Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chuẩn Mực Đạo Đức Của Phật Giáo

12 Tháng Sáu 201413:27(Xem: 10284)
Chuẩn Mực Đạo Đức Của Phật Giáo

CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC CỦA PHẬT GIÁO

Phước Tâm dịch

blankĐạo đức là một trong những hình thái ý thức xã hội, có khả năng duy trì kỷ cương quốc gia, khiến quốc gia không rối loạn, bảo vệ an toàn cho đời sống nhân dân, xã hội. Lễ giáoTrung Quốc xưa kia lập ra, gọi là “tứ duy bát đức”(1), nhân luân “ngũ thường”, đều là kỳ vọng xây dựng nên một quốc gia thái bình thịnh thế “trung thứ nhân nghĩa” và phép tắc trật tự.

Với Phật giáo, toàn bộ nội dung tư tưởng Phật dạy là lấy con người làm gốc, gắn bó mật thiết với đời sống nhân quần xã hội, như Phật đà từng hướng dẫn phép trị nước cho các vị vua Tần-bà-sa-la, Ba-tư-nặc, A-xà-thế…, đó là “đạo đức chính trị”; Ngài giảng dạy và truyền thụ những nguyên tắc sống chung trong cùng một gia đình cho Thiện Sinh Tử, Ngọc Da Nữ, chính là “đạo đức gia đình”; Phật đà từng dùng thi kệ khuyên dạy cách tiêu xài đồng tiền, đại để nói rằng: vốn liếng, của cải kiếm được của mình nên chia làm bốn phần, một phần gọi là phí dụng hàng ngày trong gia đình, một phần dự trữ để dự phòng nhỡ có xảy ra bất trắc gì, một phần giúp đỡ bà con quyến thuộc hay những thân hữu, một phần bố thí vun đắp phước đức”, chỉ dẫn người đời sử dụng đồng tiền đúng đắn, chính là “đạo đức của cải”.

Chuẩn mực đạo đức Phật giáo, bao hàm các quy phạm luân lý của thế gian, cả đến tu hành thánh hiền xuất thế gian. Nay lược bàn chuẩn mực đạo đức Phật giáo như sau:

Ngũ giới, Thập thiện

Ngũ giới của Phật giáo là “đạo đức căn bản” làm người, nên phải tuân thủ giữ gìn; Thập thiện là “đạo đức tăng thượng” tịnh hóa nội tâm, thăng hoa nhân cách; nhân quả nghiệp báo là “đạo đức thiện ác” bất biến của thế gian. Hình phạt nghiêm khắc, cố nhiên có thể nhận được tác dụng tích cực nhất thời, nhưng vốn không phải là cách làm rốt ráo. Phật giáo lấy Ngũ giới, Thập thiện xem là chuẩn mực đạo đức nhân bản, khởi xướng “chớ làm các việc xấu, hãy làm những việc tốt”, không xâm phạm thân thể, tiền của, danh dự, tôn nghiêm của người khác, sửa đổi triệt để lòng người, khiến nhân luân cương thườngtrật tự, làm cho nếp sống xã hội trở nên lương thiện. Ngũ giới, Thập thiện chính là chuẩn mực đạo đức của Phật giáo.

Giúp đời lợi người

Chư Phật, Bồ tát tùy loại ứng hóa, lợi ích chúng sinh, tinh thần giúp đời lợi người, chính là chuẩn mực phù hợp với Phật giáo. Ở mọi ngành nghề cũng cần có lòng cứu đời giúp người, giống như thầy/cô giáo cần phảitrách nhiệm “giảng dạy, truyền đạt kiến thức, giải thích các vấn đề nghi hoặc”; nhân viên điều dưỡng cần có đạo đức cứu đời “thị bệnh như thân, cứu nhân nhất mạng”; công nhân cần tích cực làm việc, lấy sản xuất báo ơn quốc gia; thương nhân cần mua bán kinh doanh hợp pháp, không được lấy của cải không phải của mình; quân nhân vì bảo vệ sự an toàn cho nhân dân toàn quốc, phải anh dũng chiến đấu, chống lại sự xâm lược của kẻ thù. Cũng chính là, mỗi một người, có thể xả bỏ sự cố chấp ích kỷ, noi theo tinh thần cổ đức tiên hiền, tức “lo trước nỗi lo của thiên hạ, vui sau niềm vui của thiên hạ”, hay tinh thần Bồ tát “nếu còn một người chưa độ, thì bản thân nhất định không được lẩn trốn”, để giúp đời lợi người. Giúp đời lợi người chính là chuẩn mực đạo đức của Phật giáo.

Bát nhã không tuệ

Bồ tát lấy Lục độ(2) làm chiếc thuyền để tự độ và độ người. Điều mà người ta gọi là “Ngũ độ(3) như mù, Bát nhã như mắt sáng”, nghĩa là, chúng ta nếu khôngbát nhã trí tuệ nhạy bén, thì cho dù có hành trì (Ngũ độ) bao nhiêu, vẫn là nằm trong vòng phước báo hữu vi không sao tránh khỏi năm biểu hiện của tướng suy(4), không phải là con đường giải thoát niết bàn chân chính. Ví dụ, sự bố thí của Phật giáo là muốn con người học tập buông bỏ tư niệm bủn xỉn, keo kiệt, nhưng nơi đến bố thí, cần phải thanh tịnh, không được vi phạm pháp luật nhà nước, đồng thời người bố thí tâm không kiêu căng, ngạo mạn, người được nhận phải biết cám ơn, là sự bố thí thanh tịnh “năng thí, sở thí và vật thí, vô sở đắc - không mong cầu trong tam thế - quá khứ, hiện tại và tương lai; tâm tối thắngchúng ta an trú, cúng dường tất cả mười phương Phật”. Ngoài ra, trì giới không sát sinh, không nói dối, không tà dâm, không trộm cắp, không uống rượu, v.v… cố nhiên là giáo pháp của Phật (Phật pháp), nhưng “giết một cứu một trăm”(5) của Phật đà, “uống rượu cứu người”(6) của phu nhân Mạt-lợi, chuyện “xử lý (tình huống) ở rể”(7) của Hòa thượng Nhất Hưu, “đốt Phật sưởi ấm”(8) của Thiền sư Đan Hà, “dạy tên trộm cách ăn trộm”(9) của Thiền sư Thạch Ốc, v.v…, cũng đều là Phật pháp. Từ bi dịu dàng cũng là Phật pháp, nhưng những tiếng va đập chát chúa của gậy, tiếng quát mắng, tiếng nện gõ của chiếc kìm, khiến cho học tăng tiệt đoạn vọng tưởng (mơ mộng hão huyền), nhận biết bản lai diện mục (diện mạo vốn có), cũng là từ bi. Vì vậy, Phật pháp, có lúc không phải là Phật pháp; không phải là Phật pháp, có lúc lại là Phật pháp. “Bát nhã không tuệ” của Bồ tát, có khả năng làm cho chúng ta bố thí mà vẫn hỷ xả không nghĩ đến sự bố thí, trì giớikhông chấp vào giới tướng, nhẫn nhục xa rời ngã chấp, tinh tiến không sinh kiêu mạn, tu thiền không lưu luyến định cảnh.

Kinh Kim Cang nói: “Tâm Bồ tát hành bố thí mà không trụ ở pháp, như người có mắt, nhật quang chiếu rọi, thấy muôn vàn sắc màu”. Đã có Bát nhã không tuệ tợ đôi mắt sáng rồi, thì việc ứng xử tự nhiênthể không còn tâm so sánh “bạn lớn tôi nhỏ, bạn có tôi không, bạn sướng tôi khổ” nữa; Bát nhã không tuệ cũng giống như “từ mẫu” (người mẹ hiền), đối đãi tất cả chúng sinh như những đứa con ruột thịt, đối với những khó khăn gian khổ ấy tự nhiên có sự đồng cảm không lìa xa; Bát nhã cũng giống như “ánh sáng” trong căn phòng tăm tối, có thể chiếu soi màn đêm vô minh đang cư ngụ trong con tim diệu vợi của chúng ta, làm tan biến những đối xử phân biệt, tâm không bị khổ lạc làm nao núng, chuyển phàm tình (tình cảm thế gian) chấp trước thành tình yêu rộng lớn (từ bi) đối với chúng sinh. Bát nhã có khả năng tịnh hóa tư tưởng của chúng ta, nâng cao đạo đức của chúng ta, một khi có Bát nhã không tuệ, thì vui-khổ là đồng thể, sạch-nhơ là nhất như, giàu-nghèo có thể tự tại, có-không có thể bình đẳng, như trong kinh Bát Đại Nhân Giác nói: “Tâm niệm luôn biết đủ, an vui cảnh nghèo giữ đạo, lấy trí tuệ làm sự nghiệp”. Hàng phục tâm ấy (kỳ tâm) như thế bằng Bát nhã không tuệ, “tất cả muôn loài chúng sinh, đều khiến đi vào Vô dư Niết bàn mà diệt độ”. Bát nhã không tuệ đích thực là chuẩn mực đạo đức của Phật giáo.

Chuẩn mực đạo đức của Phật giáo, lấy quy tắc (quy phạm) Ngũ giới Thập thiện, hoàn thiện nhân cách; lấy việc cứu đời giúp người của thánh hiền, để thăng hoa đạo đức; lấy Bát nhã không tuệ của Bồ tát, để minh tâm kiến tánh. Thêm nữa, trong cuộc sống hiện thực, tam học giới định tuệ, bốn loại chính niệm, tám loại chính đạo, cũng là lương dược có khả năng trị liệu căn bệnh thâm căn cố đế tham lamsân hận của chúng ta, có khả năng khiến cho thân tâm chúng ta thanh tịnh, đạo đức đạt đến viên mãn. Luận một cách ngắn gọn rằng, phàm xuất phát tình yêu rộng lớn từ lợi ích cộng đồng, đồng thời không đi ngược với lễ pháp (phép tắc, kỷ cương) của thế giantinh thần đại thừa nhiêu ích hữu tình của Bồ tát, thì đều phù hợp với chuẩn mực đạo đức của Phật giáo. Ví dụ: Bố thí kết duyên, không nhớ nghĩ điều ác cũ, hổ thẹn mỹ đức, giữ gìn lục căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý), “bạn chưa mời mà tự đến”(10), phương tiện quyền xảo, lợi lạc hữu tình (làm lợi ích cho chúng sinh), phổ đồng cúng dường (cúng dường, bố thí rộng khắp cho tất cả chúng sinh), bốn ơn phải báo đáp(11), hoằng pháp lợi sinh, tôn trọng bao dung, tâm ý dịu dàng ôn hòa, ái ngữ ngợi khen, giữ gìn chính niệm, v.v..., đều là chuẩn mực đạo đức thanh tịnh thiện mỹ của Phật giáo. Ngoài ra, học tập đại từ, đại bi, đại trí, đại nguyện, đại hạnh của Phật và Bồ tát, phát Bồ đề tâm, không quăng bỏ sự cứu độ chúng sinh đang trôi lăn trong ngũ nghịch(12) thập ác(13), đây chính là đạo đức viên mãn, cứu cánh nhất của Phật giáo. 

(Theo Tinh Vân, Phật học giáo khoa thư, Nxb. Từ Thư Thượng Hải, 2008, tr.97-99)

---------------

Các chú thích 5, 6, 7, 8 và 9 là của nguyên tác. Phần chú thích còn lại, là do người dịch thêm vào.

(1) Tứ duy, chỉ: lễ, nghĩa, liêm và sỉ; Bát đức, chỉ: trung, hiếu, nhân, ái, tín, nghĩa, hòa và bình.

(2) Lục độ gồm: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định và bát nhã/trí tuệ.

(3) Ngũ độ gồm: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiếnthiền định

(4) Thiên nhân lúc sắp chết, thì hiện ra năm tướng suy. Về thuật ngữ này, trong kinh luận Phật giáo thấy có nhiều thuyết khác nhau. Ở đây, chúng tôi chỉ dựa vào kinh Niết bàn liệt kê năm tướng suy đó như sau: Một là, y thường cấu nhị, tức y phục dơ bẩn; hai là, đầu thượng hoa ủy, tức cái mũ hoa trên đầu khô héo; ba là, thân thể xú uế, tức thân thể có mùi hôi; bốn là dịch hạ hãn xuất, tức nách chảy mồ hôi; năm là, bất lạc bổn tọa, tức chỗ ngồi không vui.

(5) Xem Sát thân tế cổ kinh trong Lục độ tập kinh.

(6) Xem Chân chính đích giới luật trong “Tu tiễn sinh mệnh đích hoang vu”, Thời báo Văn hóa xuất bản, tr.140,

(7) Xem Tinh Vân Thiền thoại (tập 2), Phật Quang Văn Hóa xuất bản, tr.84.

(8) Xem Cảnh đức truyền đăng lục, quyển 14 in trong Thiền tạng thuộc Phật Quang đại tạng kinh, tr.733.

(9) Xem Tinh Vân Thiền thoại (tập 1), Phật Quang Văn Hóa xuất bản, tr.160.

(10) Nguyên văn là Bất thỉnh chi hữu - 不請之友, ý ví như chư Bồ tát, chúng sinh khi gặp nạn chưa kịp khẩn cầu, nhưng các Ngài vì lòng thương yêu rộng lớn mà đến hóa độ, trao truyền thiện pháp.

(11) Chúng ta sinh tồnthế gian này, những ơn đứcchúng ta tiếp nhận, chủ yếu có bốn loại: ơn cha mẹ, ơn chúng sinh, ơn quốc gia, và ơn Tam bảo, hợp lại gọi chung là Tứ ân tổng báo, tức bốn ơn đó cần báo đáp.

(12) Ngũ nghịch là tội nặng nhất trong tất cả ác nghiệp của Phật giáo. Nghịch, nghĩa là trái với luân thường đạo lý, tội cực lớn. Năm tội ấy được Phật liệt kê như sau: Giết cha, giết mẹ, giết bậc A-la-hán, làm thân Phật chảy máu, phá hoại hòa hợp Tăng. Người mắc năm tội này, sẽ rơi vào Vô gián địa ngục (cũng gọi là Địa ngục A-tỳ).

(13) Thập ác gồm: (1) sát sinh, (2) thâu đạo (trộm cắp), (3) tà dâm, (4) vọng ngữ, (5) lưỡng thiệt, tức nói lời ly gián, lời không có tính xây dựng, (6) ác khẩu, tức ác ngữ, ác mạ, chửi bới, (7) ỷ ngữ, tức lời tạp uế, (8) tham dục, (9) sân nhuế (sân hận/căm ghét), (10) tà kiến, tức cái nhìn lệch lạc.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 16523)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13128)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12573)
Chữ A tỳ đạt ma luận thường để chỉ các luận thư của các bộ phái, chứ không dùng cho các luận thư Đại thừa. Abhidharma, Trung Hoa dịch âm là A tỳ đàm, A tỳ đạt ma, và dịch nghĩa là Vô tỷ pháp, Thắng pháp, Đối pháp.
(Xem: 13437)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11587)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14141)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17644)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22275)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13344)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 15418)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 15946)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11265)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15564)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 13049)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 21755)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 15982)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 18970)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24593)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 17475)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 16968)
Kinh Hoa Nghiêm phát xuất từ Ấn Ðộ, nhưng được phát triển mạnh ở Trung Quốc, Nhật Bản... HT Thích Trí Quảng
(Xem: 18432)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 18877)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18652)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 14295)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Số 2072, nguyên tác: Minh Châu Hoằng; Nguyên Lộc Thọ Phước
(Xem: 22906)
Chứng Đạo Ca - Nguyên tác: Huyền Giác; Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn, sáng tác những năm tháng từ 1980 - 1990, lúc Ngài đang bị quản thúc.
(Xem: 28208)
Duy Thức Tam Thập Tụng (唯 識 三 十 頌) Tài Liệu Học Tập Lớp Cao Học Triết của Đại Học Văn Khoa Viện Đại Học Vạn Hạnh, Niên Khóa: 1972-1973... HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 15067)
Luận Giải Trung Luận: Tánh Khởi và Duyên Khởi - Hồng Dương Nguyễn Văn Hai do Ban tu thư Phật học Viện Cao Đẳng Hải Đức ấn hành
(Xem: 13572)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Kinh số 2031 - Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 16250)
Luận Du Già Sư Địa (Phạn: Yogacàrabhùmi – sàtra), tác giảBồ tát Di Lặc (Maitreya) thuyết giảng, Đại sĩ Vô Trước (Asànga) ghi chép, Hán dịch là Pháp sư Huyền Tráng (602 -664)... Nguyên Hiền
(Xem: 142965)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
(Xem: 16204)
Giới là nguồn cội của hết thảy Thiện pháp, là nền tảng của Tam vô lậu học và mọi quả vị Giải thoát... Nguyên tác: Lý Viên Tịnh; Thích Giác Quả dịch
(Xem: 17288)
Tập Tổng quan kinh Đại Bát Niết-bàn này được chúng tôi biên soạn như một phần trong công trình dịch thuật và chú giải kinh Đại Bát Niết-bàn... Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 47251)
Bấy giờ, năm trăm công tử Ly-xa, dẫn đầu bởi Bảo Tích (Ratnākāra), mỗi người mang theo một cây lọng quý, biểu hiệu quyền quý, đến vườn Xoài cúng dường Phật... Tuệ Sỹ
(Xem: 38920)
Trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15685)
“Vũ trụ vạn hữu bản thể luận” của Định Hy là một kiến giải nhân sinh vũ trụ trên hai phương diện bản thểhiện tượng, tuy vậy không rời tính thực dụng của Phật pháp trong đời sống tu tập... Thích Đức Trí
(Xem: 22936)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 16650)
Bản nầy thứ tự kinh văn số 1726 được khắc vào đời nhà Minh Vạn Lịch -Trung Quốc - và đang lưu trữ tại Báo Ân Tạng thuộc chùa Jojoji - Tăng Thượng tự - Tokyo, Nhật Bản... HT Thích Như Điển
(Xem: 14183)
Du Già Sư Địa Luận Thích - Trước tác: Bồ Tát Tối Thắng Tử; Hán dịch: Tam-Tạng Pháp Sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích Tâm Châu
(Xem: 13783)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, thuộc Luận Tập bộ toàn. Thứ tự kinh văn số 1663 (562-563)... HT Thích Như Điển
(Xem: 17065)
Tác Giả: Tăng Triệu Ðại Sư - Lược Giải: Hám Sơn Ðại Sư; Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 14220)
Toàn thể đại dụng, thu nhiếp xưa nay ngay trên đường; dứt trí tuyệt ngu, vật và ta ngang bằng nơi kiếp ngoại ... HT Thích Thiện Siêu
(Xem: 16809)
Luận về Pháp Hoa Kinh An Lạc Hạnh Nghĩa - Phiên dịch, chú giải: Daniel B. Stevenson & Hiroshi Kanno - Phiên dịch, thi hóa: Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm
(Xem: 27780)
Bộ kinh Lăng Nghiêm Tông Thông này được Ngài Thubten Osall Lama, tức Nhẫn Tế thiền sư, Đức Sơ Tổ Tây Tạng Tự, dịch và chú thích thêm từ bản Hán văn sang Việt văn...
(Xem: 49972)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 38296)
Sách này thâu kết lời giảng của đức Đalai Lama về bài kinh ngắn mang tựa đề Bát Nhã Tâm Kinh, một trong những bộ kinh Phật giáo Ðại thừa quý giá nhất.
(Xem: 28425)
Trọng tâm cứu khổ của Ngài Quán Thế Âm nhằm giải thoát sự khổ tâm, khổ tinh thần. Một khi con người đã giải thoát khổ tinh thần thì thân thể sẽ lành mạnh.
(Xem: 51948)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 35687)
Địa Tạng Bồ Tát Bản Tích Linh Cảm Lục - Liêu Nguyên dịch, Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 32745)
Kinh Kim Cương lấy vô tướng làm tông, vô trụ làm thể, diệu hữu làm dụng. Từ khi Bồ-đề Đạt-ma đến từ Tây Trúc truyền trao ý chỉ kinh này khiến người đời ngộ lý đạo, thấy tính.
(Xem: 50608)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 63455)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 49477)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 56807)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47343)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39242)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38332)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 36433)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32100)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 46469)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 39873)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant