Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Lắng Nghe Lời Thầy

23 Tháng Tư 201509:00(Xem: 6495)
Lắng Nghe Lời Thầy
LẮNG NGHE LỜI THẦY

Huệ giáo


Lắng Nghe Lời ThầyTruyền thống giáo dục của Phật giáo có ba hình thức căn bản, gồm: khẩu giáo, thân giáo và ý giáo. Tùy theo căn cơ của người đệ tử mà các bậc thầy có thể sử dụng nhiều phương thức hướng dẫn khác nhau, nhưng thân giáo vẫn là quan trọng hơn cả cho thầy lẫn trò. Trở về khoảng thời gian Đức Phật còn tại thế, sự thuyết giảng của Ngài chưa bao giờhình thức giảng dạy như hình thức viết lách như chúng ta hiện nay. Ngài chỉ quán xét đối tượng đệ tử, sau đó nói những điều cần thiết là có thể đi thẳng vào tâm thức của họ, và trợ duyên cho nhận thức của họ đi sâu vào chiều hướng thực hành. Hình ảnh này cũng là truyền thống đạo họcẤn Độ xưa được kết tinh trong bốn bộ kinh Vedas và áng văn Upanishad mà chúng ta biết được trong kho tàng kiến thức của nhân loại. Từ Unpanishad có nghĩa là ngồi xuống xung quanh Thầy và lắng nghe.

Ở đây, chúng ta thấy rằng con đường của đạo học nhằm để làm giàu đời sống tinh thần, làm giàu nguồn sống tâm linh, tăng trưởng nội tâmcuối cùng bừng ngộ chân lý. Phương pháp thế học khảo sát trên nền tảng tri thức của nhân loại được sao chép, bảo lưu từ thế hệ này sang thế hệ khác. Phương pháp đạo học khảo sát ngay trên bản tâm, trong đó hàm chứa cả tạp nhiễmthanh tịnh. Tuy cả hai nền giáo dục có khác nhau nhưng cơ bản giống nhau dựa trên một thái độ: đó chính là sự lắng nghe.

Bởi vì, một thầy giáo không nghe được tiếng nói của học trò mình, không nghe tất cả những , trăn trở, tâm tình cũng như sự phản ánh của chúng thì không thể truyền đạt kiến thức cho người học trò có hiệu quả. Một vị thầy xuất thế nếu như không lắng nghe, không quán sát tâm tư, tiếng nói của đệ tử mình thì lời dạy của vị đạo sư cũng không có hiệu quả thiết thực. Vì vịThầy đó sẽ nói những điều vượt ra ngoài trọng tâm nhận thức của người đệ tử, nếu không muốn nói là Thầy chỉ nói những điều Thầy thích nói, còn học trò có nghe được hay không, có tiếp thu hay không chưa phải là vấn đề đáng quan tâm! Ngược lại, người học trò cũng thế, nếu không biết lắng nghe thì dĩ nhiên sẽ không tiếp thu được gì từ người thầy truyền đạt. Lắng nghe không phải chỉ đơn thuần là một thao tác đơn giản mà phải là chuyên môn, vì cần phải học cách lắng nghe,phải thực tập hạnh lắng nghe.

Cũng thế, đệ tử khi đến học đạo với một vị đạo sư, nếu như không học theo hạnh lắng nghe, thì đối với người đệ tử, buổi thuyết giảng không đem đến kết quả. trình học đạomục đích học đạo là nhằm để chuyển đổi tâm thức của chúng ta từ ô nhiễm, xấu ác, lệch lạc về với chiều hướng tốt, để bừng sáng bản tâm, từ chuyên môn gọi là để ngộ. Nếu không ý thức việc học đạo như thế, thì khi nghe thầy thuyết giảng cũng tựa như nghe người khác diễn thuyết, ca xướng, kịch ảnh, chỉ tăng trưởng kiến thứchý luận.

Một vị thầy có thể nghe được tiếng nói và dòng suy nghĩ cũng như sự vận hành dòng nghiệp lực của học trò thì sẽ có những tác động rất lờn đối với ngược học trò. Bởi lẽ, với tuệ giácnăng lực riêng, người Thầy có thể hướng dẫn học trò những điều gì cần làm và hững điều gì nên tránh, giúp cho người học trò có thể lọai bỏ những tập khí nhiễm ô đã bó buộc mình trong vô lượng kiếp, dẫn đến đau khổ, làm cản trở, chậm tiến đường tu của họ. Nhưng sau khi nghe lời Thầy dạy rồi mà người học trò không thường xuyên quán niệm về những lời dạy của Thầy, không đặt trọng tâm vào nỗ lực chuyển đổi tập khí thì việc học đạo không có kết quả. Trên thực tế, có rất nhiều và rất nhiều đệ tử vẫn thường xuyên được thầy nhắc nhở, nhưng người khác thì tiến bộ từng ngày còn lại thì vẫn lì y như vại bởi lẽ sự khác nhau căn bản giữa những người này là có học theo hạnh lắng nghe hay không.

Đã có biết bao lớp người, rất thành kính và rất hồ hởi tìm đến một vị thầy để học đạo, nhưng khi được thầy khuyến tấn bỏ ngay những suy nghĩ dẫn đến vướng mắc trong cuộc sống, thì người đệ tử ấy không nghe theo, vẫn bo bo cố chấp, gìn giữ cho đó là suy nghĩ chín chắn của mình. Hơn nữa, có những vị đến học đạo nhưng lại không tháo gỡ tâm tánh của mình thóat khỏi sự vướng kẹt bởi hệ lụy; hoặc không mấy tin tưởng về khả năng của vị thầy. Đối với người học đạo nói chung, nếu như cứ ôm ấp, gìn giữ những tâm lý ấy, tất sẽ mang lại sự chậm tiến nếu không muốn nói là không có kết quả trong việc học đạo.

Thực tế cho chúng ta thấy, người học đạo thì nhiều, nhưng để sửa tâm tánh thì không bao nhiêu, đó là kết quả do việc không chịu lắng nghe. Lắng nghe ở đây không phải chỉ nghe để nghe suông, nghe ở đây là phải biết vận dụng sự nghe ấy vào trong đời sống thực tiễn tu học; cũng tựa như mỗi ngày chúng ta cần phải có tắm rữa để vệ sinh, ăn uống ngủ nghỉ để bảo vệ sức khỏe, giải trí để giảm lượng căng thẳng sau khi làm việc, và tập thư giãn để thu nhận niềm hạnh phúc. Lắng nghe lời thầy cũng thế, cần phải được học hỏi và trau giồi thường xuyên bằng ý thức tự giác cao độ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6750)
Hai chữ quy y có nghĩa là : quay về hay hồi chuyển. Y là nương tựa hoặc dựa vào, những hành vi hồi chuyển nương tựa hoặc quay đầu dựa dẩm tin tưởng.
(Xem: 6183)
Niềm tin sâu xa nhất trong giáo lý nhà Phật là tất cả mọi người đều có thể tự cải biến mình trong từng giây phút một. Chẳng có gì gọi là định mệnh cả.
(Xem: 6521)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn.
(Xem: 7771)
Nhẫn nhục là chịu nhịn những điều sỉ nhục xấu hổ, nhục nhã, chịu đựng tổn thương trước những cảnh, sự việc không vừa lòng, nghịch ý, trái tai gai mắt;
(Xem: 6263)
Nền giáo dục hòa bình của Đạo Phật là một con đường đạo đức nhân bảnthiết thực, là căn cứ trên chân lý từ bi, công bằng và...
(Xem: 6589)
Chúng ta chỉ có thể nhìn thấy mọi sự vật, hiện tượng trong phạm vi giới hạn của đôi mắt mình, nhưng...
(Xem: 5701)
Tôi đến với Phật pháp vì … quá khổ.
(Xem: 5595)
Phải luôn luôn có tâm tùy hỷ đến tất cả mọi người, nếu chưa được giải thoát thì sau khi chết, năng lực tùy hỷ sẽ đẩy mình đến những cảnh giới tốt.
(Xem: 5660)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ.
(Xem: 6789)
Chúng ta biết tu là chúng ta biết sống. Một thứ tài sản không bao giờ bị mất. Ai muốn giàu, muốn sung túc thì hãy ráng nhớ giữ gìn tài sản này.
(Xem: 6054)
Thuyết bốn Đế, tức bốn Chân lýcăn bản, là cốt lõi tinh túy của đạo Phật, là nội dung bài thuyết pháp đầu tiên của Phật ở Vườn Nai (Bénarès).
(Xem: 7068)
Đạo Phật thường quán niệmsuy tưởng về khổ đau vì đó là kinh nghiệm chung của toàn thể nhân loại.
(Xem: 6189)
Chúng ta chẳng cần tìm Phật ở đâu xa, ngài luôn luôn ở ngay trong cuộc đời, nhưng chúng ta không thấy, vì ...
(Xem: 6139)
Chúng ta có thể tìm ra chánh pháp của Phật, nghĩa là chân lý, ở khắp mọi nơi, chứ không bắt buộc chỉ tìm trong kinh điển.
(Xem: 6573)
Chúng ta đã tìm Phật và tìm Pháp, nay phải đi tìm Tăng cho đủ Tam Bảo, nói cho đủ là Tăng già, phiên âm chữ Phạn Sangha.
(Xem: 5882)
Dù là xuất gia hay tại gia, thường niệm pháp Quy Y trong đời sống, lấy Tam Bảo làm mục đích làm lợi ích cho Dân Tộc và cho cả chúng sinh.
(Xem: 6037)
Kinh sách và Đạo Pháp của Phật không phải giúp để góp nhặt sự hiểu biết mà phải dùng để tự biến cải lấy chính ta.
(Xem: 6423)
Tâm chúng sinh và Phật vốn không khác. Tất cả đều do tâm tạo. Mười cõi cũng do tâm tạo.
(Xem: 5667)
" Nầy các Tỳ kheo Như Lai nói tác ý tức là nghiệp vì có ý muốn làm mới có hành động thân khẩu ý ". Như vậy mười nghiệp lành là 10 điều giúp cho con người thực hiện trong sạch hoá thân khẩu và ý .
(Xem: 6800)
Khái niệm về sự tái sinh không phải là một khái niệm đặc thù của Phật Giáo mà đấy chỉ là một học thuyết chủ trương sự « đầu thai »
(Xem: 5975)
Có những niềm tin gây mê lầm, tội lỗi, gieo tai họa cho chính những người mang niềm tin đó mà họ không hay không biết, hoặc gieo tai họa lên nhiều người...
(Xem: 5847)
Theo kinh Lăng-già, Bồ-tát vì muốn độ tất cả chúng sanh đạt đến Niết-bàn nên phát nguyện ở lại thế giới nhiều khổ đau này để làm lợi ích cho chúng sanh.
(Xem: 6548)
Phật pháp tại thế gian, chẳng thể lìa thế gian mà có. Thế nên biết, người muốn ngộ được lẽ thật của muôn pháp, cũng phải từ muôn pháp mà ngộ,
(Xem: 5460)
Phật pháp tại thế gian, chẳng thể lìa thế gian mà có. Thế nên biết, người muốn ngộ được lẽ thật của muôn pháp, cũng phải từ muôn pháp mà ngộ,
(Xem: 5542)
Tin nhân quả làm chúng ta an tâm. Sự hợp lý, trật tự, ý nghĩa của một cuộc đời là do nhận thức được và sống theo nhân quả.
(Xem: 8032)
Mười nghiệp lành không những ngăn giữ chúng sanh khỏi bị đọa lạc vào bốn con đường đau khổ, mà còn mở cánh cửa thênh thang hạnh phúc an vui của phước báu nhân thiên sang cả.
(Xem: 6118)
Theo tâm lýkinh nghiệm, việc chọn lựa một tông phái để theo, phần lớn tùy thuộc vào sở thích và môi trường sinh sống của từng người.
(Xem: 5678)
Tất cả các hệ thống giáo lý phong phú của đạo Phật chỉ có một mục đích duy nhất là trình bày phương pháp và đường lối giải thoát,
(Xem: 8827)
Một người đã tin ở luật nhân quả trong đời hiện tại thì cũng phải tin ở luật nhân quả các đời quá khứ, và vị lai.
(Xem: 5857)
"Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sinh ra; nghiệp là quyền thuộc, là nơi nương tựa" .
(Xem: 5768)
Ngày nay phong trào nghiên cứu Phật học không còn bị thu hẹp trong giới Phật giáo mà đã phổ biến vào mọi tầng lớp của xã hội, không phần biệt Tôn giáo.
(Xem: 5276)
Học Phật là học con đường trở về với chân tâm, với Phật tánh—vốn hàm tàng nơi chính mình và tất cả chúng sinh.
(Xem: 6694)
Phật giáo nguyên thủy, xuất phát từ miền nam Ấn Độ, rồi được truyền sang Tích Lan, từ Tích Lan truyền qua Miến Điện, Thái Lan, Campuchia, Lào...
(Xem: 6930)
Sám hối không có nghĩa là hết tội nhưng nó có mãnh lực làm cho tâm mình thanh thản, nhẹ nhàng vì vậy nó giúp ngăn hay chận bớt những ác nghiệp mà mình đã tạo ra.
(Xem: 11050)
Tứ đếgiáo nghĩa cơ bản dùng để giải thích mọi hiện tượng nhân sinh vũ trụ được quy nạp từ thập nhị nhân duyên, là con đường trung đạo duy nhất giải thoát sinh tử luân hồi.
(Xem: 8009)
“Những Điều Phật Đã Dạy” là một trong những quyển sách nói về Phật học bán chạy nhất ở các nước phương Tây, được dịch ra nhiều thứ tiếng...
(Xem: 6041)
Tham sống sợ chết, đó là sự thật của người đời. Thế nhưng tại sao lại giết hại, cắt đứt sự sống của chúng sanh khác?
(Xem: 5379)
Theo nguyên tắc chung, tôi nghĩ rằng tôn giáo của cha mẹ mình là tôn giáo thích nghi nhất cho mỗi người.
(Xem: 7041)
Quan niệm về cái gọi là "đời cha ăn mặn đời con khát nước" cho rằng có một cái gì vô hình lưu truyền cái nhân xấu do đời cha tạo ra và chuyển giao cái quả xấu do nhân xấu mang lại cho con cái.
(Xem: 5973)
Học Phật không phải chỉ biết được lời Phật dạy, biết qua kiến thức suông để đàm luận, lý luận, mà cần phải thực tập, áp dụng vào cuộc sống của mỗi người trong sự nghe thấy, tư duy và hành động.
(Xem: 6417)
Trong Phật Pháp, đức Phật đã chỉ sẵn một phương pháp, một nghệ thuật hay còn gọi là một bí quyết để có một đời sống hạnh phúc, đó là gìn giữ năm giới.
(Xem: 21045)
Vô thườngtính chất căn bản của đời sống; tất cả mọi sự vật sinh ra có điều kiện đều có tính chất của bốn giai đoạn “thành, trụ, hoại, diệt”
(Xem: 5808)
Mỉm một nụ cười, trở về với một hơi thở, bước một bước chân thảnh thơi... cũng có thể là những phép lạ giữa một cuộc sống căng thẳng và quá bận rộn.
(Xem: 7153)
Về phương diện đạo lý, Phật giáo cao hơn các hệ thống đạo đức khác, nhưng đạo đức chỉ là bước đầu chứ không phải cứu cánh của Phật giáo.
(Xem: 8573)
Bát Chánh Đạogiáo lý căn bản của Đạo đế (trong Tứ Đế) gồm ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Đây là những phương tiện hành trì phổ biến sâu rộng chung cho Ngũ thừa Phật giáo.
(Xem: 6872)
Chữ Không của Bát Nhã đứng vững là dựa trên lý nhân duyên, nếu lý nhân duyênchân lý thì chữ Không cũng sẽ là chân lý.
(Xem: 7728)
Đây là 4 pháp, 4 nguyên tắc sống mà tiền thân chư Phật, tức chư Bồ-tát thường áp dụng để nhiếp hóa, cảm hóa chúng sanh...
(Xem: 5369)
Có những người sinh trưởng ở những nơi mà niềm tin về tái sinh là một thành phần trong nền văn hóa của họ.
(Xem: 18598)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14382)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13555)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13533)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11802)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13218)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13641)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13917)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13239)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15011)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16144)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11071)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant