Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tam BảoThế Gian

27 Tháng Tư 201509:50(Xem: 5883)
Tam Bảo Ở Thế Gian
TAM BẢOTHẾ GIAN

Thích Đức Trí


Tam Bảo Ở Thế Gian1- Sự xuất hiện của Tam Bảo
2- Nguyên nhân gây thương tổn Đạo Pháp
3- Thái độ sống của Người học Phật
4- Quy Y Tam Bảo
5- Tiêu chí phụng sự Tam Bảo

1. Sự xuất hiện của Tam Bảo:

Sau khi thành đạo dưới cội bồ đề, Đức Phật đến vườn Lộc Uyển thuyết pháp cho những người bạn đồng tu, là năm anh em Tôn Giả Kiều Trần Như. Như vậy, lần đầu tiên trên thế gian đã xuất hiện Ba Ngôi Tam Bảo. Dù người xuất gia hay tại gia bước đầu đến với Đạo Phật đều thực hiện pháp Quy Y Tam Bảo. Quy là trở về, Y là nương tựa, tức là hướng tâm linh của mình trở về với ba ngôi báu, đó là Phật, Pháp và Tăng. Tự thân Tam Bảo trong sáng tốt đẹp, là căn nhà an ổn giải thoát nhất cho mọi ngườithế gian. Đạo Phật không chỉ riêng một phạm vi quốc gia nào, một chế độ nào, hay một giai cấp nào. Bất cứ ai tự nguyện phát tâm Quy Y Tam Bảo, phát Bồ Đề Tâm đều là thuộc thành tố của Tam Bảo. Không cần ai khoác lên Tam Bảo một chiếc áo sặc sỡ để che đậy quan điểm lệch lạc, cực đoan mà mệnh danh là bảo vệ sự trường tồn của chánh pháp. Xưa và nay, Đạo Phật luôn luôn là đạo xuất thế, vượt ngoài ước lệ thế gian mà vẫn luôn cứu khổ ban vui cho con người, lấy trí tuệ làm mục đích của sự giải thoát, đó là pháp truyền thống của Đức Phật. Tam Bảo hưng thịnh là phước báo cho khắp chốn trời người và pháp giới chúng sanh nói chung.

2. Nguyên nhân gây thương tổn Đạo Pháp:

Hoàn cảnh xã hội chi phối rất mạnh đến Đạo Pháp, trong một thời đại mà ánh sáng đạo đức bị vùi dập, với một chủ thuyết độc tàitham vọng, con người sống trong sợ hãibảo thủ, sống trong nghi ngờ và thù hận. Từ đó họ che đậy tiếng nói tự do của nền đạo lý nhân bản của Đức Phật. Qua lịch sử chúng ta thấy có nhiều xứ sở trên trái đất này, người ta vì bài xích tôn giáo, bảo vệ chủ thuyết mà đập chùa, phá tượng, chà đạp chư Tăng và làm hư hoại bản thể Tăng già. Dù ở cộng đồng nào, hay quốc gia nào đạo lý không được gìn giữ thì chất liệu tình thươngtrí tuệ bị xóa mờ, làm cơ hội cho ngọn lửa vô minh và thù hận cháy lan ra khắp cả lòng người. Đó sẽ là động lực mạnh mẽ đưa đến nghiệp báo chung mà con người phải gánh chịu như: chiến tranh, thù hận, tai ương bảo lụt, bệnh dịch v.v… Điều tệ hại nhất có thể xảy ra, là tự con người vô tình hay cố ý cột chặt tôn giáo với chính trị, biến thành những mâu thuẩn phức tạp trong cộng đồng xã hội, làm con người khó tiếp nhận bản chất trong sáng của Đạo Phật.

Dù là xuất gia hay tại gia, thường niệm pháp Quy Y trong đời sống, lấy Tam Bảo làm mục đích làm lợi ích cho Dân Tộc và cho cả chúng sinh. Điều đó các nhà lãnh đạo tôn giáo, hay tín đồ phải có cái nhìn tổng quát, có sự hy sinh cao thượng, giữ gìn hình ảnh trong sáng của Tam Bảo trong cuộc đời. Tổ chức Phật Giáo chân chính là không lệ thuộc vào thế lực vương quyền hay tổ chức chính trị, vì chính Đức Phật là người đầu tiên rời bỏ vương quyền và chính trị để tu đạo. Từ xưa cho đến nay chỉ có các thế hệ vua chúa, hay quan chức lãnh đạo trong quốc gia đều từ bỏ địa vị công danhcầu đạo. Đức Phật cũng không cho phép đệ tử xuất gia của Ngài nhận một địa vị hay chức quyền trong một tổ chức chính trị xã hội. Dù ở hoàn cảnh nào, Đức Phật và các vị Cao Tăng luôn luôn là ở vị trí một người hướng đạo thoát tục, như là một vị Quốc sư để đóng góp tư tưởng giải thoát vào lòng Dân Tộc. Các ngài không quỵ lụy trước sức mạnh của địa vị công danh mà luôn thể hiện tình thương bình đẳng, dùng giáo lý giải thoát để hóa độ.

3- Thái độ sống của Người học Phật:

Khi một người đã quy y Tam Bảo không nhận thức tầm quan trọng của nền đạo đức được xây dựng từ giới luật Phật Giáo, cho dù có nỗ lực muốn bảo vệ đạo Pháp cũng là một điều thiếu sót lớn. Đôi lúc do sự nhiệt huyết mà thiếu trí tuệ biến thành sự rối loạn trong tổ chức. Thực tế do bất đồng quan điểm hành đạo sinh ra mâu thuẩn trong tổ chức Tăng Đoàn, từ đó dẫn đến băng hoại niềm tin tín đồ, gây tổn thương đến Đạo Pháp.

Phật Giáo luôn lấy hạnh phúc con người làm mục đích hoằng pháp. Trước một chế độ không yêu chuộng Phật Giáo, hay một thế lực ngoại đạo cực đoan luôn hủy báng Tam Bảo, trong hoàn cảnh đó, đánh trả quyết liệt bằng võ lực ư? Nuôi lòng thù hận ư? Khoanh tay ngồi nhìn ư? Nếu đã quy y Tam Bảo rồi bạn phải làm gì?

Đánh trả quyết liệt bằng vũ lực thì không thể xảy ra, vì Đạo Phật vào đời bằng giáo pháp từ bitrí tuệ chứ không mang theo một vũ khí nào.

Khởi lòng căm thù thì càng không đúng vì bản chất Đạo Phật là loại trừ Tham, Sân, Si.

Khoanh tay ngồi nhìn thì cũng không phải, vì lý tưởng của Đạo Phật là chia sẻ nỗi khổ đau của dân tộc và nhân loại. Cụ thể Đức Phật là người đầu tiên lên tiếng nói bình đẳng, phủ nhận sự phân biệt giai cấp tại xứ Ấn Độ.

Đạo Phật không thiết lập tổ chức tôn giáo thông qua con đường chính trị, hay dùng thủ đoạn võ lực để ép người vào tôn giáo mình. Người đã quy y Tam Bảo luôn sống bằng trí tuệ để không bị đánh lừa bởi những quan điểm sai lạc. Dù ở trong hoàn cảnh nào, người học Phật luôn hành xử cho phù hợp khế lý và khế cơ. Khế lý là tiếng nói phù hợp với chân lý, khế cơ là tiếng nói phù hợp với căn cơ của chúng sanh.

Muốn mọi người tin nhận Tam Bảo, trước hết mở rộng tầm nhận thức về giá trị của Đạo Phật. Đừng thất vọngsân hận khi họ chưa theo mình, đặc biệt khi họ chưa biết mình là ai. Hãy nghe Đức Phật dạy: “Này các Kalamas, chớ có tin vì nghe truyền thuyết, chớ có tin vì theo một lập trường, chớ có tin vì đánh giá hời hợt các dữ kiện, chớ có tin vì phù hợp với các định kiến, chớ có tin vì phát xuất nơi có uy quyền, chớ có tin vì vị sa môn là bậc đạo sư của mình. Này Kalamas, khi nào các ngươi biết rằng những việc này là tốt, những việc này là thiện, những việc này được mọi người tán thán. Những việc này nếu thuận theothực hành sẽ mang lại lợi ích tốt đẹp thì các ngươi hãy chấp nhận chúng” (HT.Thích Minh Châu, Trường Bộ kinh I, Kinh Kalamas).

Đạo Phật chủ trương đấu tranh ôn hòacương quyết trên tinh thần bất bạo động. Đó không phải là thái độ nhu nhược mà là phong cách trí tuệ, chứa đựng sức mạnh của lòng kiên trì của người giữ gìn chân lý, không phải bằng thái độ phản ứng bồng bột nhất thời trước một bối cảnh nào đó. Đức Phật dạy rằng:

“Với hận diệt hận thù,
Đời này không có được.

Không hận diệt hận thù,

định luật ngàn thu.” (HT Minh Châu dịch, Kinh Pháp cú)

Thực tế, vì những lý do nào đó nền đạo lý Từ Bi không được xã hội tôn vinh, mặc dù Phật giáo có khả năng đóng góp tích cực cho đời sống con người qua nhiều thế hệ. Tình trạng này đưa đến công tác giáo dục tri thức đạo lý bị hạn chế, trong xã hội có nhiều tội phạm, đó là điều đáng ưu tư nhất. Đạo Phật là đạo của sự thật, xuất phát từ sự thấy biết tường tận về nguyên lý nhân quảĐức Phật thuyết minh cho thế gian chứ không phải là lời dọa dẩm mang tính giáo điều. Ngài thường giáo huấn tường tận các đệ tử của mình tìm về hạnh phúc thông qua con đường tu tập thiện nghiệp. Nếu làm điều xấu ác chắc chắn sẽ nhận lấy quả báo khổ đau:

“Ý dẫn đầu các pháp,
Ý làm chủ, ý tạo;

Nếu với ý ô nhiễm,

Nói lên hay hành động,
Khổ não bước theo sau,
Như xe chân vật kéo.”(HT Minh Châu dịch, Kinh Pháp Cú)

Nhân quả theo nhau như bóng với hình, nếu làm một hành động với tâm sân hận để hủy báng Tam Bảo, xem nhưche khuất ngọn đèn chánh Pháp của Phật trong cuộc đời. Một trong những tội báo nặng nề được Đức Phật nhấn mạnh là tội hủy báng Tam Bảo. Cho nên người học Phật cần phải thận trọng khi bày tỏ quan điểm của mình về những vấn đề Phật sự. Phải biết lắng nghe để nhận rõ mọi trường hợp đúng sai, từ đó có lập trường đúng đắn trong vấn đề tu tậpphụng sự đạo Pháp.

3. Quy Y Tam Bảo:

Khi Quy Y Tam Bảo rồi, phải biết thân mạng là vô thường, thế gian là cỏi tạm, nổ lực đoạn trừ tham lamchấp trước để hướng đến giải thoát. Tấm thân mà ta yêu quý suốt cuộc đời, rồi cũng biến thành tro bụi. Tài sản tích trữ một đời người, khi lìa trần không mang theo được. Những người thân yêu như cha mẹ, vợ chồng con cái không đi theo ta về thế giới khác được. Chúng ta chỉ mang theo cái nghiệp thức xấu hoặc tốt mà quyết định cảnh giới giải thoát hay khổ đau. Cho nên mọi người cần phải sớm phát bồ tâm để phụng sự Tam Bảo.

Bồ Đề Tâm là tâm hướng đến lý Quy Y Tam Bảo, làm bất cứ hành động nào cũng nghĩ đến lợi ích của tha nhân, khế hợp hai yếu tố từ bitrí tuệ. Nếu tâm chúng tatình thương rộng lớn, thì dẫn đến năng lực tạo công đức rộng lớn. Dấu hiệu của tâm Bồ Đề khai phát là bất cứ một hành động nào với tâm niệm thanh tịnh thì công đức cũng biến khắp pháp giới, trên nguyên lý “Một có trong tất cả, tất cả có trong một”. Nếu chúng ta sống trong tỉnh giác, một giọt nước mắt của em bé đang chảy vì thiếu ăn, một cụ già cô đơn rên rĩ bên vỉa hè nào đó cũng là nỗi xót xa trong lòng mình. Một đóa hoa nở bên đường, hay một nụ cười tươi của đứa trẻ cũng góp cho mình sự hạnh phúc, đáng chắp tay để nói lời tri ân. Một cọng cỏ rung bên kia cánh rừng xa xôi nào đó cũng có mặt trong tâm ta. Vũ trụ rộng lớn nhưng không ngoài một Tâm, con ngườithế giới khách quan “Không phải một mà không phải khác”. Từ nhận thức như thế, chúng ta thấy Đạo Phật rất đẹp, Tam Bảo rất là cao quý, giúp ta mở rộng cỏi lòng đối với con ngườivạn vật.

4. Tiêu chí phụng sự Tam Bảo:

Thực hiện tôn chỉ Đạo Phật truyền thốngtu tập Giới Định Tuệ để đối trị Tham Sân Si. Căn bảngiáo dục chư TăngPhật tử tôn trọng giá trị với quy củ tự viện theo giới luật Phật chế. Giới luật của Phật Giáo không phải là sự ràng buộc mà là sự bảo hộ cho đời sống chúng ta không bị phiền não. Đó là kim chỉ nam để hướng chúng ta đến cuộc sống Chân Thiện Mỹ. Đó là liều thuốc quý nuôi dưỡng thân tâmnếp sống hạnh phúc ngay trong đời này. Đó là con đường duy nhất đem đến sự lợi ích cho Tăng NiTín Đồ hướng giải thoát giác ngộ. Vì con đường Giới Định Tuệ là nền tảng của các pháp môn tu tập trong Đạo Phật.

Tổ chức Tăng đoàn theo nguyên tắc giới luật để thích ứng với nhu cầu tu học thiết thực của chư Tăng. Bất cứ một tổ chức giáo hội hay một tự viện nào mà không phát triển công tác giáo dục tri thức Phật họcxây dựng tinh thần giải thoát thông qua sự tu học thì sẽ trái ngược với tôn chỉ của Đạo Phật, không đem sự nương tựa xứng đáng cho chư TăngTín đồ.

Giải quyết tình trạng phụng sự Tam Bảo từ vấn đề lý tưởnghiện thực hoàn toàn đối lập. Cụ thểlý tưởng tốt đẹp được mọi người ưa chuộnghiện thực chưa đem được lợi ích lớn cho Đạo Pháp. Đây là vấn đề Tăng NiPhật tử phải suy xét tường tận mọi phương pháp cụ thể để đưa Đạo Phật vào trong mọi hoàn cảnh xã hội một cách thiết thực. Nguyện cầu chư Phật gia hộ cho thiền môn nghiêm tịnh, Tăng già hòa hợp, thất chúng câu hội đồng tu, đạo Pháp trường tồn, thế giới hòa bình, và chúng sanh an lạc.

Chùa Tam Bảo, Mùa Vu Lan 2008

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18513)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25070)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23718)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28860)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20802)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31407)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25489)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29640)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22436)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25659)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23200)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25693)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23670)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40553)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23296)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22377)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22031)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23452)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 24256)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41022)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 18910)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20426)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27679)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38040)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 24422)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22624)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26471)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 53453)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23534)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21023)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 30783)
"Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngã uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách. Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc..."
(Xem: 20999)
Từ trước đến nay, nhiều người đã giảng rộng về Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, nhưng chưa có vị nào giảng giải về chú Đại Bi. Thực vậy, rất khó giảng giải về chú Đại Bi.
(Xem: 38706)
Phật giáo được sáng lập trên cơ sự tự giác của đức Thích Ca, tuy có chỗ siêu việt các tư tưởng nhất ban, nhưng cũng có nhiều điểm thừa thụ nền tư tưởng cố hữu của Ấn Độ mà phát đạt...
(Xem: 20480)
Sự tập thành của Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) có lẽ là do ở một cuộc biến chuyển đã thành hình trong tâm trí của Phật tử đối với cuộc sống, với cõi đời, và nhất là với đức Phật.
(Xem: 20510)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 26991)
Đời nhà Đường, ngài Tam Tạng pháp sư tên là Huyền Trang tạo ra bài luận này. Ngài Huyền Trang sau khi dịch kinh luận về Duy Thức tôn, lại tạo ra Duy Thức luận...
(Xem: 28031)
Kinh Thập Thiện tuy ngắn gọn, nhưng rất thiết yếu đối với người tu tại gia cũng như người xuất gia. Cư sĩ tại gia khi thọ Tam qui và nguyện giữ Ngũ giới
(Xem: 37049)
Đạo Phật là đạo giác ngộ, toàn bộ giáo lý của Phật dạy đều nhằm đánh thức con người sớm được giác ngộ. Mê lầm là cội nguồn đau khổ, chỉ có giác ngộ mới cứu được mọi khổ đau của chúng sanh.
(Xem: 55107)
Hệ Bát-nhã là một bộ phận trọng yếu trong Tam tạng Thánh giáo, cánh cửa thật tướng mở toang từ đó, chân trời Tánh Không, kho tàng pháp bảo cũng toàn bày nơi đó...
(Xem: 37912)
Ngày nay tai nạn binh lửa lan tràn khắp thế giới, đó là do nghiệp sát của chúng sanh chiêu cảm. Vì thế nên cổ đức đã bảo: "Tất cả chúng sanh không nghiệp sát. Lo gì thế giới động đao binh!"
(Xem: 14475)
Đại Bát Niết Bàn Kinh Trực Chỉ Đề Cương - HT Thích Từ Thông biên soạn
(Xem: 10601)
Tác giả: Bồ tát Long Thọ (Nàgàrjuna) Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập Việt dịch: Thích Viên Lý
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant