Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tam BảoThế Gian

27 Tháng Tư 201509:50(Xem: 5839)
Tam Bảo Ở Thế Gian
TAM BẢOTHẾ GIAN

Thích Đức Trí


Tam Bảo Ở Thế Gian1- Sự xuất hiện của Tam Bảo
2- Nguyên nhân gây thương tổn Đạo Pháp
3- Thái độ sống của Người học Phật
4- Quy Y Tam Bảo
5- Tiêu chí phụng sự Tam Bảo

1. Sự xuất hiện của Tam Bảo:

Sau khi thành đạo dưới cội bồ đề, Đức Phật đến vườn Lộc Uyển thuyết pháp cho những người bạn đồng tu, là năm anh em Tôn Giả Kiều Trần Như. Như vậy, lần đầu tiên trên thế gian đã xuất hiện Ba Ngôi Tam Bảo. Dù người xuất gia hay tại gia bước đầu đến với Đạo Phật đều thực hiện pháp Quy Y Tam Bảo. Quy là trở về, Y là nương tựa, tức là hướng tâm linh của mình trở về với ba ngôi báu, đó là Phật, Pháp và Tăng. Tự thân Tam Bảo trong sáng tốt đẹp, là căn nhà an ổn giải thoát nhất cho mọi ngườithế gian. Đạo Phật không chỉ riêng một phạm vi quốc gia nào, một chế độ nào, hay một giai cấp nào. Bất cứ ai tự nguyện phát tâm Quy Y Tam Bảo, phát Bồ Đề Tâm đều là thuộc thành tố của Tam Bảo. Không cần ai khoác lên Tam Bảo một chiếc áo sặc sỡ để che đậy quan điểm lệch lạc, cực đoan mà mệnh danh là bảo vệ sự trường tồn của chánh pháp. Xưa và nay, Đạo Phật luôn luôn là đạo xuất thế, vượt ngoài ước lệ thế gian mà vẫn luôn cứu khổ ban vui cho con người, lấy trí tuệ làm mục đích của sự giải thoát, đó là pháp truyền thống của Đức Phật. Tam Bảo hưng thịnh là phước báo cho khắp chốn trời người và pháp giới chúng sanh nói chung.

2. Nguyên nhân gây thương tổn Đạo Pháp:

Hoàn cảnh xã hội chi phối rất mạnh đến Đạo Pháp, trong một thời đại mà ánh sáng đạo đức bị vùi dập, với một chủ thuyết độc tàitham vọng, con người sống trong sợ hãibảo thủ, sống trong nghi ngờ và thù hận. Từ đó họ che đậy tiếng nói tự do của nền đạo lý nhân bản của Đức Phật. Qua lịch sử chúng ta thấy có nhiều xứ sở trên trái đất này, người ta vì bài xích tôn giáo, bảo vệ chủ thuyết mà đập chùa, phá tượng, chà đạp chư Tăng và làm hư hoại bản thể Tăng già. Dù ở cộng đồng nào, hay quốc gia nào đạo lý không được gìn giữ thì chất liệu tình thươngtrí tuệ bị xóa mờ, làm cơ hội cho ngọn lửa vô minh và thù hận cháy lan ra khắp cả lòng người. Đó sẽ là động lực mạnh mẽ đưa đến nghiệp báo chung mà con người phải gánh chịu như: chiến tranh, thù hận, tai ương bảo lụt, bệnh dịch v.v… Điều tệ hại nhất có thể xảy ra, là tự con người vô tình hay cố ý cột chặt tôn giáo với chính trị, biến thành những mâu thuẩn phức tạp trong cộng đồng xã hội, làm con người khó tiếp nhận bản chất trong sáng của Đạo Phật.

Dù là xuất gia hay tại gia, thường niệm pháp Quy Y trong đời sống, lấy Tam Bảo làm mục đích làm lợi ích cho Dân Tộc và cho cả chúng sinh. Điều đó các nhà lãnh đạo tôn giáo, hay tín đồ phải có cái nhìn tổng quát, có sự hy sinh cao thượng, giữ gìn hình ảnh trong sáng của Tam Bảo trong cuộc đời. Tổ chức Phật Giáo chân chính là không lệ thuộc vào thế lực vương quyền hay tổ chức chính trị, vì chính Đức Phật là người đầu tiên rời bỏ vương quyền và chính trị để tu đạo. Từ xưa cho đến nay chỉ có các thế hệ vua chúa, hay quan chức lãnh đạo trong quốc gia đều từ bỏ địa vị công danhcầu đạo. Đức Phật cũng không cho phép đệ tử xuất gia của Ngài nhận một địa vị hay chức quyền trong một tổ chức chính trị xã hội. Dù ở hoàn cảnh nào, Đức Phật và các vị Cao Tăng luôn luôn là ở vị trí một người hướng đạo thoát tục, như là một vị Quốc sư để đóng góp tư tưởng giải thoát vào lòng Dân Tộc. Các ngài không quỵ lụy trước sức mạnh của địa vị công danh mà luôn thể hiện tình thương bình đẳng, dùng giáo lý giải thoát để hóa độ.

3- Thái độ sống của Người học Phật:

Khi một người đã quy y Tam Bảo không nhận thức tầm quan trọng của nền đạo đức được xây dựng từ giới luật Phật Giáo, cho dù có nỗ lực muốn bảo vệ đạo Pháp cũng là một điều thiếu sót lớn. Đôi lúc do sự nhiệt huyết mà thiếu trí tuệ biến thành sự rối loạn trong tổ chức. Thực tế do bất đồng quan điểm hành đạo sinh ra mâu thuẩn trong tổ chức Tăng Đoàn, từ đó dẫn đến băng hoại niềm tin tín đồ, gây tổn thương đến Đạo Pháp.

Phật Giáo luôn lấy hạnh phúc con người làm mục đích hoằng pháp. Trước một chế độ không yêu chuộng Phật Giáo, hay một thế lực ngoại đạo cực đoan luôn hủy báng Tam Bảo, trong hoàn cảnh đó, đánh trả quyết liệt bằng võ lực ư? Nuôi lòng thù hận ư? Khoanh tay ngồi nhìn ư? Nếu đã quy y Tam Bảo rồi bạn phải làm gì?

Đánh trả quyết liệt bằng vũ lực thì không thể xảy ra, vì Đạo Phật vào đời bằng giáo pháp từ bitrí tuệ chứ không mang theo một vũ khí nào.

Khởi lòng căm thù thì càng không đúng vì bản chất Đạo Phật là loại trừ Tham, Sân, Si.

Khoanh tay ngồi nhìn thì cũng không phải, vì lý tưởng của Đạo Phật là chia sẻ nỗi khổ đau của dân tộc và nhân loại. Cụ thể Đức Phật là người đầu tiên lên tiếng nói bình đẳng, phủ nhận sự phân biệt giai cấp tại xứ Ấn Độ.

Đạo Phật không thiết lập tổ chức tôn giáo thông qua con đường chính trị, hay dùng thủ đoạn võ lực để ép người vào tôn giáo mình. Người đã quy y Tam Bảo luôn sống bằng trí tuệ để không bị đánh lừa bởi những quan điểm sai lạc. Dù ở trong hoàn cảnh nào, người học Phật luôn hành xử cho phù hợp khế lý và khế cơ. Khế lý là tiếng nói phù hợp với chân lý, khế cơ là tiếng nói phù hợp với căn cơ của chúng sanh.

Muốn mọi người tin nhận Tam Bảo, trước hết mở rộng tầm nhận thức về giá trị của Đạo Phật. Đừng thất vọngsân hận khi họ chưa theo mình, đặc biệt khi họ chưa biết mình là ai. Hãy nghe Đức Phật dạy: “Này các Kalamas, chớ có tin vì nghe truyền thuyết, chớ có tin vì theo một lập trường, chớ có tin vì đánh giá hời hợt các dữ kiện, chớ có tin vì phù hợp với các định kiến, chớ có tin vì phát xuất nơi có uy quyền, chớ có tin vì vị sa môn là bậc đạo sư của mình. Này Kalamas, khi nào các ngươi biết rằng những việc này là tốt, những việc này là thiện, những việc này được mọi người tán thán. Những việc này nếu thuận theothực hành sẽ mang lại lợi ích tốt đẹp thì các ngươi hãy chấp nhận chúng” (HT.Thích Minh Châu, Trường Bộ kinh I, Kinh Kalamas).

Đạo Phật chủ trương đấu tranh ôn hòacương quyết trên tinh thần bất bạo động. Đó không phải là thái độ nhu nhược mà là phong cách trí tuệ, chứa đựng sức mạnh của lòng kiên trì của người giữ gìn chân lý, không phải bằng thái độ phản ứng bồng bột nhất thời trước một bối cảnh nào đó. Đức Phật dạy rằng:

“Với hận diệt hận thù,
Đời này không có được.

Không hận diệt hận thù,

định luật ngàn thu.” (HT Minh Châu dịch, Kinh Pháp cú)

Thực tế, vì những lý do nào đó nền đạo lý Từ Bi không được xã hội tôn vinh, mặc dù Phật giáo có khả năng đóng góp tích cực cho đời sống con người qua nhiều thế hệ. Tình trạng này đưa đến công tác giáo dục tri thức đạo lý bị hạn chế, trong xã hội có nhiều tội phạm, đó là điều đáng ưu tư nhất. Đạo Phật là đạo của sự thật, xuất phát từ sự thấy biết tường tận về nguyên lý nhân quảĐức Phật thuyết minh cho thế gian chứ không phải là lời dọa dẩm mang tính giáo điều. Ngài thường giáo huấn tường tận các đệ tử của mình tìm về hạnh phúc thông qua con đường tu tập thiện nghiệp. Nếu làm điều xấu ác chắc chắn sẽ nhận lấy quả báo khổ đau:

“Ý dẫn đầu các pháp,
Ý làm chủ, ý tạo;

Nếu với ý ô nhiễm,

Nói lên hay hành động,
Khổ não bước theo sau,
Như xe chân vật kéo.”(HT Minh Châu dịch, Kinh Pháp Cú)

Nhân quả theo nhau như bóng với hình, nếu làm một hành động với tâm sân hận để hủy báng Tam Bảo, xem nhưche khuất ngọn đèn chánh Pháp của Phật trong cuộc đời. Một trong những tội báo nặng nề được Đức Phật nhấn mạnh là tội hủy báng Tam Bảo. Cho nên người học Phật cần phải thận trọng khi bày tỏ quan điểm của mình về những vấn đề Phật sự. Phải biết lắng nghe để nhận rõ mọi trường hợp đúng sai, từ đó có lập trường đúng đắn trong vấn đề tu tậpphụng sự đạo Pháp.

3. Quy Y Tam Bảo:

Khi Quy Y Tam Bảo rồi, phải biết thân mạng là vô thường, thế gian là cỏi tạm, nổ lực đoạn trừ tham lamchấp trước để hướng đến giải thoát. Tấm thân mà ta yêu quý suốt cuộc đời, rồi cũng biến thành tro bụi. Tài sản tích trữ một đời người, khi lìa trần không mang theo được. Những người thân yêu như cha mẹ, vợ chồng con cái không đi theo ta về thế giới khác được. Chúng ta chỉ mang theo cái nghiệp thức xấu hoặc tốt mà quyết định cảnh giới giải thoát hay khổ đau. Cho nên mọi người cần phải sớm phát bồ tâm để phụng sự Tam Bảo.

Bồ Đề Tâm là tâm hướng đến lý Quy Y Tam Bảo, làm bất cứ hành động nào cũng nghĩ đến lợi ích của tha nhân, khế hợp hai yếu tố từ bitrí tuệ. Nếu tâm chúng tatình thương rộng lớn, thì dẫn đến năng lực tạo công đức rộng lớn. Dấu hiệu của tâm Bồ Đề khai phát là bất cứ một hành động nào với tâm niệm thanh tịnh thì công đức cũng biến khắp pháp giới, trên nguyên lý “Một có trong tất cả, tất cả có trong một”. Nếu chúng ta sống trong tỉnh giác, một giọt nước mắt của em bé đang chảy vì thiếu ăn, một cụ già cô đơn rên rĩ bên vỉa hè nào đó cũng là nỗi xót xa trong lòng mình. Một đóa hoa nở bên đường, hay một nụ cười tươi của đứa trẻ cũng góp cho mình sự hạnh phúc, đáng chắp tay để nói lời tri ân. Một cọng cỏ rung bên kia cánh rừng xa xôi nào đó cũng có mặt trong tâm ta. Vũ trụ rộng lớn nhưng không ngoài một Tâm, con ngườithế giới khách quan “Không phải một mà không phải khác”. Từ nhận thức như thế, chúng ta thấy Đạo Phật rất đẹp, Tam Bảo rất là cao quý, giúp ta mở rộng cỏi lòng đối với con ngườivạn vật.

4. Tiêu chí phụng sự Tam Bảo:

Thực hiện tôn chỉ Đạo Phật truyền thốngtu tập Giới Định Tuệ để đối trị Tham Sân Si. Căn bảngiáo dục chư TăngPhật tử tôn trọng giá trị với quy củ tự viện theo giới luật Phật chế. Giới luật của Phật Giáo không phải là sự ràng buộc mà là sự bảo hộ cho đời sống chúng ta không bị phiền não. Đó là kim chỉ nam để hướng chúng ta đến cuộc sống Chân Thiện Mỹ. Đó là liều thuốc quý nuôi dưỡng thân tâmnếp sống hạnh phúc ngay trong đời này. Đó là con đường duy nhất đem đến sự lợi ích cho Tăng NiTín Đồ hướng giải thoát giác ngộ. Vì con đường Giới Định Tuệ là nền tảng của các pháp môn tu tập trong Đạo Phật.

Tổ chức Tăng đoàn theo nguyên tắc giới luật để thích ứng với nhu cầu tu học thiết thực của chư Tăng. Bất cứ một tổ chức giáo hội hay một tự viện nào mà không phát triển công tác giáo dục tri thức Phật họcxây dựng tinh thần giải thoát thông qua sự tu học thì sẽ trái ngược với tôn chỉ của Đạo Phật, không đem sự nương tựa xứng đáng cho chư TăngTín đồ.

Giải quyết tình trạng phụng sự Tam Bảo từ vấn đề lý tưởnghiện thực hoàn toàn đối lập. Cụ thểlý tưởng tốt đẹp được mọi người ưa chuộnghiện thực chưa đem được lợi ích lớn cho Đạo Pháp. Đây là vấn đề Tăng NiPhật tử phải suy xét tường tận mọi phương pháp cụ thể để đưa Đạo Phật vào trong mọi hoàn cảnh xã hội một cách thiết thực. Nguyện cầu chư Phật gia hộ cho thiền môn nghiêm tịnh, Tăng già hòa hợp, thất chúng câu hội đồng tu, đạo Pháp trường tồn, thế giới hòa bình, và chúng sanh an lạc.

Chùa Tam Bảo, Mùa Vu Lan 2008

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8241)
Đạo Phật trên ý nghĩa thiết yếu là “biện chứng giải thoát” hay là con đường gỉai thoát. Gỉai thoát khỏi khổ đau, sinh tử luân hồi.
(Xem: 7494)
Lâu nay mình đã sống trọn vẹn hết thời giờ chưa? Mình có để lãng phí thời giờ hay không? Và bằng cách nào để chúng ta sống một cách có ý nghĩa?
(Xem: 8531)
Hai chữ “Sinh Tử” đã khiến cho biết bao nhiêu người bất kể trí ngu giàu nghèo từ xưa đến nay đều phải lưu ý tới và khổ tâm vì nó.
(Xem: 7068)
Những gì có mang một tính chất riêng (svalakṣaṇa) đều được gọi là pháp (dharma): “svalakṣaṇadhāraṇād dharmaḥ”[1], tức do duy trì yếu tính của tự thân nên nó được gọi là Pháp.
(Xem: 8322)
Đối với Phật giáo mỗi người làm chủ lấy vận mạng của chính mình. Mỗi chúng ta đều mang trong mình một tiềm năng ngang nhau...
(Xem: 7626)
Đạt được cơ sở con người, cơ sở đó giống như một cái bình thật quý và hiếm hoi, giúp ta có thể giải thoát tất cả kẻ khác và cho cả chính ta
(Xem: 6934)
Như Lai hay Như Khứ là dịch nghĩa của từ Sanskrit: Tathāgata, được ghép từ hai yếu tố là tathā và Agata hoặc tathā và gata.
(Xem: 8152)
TA THƯỜNG NGHE NÓI rằng thật khó tìm được một thân người. Không phải là bất kỳ thân người nào mà là một thân người “quý báu” có nối kết với Giáo pháp – đó chính là điều khó đạt được.
(Xem: 9155)
Đọc tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung, người ta thường thấy câu thành ngữ “Buông đao đồ tể, lập tức thành Phật”.
(Xem: 7848)
Thuật từ Uẩn 蘊, ngữ nguyên Sanskrit là skandha, Pāli là khandha, Hán phiên âm, Tắc-kiện-đà 塞健陀, dịch là tích tụ, loại biệt, tức là năm loại khác nhau về các pháp hữu vi.
(Xem: 8349)
“Bạn có nghĩ rằng hôm nay chỉ là một ngày nữa của đời mình chăng? Thật ra hôm nay không phải chỉ là ‘một ngày nữa’ thôi, mà nó là một ngày được riêng dâng tặng cho bạn.
(Xem: 7991)
Phật dạy chúng ta hãy đem chánh niệm vào tất cả những việc mình làm trong đời sống hằng ngày. Ngài không bỏ ra ngoài bất cứ một việc làm nhỏ nhặt nào hết...
(Xem: 9523)
Những lời khuyên thiết thực, thâm sâutrong sáng của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma, chỉ cho ta cách tu tập giúp biến cải tâm linh ta, biến ta thành một con người cao cả hơn...
(Xem: 6707)
Trong cuộc sống, chúng ta thường dùng lời nói để trao đổi thông tin, để diễn đạt ý tưởng hoặc để bày tỏ, biểu lộ tâm tư tình cảm của mình…
(Xem: 6746)
Đức Phậtlòng từ bi mà thương xót chúng sinh, nên đã chỉ ra nỗi khổ, niềm đau, chỉ dạy phương pháp dứt khổ, để chúng ta cùng được sống trong bình yên, hạnh phúc.
(Xem: 6962)
Hộ trì các căn (Indriyesu guttadvàro) hay phòng hộ các giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) là một trong các biện pháp tu tập căn bản của đạo Phật.
(Xem: 6609)
Tăng quan luận (僧官論) là một trong những bộ luận do ngài Thích Ngạn Tông (557-610)1 trước tác, nhằm thuyết minh và lý giải các chức vụ do chư Tăng đảm nhiệm (廣明僧職)
(Xem: 7144)
Chưa có tài liệu nào về niên đại của đức Phật lịch sử, vị sáng lập đạo Phật, được truyền thừa nhất quán trong các tông phái chính của Phật giáo cũng như được các học giả cùng công nhận.
(Xem: 6769)
Kinh Hoa Nghiêm, như các kinh điển Đại thừa, lấy tánh Không làm nền tảng. Tánh Không trong kinh này là Pháp thân của Phật bổn nguyên Tỳ-lô-giá-na, và toàn thể vũ trụhiện thân của Ngài.
(Xem: 16117)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
(Xem: 7472)
Con đường Bồ tátcon đường lý tưởng nổi tiếng của Phật giáo Đại thừa – không phải là pháp tu để thành thánh, thành tiên, mà là một lối sống ai cũng có thể ước mong thành tựu được.
(Xem: 6409)
Sau kiến đạo, các pháp hữu lậu không thuộc kiến sở đoạn (darśana-prahātavya). Tức các pháp hữu lậu còn lại, trừ kiến chấp ô nhiễm khởi lên do tà phân biệt.
(Xem: 6891)
Đa số người xưng là Phật tử mà không biết rõ đường lối tu hành, ai bày sao làm vậy, trở thành mê tín sai lầm, khiến người đời phê bình đạo Phật là huyền hoặc, là vô ích.
(Xem: 7201)
Tánh "không" (S. 'Suunyataa, P. Su~n~nataa) là một trong các học thuyết quan trọng bậc nhất của Phật giáo và cũng là học thuyết bị người khác đạo hiểu sai lầm nhiều nhất.
(Xem: 6310)
Tánh Khôngbản tánh của tất cả mọi sự vật, mọi hiện tượng, mọi hành động của thân khẩu ý, nên ở đâu trong không gian nào thời gian nào chúng ta cũng có thể nhận ra nó...
(Xem: 6658)
Nói đến Bát-nhã (Trí huệ), các luận thường phân làm ba: Bát-nhã văn tự, Bát-nhã quán chiếu, và Bát-nhã thật tướng.
(Xem: 5523)
Người Phật tử chân chính chớ nên dòm ngó lỗi người, chúng ta chỉ nên nhìn lại hành động của mình, xem đã làm được điều gì tốt đẹp hay chưa.
(Xem: 8819)
"Vậy nên này Ananda, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình (atta-dipà viharatha), hãy tự mình y tựa chính mình (attàsaranà) chớ y tựa một cái gì khác.
(Xem: 7342)
Tổ Quy Sơn dạy: "Nếu mình chưa là bậc thượng lưu, vượt thẳng lên thềm vô thượng giác thì hãy để tâm vào giáo pháp, ôn tầm kinh điển, rút ra nghĩa lý tinh hoa, truyền bá tuyên dương tiếp dẫn hậu lai, trả ơn đức Phật".
(Xem: 22060)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 7744)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 6792)
Bài Pháp này nhắc nhở các bạn về một số điều Phật dạy, như một cách để sách tấn, khuyến khích các bạn chăm chỉ thực hành đúng theo lời Phật dạy.
(Xem: 14931)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 8517)
Sự hình thành và phát triển tâm lý học Phật giáo là một quá trình vừa diễn dịch vừa xây dựng kéo dài suốt hàng thế kỷ trong lịch sử truyền thừa Phật giáo kể từ thời Đức Phật.
(Xem: 13014)
Giáo lý Duyên khởi (Cái này sinh, nên cái kia sinh, cái này diệt nên cái kia diệt) là nguyên tắc chung giải thích về sự hình thành hay hủy diệt của các pháp.
(Xem: 18782)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 5952)
Phật Thích Ca sau 49 năm thuyết pháp cũng bảo những lời ta nói là thuyết lại lời cổ Phật. Khổng Tử thì nhắn nhủ hậu thế: ông chỉ truyền lời Thánh hiền không thêm bớt không sáng tạo...
(Xem: 6180)
Ở đời cái gì cũng vậy, không phải ngẫu nhiên có được, mà đòi hỏi mỗi con người chúng ta phải tự nỗ lực, tự tầm cầu, tự suy tư để tìm đến con đường giải thoát cho tự thân và tha nhân.
(Xem: 6876)
Chân lý tương đối là những sự thật còn nằm trong đối đãi đối trị nhau. Những sự đối đãi ấy là...
(Xem: 7241)
Sanh tử sự đại là một đề mục lớn của Thiền Tông, và sanh tử luân hồi là một chủ đề phổ thông của Phật Giáo. Nói đến sanh tử luân hồi thì người Phật tử nào cũng nghĩ đến việc thoát ly sanh tử luân hồi.
(Xem: 8293)
Nghiệp báo đóng một vai trò rất quan trọng trong giáo lý nhà Phật.
(Xem: 5602)
Người ta thường tìm đủ mọi cách để gán một nhãn hiệu nào đó lên các lời giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 5811)
Đã lâu, đa số thanh niên quan niệm giải thoát của đạo Phật là siêu hình huyền hoặc đâu đâu, để dành riêng cho những người chán thực tại cầu vào chốn hư vô tịch diệt.
(Xem: 5457)
Sự hiện hữu của mỗi chúng ta hiện giờ và ở đây là do, từ, bởi, nhiều nguyên nhânđiều kiện.
(Xem: 6441)
Đồng Mông Chỉ Quán là một trước tác rất hàm xúc và có hệ thống, nếu hành giả cố gắng thực hành theo "Pháp yếu tọa Thiền tu tập Chỉ Quán" này chắc chắn sẽ đạt được kết quả lớn lao.
(Xem: 5858)
Đạo Phật chủ trương giác ngộ mang ánh sáng trí tuệ soi rọi cho thế gian. Mọi lẽ thật đều hiện bày dưới ánh sáng giác ngộ,
(Xem: 7456)
Mọi chúng sinh dù là người hay là thú , dù giầu hay nghèo, già hay trẻ, không ai là có thể tồn tại lâu dài mãi mãi trong một tình trạng , mọi thứ đều sẽ phải thay đổi và xa rời đi.
(Xem: 5755)
Bốn dấu ấn tiếng Phạn gọi là caturlaksana, tiếng Pa-li là caturlakkhana, hoặc còn gọi là Dharma mudra.
(Xem: 6650)
Đại thừa (Mahāyāna) phát triển một nhận thức mới về bản chất lịch sử của Đức Phật Śākyamuni.
(Xem: 6739)
Khi chúng ta tự gọi mình là những Phật tử, có nghĩa là chúng ta là những người đi theo Phật.
(Xem: 5678)
Phật Giáo là một tôn giáo xây dựng trên trí thông minh, khoa học và sự hiểu biết. Mục đích của tôn giáo ấy là để giúp loại trừ khổ đau và các nguyên nhân mang lại khổ đau.
(Xem: 6183)
Chúng ta học Phật, Phật dạy chúng ta hồi đầu, quy y tự tính giác. Tự tính giác tức là Phật tính. Phát Bồ đề tâm, tu Bồ Tát hạnh...
(Xem: 5465)
Phật pháp là những điều đức Phật chứng kiến được sau khi giác ngộ, đem chỗ chứng kiến ấy nói lại để cho mọi người hiểu biết để dứt sạch mê lầmgiác ngộ
(Xem: 7035)
Ý niệm về nghiệp hữu lý trên nhiều phương diện, nhưng một số người đã hiểu lầm về nghiệp.
(Xem: 6040)
Khả năng thích ứng tuyệt vời của Phật giáo đã giúp Phật giáo hội nhập với các nền văn hoá khác.
(Xem: 7872)
Bụt là thầy chỉ đạo Bậc tỉnh thức vẹn toàn Tướng tốt đoan trang Trí và bi viên mãn.
(Xem: 6024)
Người có tuệ giác biết nhìn thẳng vào sự thậtchấp nhận sự thật ấy dù đau thương rồi nỗ lực chuyển hóa, thăng hoa.
(Xem: 7063)
Đạo Phậtđạo từ bi và hành động thiết thực của nó mang đến sự an vui, bình yên cho tất cả chúng sinh.
(Xem: 6885)
Ai có thể hàng phục được mười tám giới: sáu căn, sáu trần, và sáu thức, khiến chúng đừng tạo phản thì người đó chính là Bồ Tát.
(Xem: 6955)
Trong Phật giáo, các từ ngữ "cầu nguyện," "cầu xin" hay "ước nguyện" được hiểu đồng nghĩa với thuật ngữ "pràrthanà" (Sanskrit) hay "patthanà" (Pali).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant