Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tam BảoThế Gian

27 Tháng Tư 201509:50(Xem: 5893)
Tam Bảo Ở Thế Gian
TAM BẢOTHẾ GIAN

Thích Đức Trí


Tam Bảo Ở Thế Gian1- Sự xuất hiện của Tam Bảo
2- Nguyên nhân gây thương tổn Đạo Pháp
3- Thái độ sống của Người học Phật
4- Quy Y Tam Bảo
5- Tiêu chí phụng sự Tam Bảo

1. Sự xuất hiện của Tam Bảo:

Sau khi thành đạo dưới cội bồ đề, Đức Phật đến vườn Lộc Uyển thuyết pháp cho những người bạn đồng tu, là năm anh em Tôn Giả Kiều Trần Như. Như vậy, lần đầu tiên trên thế gian đã xuất hiện Ba Ngôi Tam Bảo. Dù người xuất gia hay tại gia bước đầu đến với Đạo Phật đều thực hiện pháp Quy Y Tam Bảo. Quy là trở về, Y là nương tựa, tức là hướng tâm linh của mình trở về với ba ngôi báu, đó là Phật, Pháp và Tăng. Tự thân Tam Bảo trong sáng tốt đẹp, là căn nhà an ổn giải thoát nhất cho mọi ngườithế gian. Đạo Phật không chỉ riêng một phạm vi quốc gia nào, một chế độ nào, hay một giai cấp nào. Bất cứ ai tự nguyện phát tâm Quy Y Tam Bảo, phát Bồ Đề Tâm đều là thuộc thành tố của Tam Bảo. Không cần ai khoác lên Tam Bảo một chiếc áo sặc sỡ để che đậy quan điểm lệch lạc, cực đoan mà mệnh danh là bảo vệ sự trường tồn của chánh pháp. Xưa và nay, Đạo Phật luôn luôn là đạo xuất thế, vượt ngoài ước lệ thế gian mà vẫn luôn cứu khổ ban vui cho con người, lấy trí tuệ làm mục đích của sự giải thoát, đó là pháp truyền thống của Đức Phật. Tam Bảo hưng thịnh là phước báo cho khắp chốn trời người và pháp giới chúng sanh nói chung.

2. Nguyên nhân gây thương tổn Đạo Pháp:

Hoàn cảnh xã hội chi phối rất mạnh đến Đạo Pháp, trong một thời đại mà ánh sáng đạo đức bị vùi dập, với một chủ thuyết độc tàitham vọng, con người sống trong sợ hãibảo thủ, sống trong nghi ngờ và thù hận. Từ đó họ che đậy tiếng nói tự do của nền đạo lý nhân bản của Đức Phật. Qua lịch sử chúng ta thấy có nhiều xứ sở trên trái đất này, người ta vì bài xích tôn giáo, bảo vệ chủ thuyết mà đập chùa, phá tượng, chà đạp chư Tăng và làm hư hoại bản thể Tăng già. Dù ở cộng đồng nào, hay quốc gia nào đạo lý không được gìn giữ thì chất liệu tình thươngtrí tuệ bị xóa mờ, làm cơ hội cho ngọn lửa vô minh và thù hận cháy lan ra khắp cả lòng người. Đó sẽ là động lực mạnh mẽ đưa đến nghiệp báo chung mà con người phải gánh chịu như: chiến tranh, thù hận, tai ương bảo lụt, bệnh dịch v.v… Điều tệ hại nhất có thể xảy ra, là tự con người vô tình hay cố ý cột chặt tôn giáo với chính trị, biến thành những mâu thuẩn phức tạp trong cộng đồng xã hội, làm con người khó tiếp nhận bản chất trong sáng của Đạo Phật.

Dù là xuất gia hay tại gia, thường niệm pháp Quy Y trong đời sống, lấy Tam Bảo làm mục đích làm lợi ích cho Dân Tộc và cho cả chúng sinh. Điều đó các nhà lãnh đạo tôn giáo, hay tín đồ phải có cái nhìn tổng quát, có sự hy sinh cao thượng, giữ gìn hình ảnh trong sáng của Tam Bảo trong cuộc đời. Tổ chức Phật Giáo chân chính là không lệ thuộc vào thế lực vương quyền hay tổ chức chính trị, vì chính Đức Phật là người đầu tiên rời bỏ vương quyền và chính trị để tu đạo. Từ xưa cho đến nay chỉ có các thế hệ vua chúa, hay quan chức lãnh đạo trong quốc gia đều từ bỏ địa vị công danhcầu đạo. Đức Phật cũng không cho phép đệ tử xuất gia của Ngài nhận một địa vị hay chức quyền trong một tổ chức chính trị xã hội. Dù ở hoàn cảnh nào, Đức Phật và các vị Cao Tăng luôn luôn là ở vị trí một người hướng đạo thoát tục, như là một vị Quốc sư để đóng góp tư tưởng giải thoát vào lòng Dân Tộc. Các ngài không quỵ lụy trước sức mạnh của địa vị công danh mà luôn thể hiện tình thương bình đẳng, dùng giáo lý giải thoát để hóa độ.

3- Thái độ sống của Người học Phật:

Khi một người đã quy y Tam Bảo không nhận thức tầm quan trọng của nền đạo đức được xây dựng từ giới luật Phật Giáo, cho dù có nỗ lực muốn bảo vệ đạo Pháp cũng là một điều thiếu sót lớn. Đôi lúc do sự nhiệt huyết mà thiếu trí tuệ biến thành sự rối loạn trong tổ chức. Thực tế do bất đồng quan điểm hành đạo sinh ra mâu thuẩn trong tổ chức Tăng Đoàn, từ đó dẫn đến băng hoại niềm tin tín đồ, gây tổn thương đến Đạo Pháp.

Phật Giáo luôn lấy hạnh phúc con người làm mục đích hoằng pháp. Trước một chế độ không yêu chuộng Phật Giáo, hay một thế lực ngoại đạo cực đoan luôn hủy báng Tam Bảo, trong hoàn cảnh đó, đánh trả quyết liệt bằng võ lực ư? Nuôi lòng thù hận ư? Khoanh tay ngồi nhìn ư? Nếu đã quy y Tam Bảo rồi bạn phải làm gì?

Đánh trả quyết liệt bằng vũ lực thì không thể xảy ra, vì Đạo Phật vào đời bằng giáo pháp từ bitrí tuệ chứ không mang theo một vũ khí nào.

Khởi lòng căm thù thì càng không đúng vì bản chất Đạo Phật là loại trừ Tham, Sân, Si.

Khoanh tay ngồi nhìn thì cũng không phải, vì lý tưởng của Đạo Phật là chia sẻ nỗi khổ đau của dân tộc và nhân loại. Cụ thể Đức Phật là người đầu tiên lên tiếng nói bình đẳng, phủ nhận sự phân biệt giai cấp tại xứ Ấn Độ.

Đạo Phật không thiết lập tổ chức tôn giáo thông qua con đường chính trị, hay dùng thủ đoạn võ lực để ép người vào tôn giáo mình. Người đã quy y Tam Bảo luôn sống bằng trí tuệ để không bị đánh lừa bởi những quan điểm sai lạc. Dù ở trong hoàn cảnh nào, người học Phật luôn hành xử cho phù hợp khế lý và khế cơ. Khế lý là tiếng nói phù hợp với chân lý, khế cơ là tiếng nói phù hợp với căn cơ của chúng sanh.

Muốn mọi người tin nhận Tam Bảo, trước hết mở rộng tầm nhận thức về giá trị của Đạo Phật. Đừng thất vọngsân hận khi họ chưa theo mình, đặc biệt khi họ chưa biết mình là ai. Hãy nghe Đức Phật dạy: “Này các Kalamas, chớ có tin vì nghe truyền thuyết, chớ có tin vì theo một lập trường, chớ có tin vì đánh giá hời hợt các dữ kiện, chớ có tin vì phù hợp với các định kiến, chớ có tin vì phát xuất nơi có uy quyền, chớ có tin vì vị sa môn là bậc đạo sư của mình. Này Kalamas, khi nào các ngươi biết rằng những việc này là tốt, những việc này là thiện, những việc này được mọi người tán thán. Những việc này nếu thuận theothực hành sẽ mang lại lợi ích tốt đẹp thì các ngươi hãy chấp nhận chúng” (HT.Thích Minh Châu, Trường Bộ kinh I, Kinh Kalamas).

Đạo Phật chủ trương đấu tranh ôn hòacương quyết trên tinh thần bất bạo động. Đó không phải là thái độ nhu nhược mà là phong cách trí tuệ, chứa đựng sức mạnh của lòng kiên trì của người giữ gìn chân lý, không phải bằng thái độ phản ứng bồng bột nhất thời trước một bối cảnh nào đó. Đức Phật dạy rằng:

“Với hận diệt hận thù,
Đời này không có được.

Không hận diệt hận thù,

định luật ngàn thu.” (HT Minh Châu dịch, Kinh Pháp cú)

Thực tế, vì những lý do nào đó nền đạo lý Từ Bi không được xã hội tôn vinh, mặc dù Phật giáo có khả năng đóng góp tích cực cho đời sống con người qua nhiều thế hệ. Tình trạng này đưa đến công tác giáo dục tri thức đạo lý bị hạn chế, trong xã hội có nhiều tội phạm, đó là điều đáng ưu tư nhất. Đạo Phật là đạo của sự thật, xuất phát từ sự thấy biết tường tận về nguyên lý nhân quảĐức Phật thuyết minh cho thế gian chứ không phải là lời dọa dẩm mang tính giáo điều. Ngài thường giáo huấn tường tận các đệ tử của mình tìm về hạnh phúc thông qua con đường tu tập thiện nghiệp. Nếu làm điều xấu ác chắc chắn sẽ nhận lấy quả báo khổ đau:

“Ý dẫn đầu các pháp,
Ý làm chủ, ý tạo;

Nếu với ý ô nhiễm,

Nói lên hay hành động,
Khổ não bước theo sau,
Như xe chân vật kéo.”(HT Minh Châu dịch, Kinh Pháp Cú)

Nhân quả theo nhau như bóng với hình, nếu làm một hành động với tâm sân hận để hủy báng Tam Bảo, xem nhưche khuất ngọn đèn chánh Pháp của Phật trong cuộc đời. Một trong những tội báo nặng nề được Đức Phật nhấn mạnh là tội hủy báng Tam Bảo. Cho nên người học Phật cần phải thận trọng khi bày tỏ quan điểm của mình về những vấn đề Phật sự. Phải biết lắng nghe để nhận rõ mọi trường hợp đúng sai, từ đó có lập trường đúng đắn trong vấn đề tu tậpphụng sự đạo Pháp.

3. Quy Y Tam Bảo:

Khi Quy Y Tam Bảo rồi, phải biết thân mạng là vô thường, thế gian là cỏi tạm, nổ lực đoạn trừ tham lamchấp trước để hướng đến giải thoát. Tấm thân mà ta yêu quý suốt cuộc đời, rồi cũng biến thành tro bụi. Tài sản tích trữ một đời người, khi lìa trần không mang theo được. Những người thân yêu như cha mẹ, vợ chồng con cái không đi theo ta về thế giới khác được. Chúng ta chỉ mang theo cái nghiệp thức xấu hoặc tốt mà quyết định cảnh giới giải thoát hay khổ đau. Cho nên mọi người cần phải sớm phát bồ tâm để phụng sự Tam Bảo.

Bồ Đề Tâm là tâm hướng đến lý Quy Y Tam Bảo, làm bất cứ hành động nào cũng nghĩ đến lợi ích của tha nhân, khế hợp hai yếu tố từ bitrí tuệ. Nếu tâm chúng tatình thương rộng lớn, thì dẫn đến năng lực tạo công đức rộng lớn. Dấu hiệu của tâm Bồ Đề khai phát là bất cứ một hành động nào với tâm niệm thanh tịnh thì công đức cũng biến khắp pháp giới, trên nguyên lý “Một có trong tất cả, tất cả có trong một”. Nếu chúng ta sống trong tỉnh giác, một giọt nước mắt của em bé đang chảy vì thiếu ăn, một cụ già cô đơn rên rĩ bên vỉa hè nào đó cũng là nỗi xót xa trong lòng mình. Một đóa hoa nở bên đường, hay một nụ cười tươi của đứa trẻ cũng góp cho mình sự hạnh phúc, đáng chắp tay để nói lời tri ân. Một cọng cỏ rung bên kia cánh rừng xa xôi nào đó cũng có mặt trong tâm ta. Vũ trụ rộng lớn nhưng không ngoài một Tâm, con ngườithế giới khách quan “Không phải một mà không phải khác”. Từ nhận thức như thế, chúng ta thấy Đạo Phật rất đẹp, Tam Bảo rất là cao quý, giúp ta mở rộng cỏi lòng đối với con ngườivạn vật.

4. Tiêu chí phụng sự Tam Bảo:

Thực hiện tôn chỉ Đạo Phật truyền thốngtu tập Giới Định Tuệ để đối trị Tham Sân Si. Căn bảngiáo dục chư TăngPhật tử tôn trọng giá trị với quy củ tự viện theo giới luật Phật chế. Giới luật của Phật Giáo không phải là sự ràng buộc mà là sự bảo hộ cho đời sống chúng ta không bị phiền não. Đó là kim chỉ nam để hướng chúng ta đến cuộc sống Chân Thiện Mỹ. Đó là liều thuốc quý nuôi dưỡng thân tâmnếp sống hạnh phúc ngay trong đời này. Đó là con đường duy nhất đem đến sự lợi ích cho Tăng NiTín Đồ hướng giải thoát giác ngộ. Vì con đường Giới Định Tuệ là nền tảng của các pháp môn tu tập trong Đạo Phật.

Tổ chức Tăng đoàn theo nguyên tắc giới luật để thích ứng với nhu cầu tu học thiết thực của chư Tăng. Bất cứ một tổ chức giáo hội hay một tự viện nào mà không phát triển công tác giáo dục tri thức Phật họcxây dựng tinh thần giải thoát thông qua sự tu học thì sẽ trái ngược với tôn chỉ của Đạo Phật, không đem sự nương tựa xứng đáng cho chư TăngTín đồ.

Giải quyết tình trạng phụng sự Tam Bảo từ vấn đề lý tưởnghiện thực hoàn toàn đối lập. Cụ thểlý tưởng tốt đẹp được mọi người ưa chuộnghiện thực chưa đem được lợi ích lớn cho Đạo Pháp. Đây là vấn đề Tăng NiPhật tử phải suy xét tường tận mọi phương pháp cụ thể để đưa Đạo Phật vào trong mọi hoàn cảnh xã hội một cách thiết thực. Nguyện cầu chư Phật gia hộ cho thiền môn nghiêm tịnh, Tăng già hòa hợp, thất chúng câu hội đồng tu, đạo Pháp trường tồn, thế giới hòa bình, và chúng sanh an lạc.

Chùa Tam Bảo, Mùa Vu Lan 2008

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6775)
Hai chữ quy y có nghĩa là : quay về hay hồi chuyển. Y là nương tựa hoặc dựa vào, những hành vi hồi chuyển nương tựa hoặc quay đầu dựa dẩm tin tưởng.
(Xem: 6198)
Niềm tin sâu xa nhất trong giáo lý nhà Phật là tất cả mọi người đều có thể tự cải biến mình trong từng giây phút một. Chẳng có gì gọi là định mệnh cả.
(Xem: 6527)
Đây là một danh từ rất phổ thông trong chốn thiền môn.
(Xem: 7783)
Nhẫn nhục là chịu nhịn những điều sỉ nhục xấu hổ, nhục nhã, chịu đựng tổn thương trước những cảnh, sự việc không vừa lòng, nghịch ý, trái tai gai mắt;
(Xem: 6283)
Nền giáo dục hòa bình của Đạo Phật là một con đường đạo đức nhân bảnthiết thực, là căn cứ trên chân lý từ bi, công bằng và...
(Xem: 6606)
Chúng ta chỉ có thể nhìn thấy mọi sự vật, hiện tượng trong phạm vi giới hạn của đôi mắt mình, nhưng...
(Xem: 5720)
Tôi đến với Phật pháp vì … quá khổ.
(Xem: 5623)
Phải luôn luôn có tâm tùy hỷ đến tất cả mọi người, nếu chưa được giải thoát thì sau khi chết, năng lực tùy hỷ sẽ đẩy mình đến những cảnh giới tốt.
(Xem: 5677)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ.
(Xem: 6792)
Chúng ta biết tu là chúng ta biết sống. Một thứ tài sản không bao giờ bị mất. Ai muốn giàu, muốn sung túc thì hãy ráng nhớ giữ gìn tài sản này.
(Xem: 6070)
Thuyết bốn Đế, tức bốn Chân lýcăn bản, là cốt lõi tinh túy của đạo Phật, là nội dung bài thuyết pháp đầu tiên của Phật ở Vườn Nai (Bénarès).
(Xem: 7086)
Đạo Phật thường quán niệmsuy tưởng về khổ đau vì đó là kinh nghiệm chung của toàn thể nhân loại.
(Xem: 6196)
Chúng ta chẳng cần tìm Phật ở đâu xa, ngài luôn luôn ở ngay trong cuộc đời, nhưng chúng ta không thấy, vì ...
(Xem: 6160)
Chúng ta có thể tìm ra chánh pháp của Phật, nghĩa là chân lý, ở khắp mọi nơi, chứ không bắt buộc chỉ tìm trong kinh điển.
(Xem: 6593)
Chúng ta đã tìm Phật và tìm Pháp, nay phải đi tìm Tăng cho đủ Tam Bảo, nói cho đủ là Tăng già, phiên âm chữ Phạn Sangha.
(Xem: 6047)
Kinh sách và Đạo Pháp của Phật không phải giúp để góp nhặt sự hiểu biết mà phải dùng để tự biến cải lấy chính ta.
(Xem: 6439)
Tâm chúng sinh và Phật vốn không khác. Tất cả đều do tâm tạo. Mười cõi cũng do tâm tạo.
(Xem: 5686)
" Nầy các Tỳ kheo Như Lai nói tác ý tức là nghiệp vì có ý muốn làm mới có hành động thân khẩu ý ". Như vậy mười nghiệp lành là 10 điều giúp cho con người thực hiện trong sạch hoá thân khẩu và ý .
(Xem: 6806)
Khái niệm về sự tái sinh không phải là một khái niệm đặc thù của Phật Giáo mà đấy chỉ là một học thuyết chủ trương sự « đầu thai »
(Xem: 5988)
Có những niềm tin gây mê lầm, tội lỗi, gieo tai họa cho chính những người mang niềm tin đó mà họ không hay không biết, hoặc gieo tai họa lên nhiều người...
(Xem: 5859)
Theo kinh Lăng-già, Bồ-tát vì muốn độ tất cả chúng sanh đạt đến Niết-bàn nên phát nguyện ở lại thế giới nhiều khổ đau này để làm lợi ích cho chúng sanh.
(Xem: 6562)
Phật pháp tại thế gian, chẳng thể lìa thế gian mà có. Thế nên biết, người muốn ngộ được lẽ thật của muôn pháp, cũng phải từ muôn pháp mà ngộ,
(Xem: 5469)
Phật pháp tại thế gian, chẳng thể lìa thế gian mà có. Thế nên biết, người muốn ngộ được lẽ thật của muôn pháp, cũng phải từ muôn pháp mà ngộ,
(Xem: 5549)
Tin nhân quả làm chúng ta an tâm. Sự hợp lý, trật tự, ý nghĩa của một cuộc đời là do nhận thức được và sống theo nhân quả.
(Xem: 8045)
Mười nghiệp lành không những ngăn giữ chúng sanh khỏi bị đọa lạc vào bốn con đường đau khổ, mà còn mở cánh cửa thênh thang hạnh phúc an vui của phước báu nhân thiên sang cả.
(Xem: 6125)
Theo tâm lýkinh nghiệm, việc chọn lựa một tông phái để theo, phần lớn tùy thuộc vào sở thích và môi trường sinh sống của từng người.
(Xem: 5689)
Tất cả các hệ thống giáo lý phong phú của đạo Phật chỉ có một mục đích duy nhất là trình bày phương pháp và đường lối giải thoát,
(Xem: 8837)
Một người đã tin ở luật nhân quả trong đời hiện tại thì cũng phải tin ở luật nhân quả các đời quá khứ, và vị lai.
(Xem: 6512)
Thực tế cho chúng ta thấy, người học đạo thì nhiều, nhưng để sửa tâm tánh thì không bao nhiêu, đó là kết quả do việc không chịu lắng nghe.
(Xem: 5875)
"Con người là chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con người được sinh ra; nghiệp là quyền thuộc, là nơi nương tựa" .
(Xem: 5780)
Ngày nay phong trào nghiên cứu Phật học không còn bị thu hẹp trong giới Phật giáo mà đã phổ biến vào mọi tầng lớp của xã hội, không phần biệt Tôn giáo.
(Xem: 5284)
Học Phật là học con đường trở về với chân tâm, với Phật tánh—vốn hàm tàng nơi chính mình và tất cả chúng sinh.
(Xem: 6702)
Phật giáo nguyên thủy, xuất phát từ miền nam Ấn Độ, rồi được truyền sang Tích Lan, từ Tích Lan truyền qua Miến Điện, Thái Lan, Campuchia, Lào...
(Xem: 6935)
Sám hối không có nghĩa là hết tội nhưng nó có mãnh lực làm cho tâm mình thanh thản, nhẹ nhàng vì vậy nó giúp ngăn hay chận bớt những ác nghiệp mà mình đã tạo ra.
(Xem: 11058)
Tứ đếgiáo nghĩa cơ bản dùng để giải thích mọi hiện tượng nhân sinh vũ trụ được quy nạp từ thập nhị nhân duyên, là con đường trung đạo duy nhất giải thoát sinh tử luân hồi.
(Xem: 8020)
“Những Điều Phật Đã Dạy” là một trong những quyển sách nói về Phật học bán chạy nhất ở các nước phương Tây, được dịch ra nhiều thứ tiếng...
(Xem: 6045)
Tham sống sợ chết, đó là sự thật của người đời. Thế nhưng tại sao lại giết hại, cắt đứt sự sống của chúng sanh khác?
(Xem: 5390)
Theo nguyên tắc chung, tôi nghĩ rằng tôn giáo của cha mẹ mình là tôn giáo thích nghi nhất cho mỗi người.
(Xem: 7057)
Quan niệm về cái gọi là "đời cha ăn mặn đời con khát nước" cho rằng có một cái gì vô hình lưu truyền cái nhân xấu do đời cha tạo ra và chuyển giao cái quả xấu do nhân xấu mang lại cho con cái.
(Xem: 5982)
Học Phật không phải chỉ biết được lời Phật dạy, biết qua kiến thức suông để đàm luận, lý luận, mà cần phải thực tập, áp dụng vào cuộc sống của mỗi người trong sự nghe thấy, tư duy và hành động.
(Xem: 6425)
Trong Phật Pháp, đức Phật đã chỉ sẵn một phương pháp, một nghệ thuật hay còn gọi là một bí quyết để có một đời sống hạnh phúc, đó là gìn giữ năm giới.
(Xem: 21062)
Vô thườngtính chất căn bản của đời sống; tất cả mọi sự vật sinh ra có điều kiện đều có tính chất của bốn giai đoạn “thành, trụ, hoại, diệt”
(Xem: 5815)
Mỉm một nụ cười, trở về với một hơi thở, bước một bước chân thảnh thơi... cũng có thể là những phép lạ giữa một cuộc sống căng thẳng và quá bận rộn.
(Xem: 7175)
Về phương diện đạo lý, Phật giáo cao hơn các hệ thống đạo đức khác, nhưng đạo đức chỉ là bước đầu chứ không phải cứu cánh của Phật giáo.
(Xem: 8591)
Bát Chánh Đạogiáo lý căn bản của Đạo đế (trong Tứ Đế) gồm ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Đây là những phương tiện hành trì phổ biến sâu rộng chung cho Ngũ thừa Phật giáo.
(Xem: 6884)
Chữ Không của Bát Nhã đứng vững là dựa trên lý nhân duyên, nếu lý nhân duyênchân lý thì chữ Không cũng sẽ là chân lý.
(Xem: 7742)
Đây là 4 pháp, 4 nguyên tắc sống mà tiền thân chư Phật, tức chư Bồ-tát thường áp dụng để nhiếp hóa, cảm hóa chúng sanh...
(Xem: 5386)
Có những người sinh trưởng ở những nơi mà niềm tin về tái sinh là một thành phần trong nền văn hóa của họ.
(Xem: 18632)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14429)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13586)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13549)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11819)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13257)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13663)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13936)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13250)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15025)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16161)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11083)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant