cho người khác giác ngộ. Giác hạnh viên mãn là mọi công hạnh đã trọn vẹn đầy đủ.

Nhân cách: Đức Phật là một mẫu người siêu việt trong tam giới. Là một Đạo sư khả kính của trời người. Là một biểu tượng của lòng vị thanhân ái.

Học làm Phật: là học những điều Phật đã học, đã tu và đã chứng, học cách để chuyển một chúng sanh thành một vị Phật. Học cách để làm sáng lên đức Phật sẳn có trong mỗi con người.

3/ Sự tương quan mật thiết giữa Phật học và Học Phật:

- Tu mà không học là tu mù; Học mà không tu là đãy sách: Có kiến thức về Phật học cho một phật tử đi trên con đường tầm đạo là một điều kiện cần thiết nhưng chưa đủ. Bởi vì nếu chỉ có kiến thức thì đó thuộc phần phân biệt của tâm thức, không cẩn trọng chỉ làm tăng thêm bản ngã của mỗi người. Kiến thức chỉ mang lại sự hiểu biết nhưng không mang lại sự giải thoátgiác ngộ, sự dập tắt bản ngã, bứng rể phiền não nguồn gốc của khổ đau. Như vậy, cần phải lấy kiến thức đó, áp dụng vào trong cuộc sống thường ngày, để đối trị thói quen, tật xấu, và nghiệp chướng phiền não của chính mình, thì đó mới chính là ích lợi thiết thực của việc học Phật và mới đủ khả năng xây dựng một xã hội tốt đẹp.

- Tri hành hợp nhất: Thế giới bao gồm cả hai mặt tương đốituyệt đối, sự việc nào luôn có hai mặt của chúng. Việc tu tập cũng thế, học mà không hành thì không có kết quả thiết thực. Việc học và hành trong đạo phật rất cần thiết, và luôn song hành với nhau, không thế tách rời được, cũng không thể thiếu cái này và cái khác mà nhất thiết phải được xem là một. Học mà không tu cũng giống như chúng ta đọc mớ lý thuyết đã chết, không có kết quả gì cả, ngược lại có tu tập thì lời dạy của Phật trở nên sống động, những bài pháp sống.

III/ Kết luận:

-Tin Ta mà không hiểu Ta là hủy báng Ta. Đây là lời nói của đức Phật nhắc nhỡ đến hàng đệ tử của Ngài, không đến với Ngài chỉ vì lòng tin, mà phải từ sự nhận định sáng suốt, có hiểu biết.

- Cần phải nổ lực tìm hiểu hơn nữa, hiểu rồi cần phải thực hành. Có thực hành thì mới mong có kết quả trong việc tu tập, ích lợi trong khi học đạo. Học đạo mà không thực hành giống như chúng ta đi ăn ở nhà hàng, chỉ đọc thực đơn mà không ăn. Học Phật mà không thực hành, áp dụng sự hiểu biếtđời sống thì việc học đạo chỉ đứng ngoài cửa ngõ chứ chưa vào được nhà Như lai.

Tài liệu tham khảo:

1-Phật học Phổ Thông. Cố Hòa thượng Thích Thiện Hoa biên soạn.

2-Phật học Tinh Yếu. Cố Hòa Thượng Thích Thiền Tâm biên soạn.

3-Phật học Quần Nghi. Hòa thượng Thánh Nghiêm biên soạn, Thích Minh Quang dịch.

Câu hỏi tìm tòi suy nghĩ:

1-Phật học là gì? Học Phật là gì?

2-Sự tương quan giữa chúng trong đời sống tu tập?

3-Nội dung Phật học gồm những gì?

4-Thiết thực của việc tu học là gì? Hãy nêu một số kinh nghiệm cụ thể về mặt tiêu cực cũng như tích cực khi học phật.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 16449)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11903)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 12082)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12769)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 12733)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10233)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13965)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10220)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13702)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16264)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11963)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12970)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11643)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12669)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10794)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10997)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10933)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11897)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12752)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11065)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12613)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11319)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
(Xem: 12508)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14107)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10847)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10512)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11189)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11998)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13131)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12348)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15336)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 14325)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12094)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15357)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11997)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12400)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11171)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12084)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10602)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12553)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13158)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14835)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12675)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16567)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19659)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 12251)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 13518)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11944)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11629)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12762)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14513)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12612)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15663)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13620)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12892)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 18014)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11161)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 12171)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13042)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10297)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant