Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tam BảoThế Gian

27 Tháng Tư 201509:50(Xem: 5882)
Tam Bảo Ở Thế Gian
TAM BẢOTHẾ GIAN

Thích Đức Trí


Tam Bảo Ở Thế Gian1- Sự xuất hiện của Tam Bảo
2- Nguyên nhân gây thương tổn Đạo Pháp
3- Thái độ sống của Người học Phật
4- Quy Y Tam Bảo
5- Tiêu chí phụng sự Tam Bảo

1. Sự xuất hiện của Tam Bảo:

Sau khi thành đạo dưới cội bồ đề, Đức Phật đến vườn Lộc Uyển thuyết pháp cho những người bạn đồng tu, là năm anh em Tôn Giả Kiều Trần Như. Như vậy, lần đầu tiên trên thế gian đã xuất hiện Ba Ngôi Tam Bảo. Dù người xuất gia hay tại gia bước đầu đến với Đạo Phật đều thực hiện pháp Quy Y Tam Bảo. Quy là trở về, Y là nương tựa, tức là hướng tâm linh của mình trở về với ba ngôi báu, đó là Phật, Pháp và Tăng. Tự thân Tam Bảo trong sáng tốt đẹp, là căn nhà an ổn giải thoát nhất cho mọi ngườithế gian. Đạo Phật không chỉ riêng một phạm vi quốc gia nào, một chế độ nào, hay một giai cấp nào. Bất cứ ai tự nguyện phát tâm Quy Y Tam Bảo, phát Bồ Đề Tâm đều là thuộc thành tố của Tam Bảo. Không cần ai khoác lên Tam Bảo một chiếc áo sặc sỡ để che đậy quan điểm lệch lạc, cực đoan mà mệnh danh là bảo vệ sự trường tồn của chánh pháp. Xưa và nay, Đạo Phật luôn luôn là đạo xuất thế, vượt ngoài ước lệ thế gian mà vẫn luôn cứu khổ ban vui cho con người, lấy trí tuệ làm mục đích của sự giải thoát, đó là pháp truyền thống của Đức Phật. Tam Bảo hưng thịnh là phước báo cho khắp chốn trời người và pháp giới chúng sanh nói chung.

2. Nguyên nhân gây thương tổn Đạo Pháp:

Hoàn cảnh xã hội chi phối rất mạnh đến Đạo Pháp, trong một thời đại mà ánh sáng đạo đức bị vùi dập, với một chủ thuyết độc tàitham vọng, con người sống trong sợ hãibảo thủ, sống trong nghi ngờ và thù hận. Từ đó họ che đậy tiếng nói tự do của nền đạo lý nhân bản của Đức Phật. Qua lịch sử chúng ta thấy có nhiều xứ sở trên trái đất này, người ta vì bài xích tôn giáo, bảo vệ chủ thuyết mà đập chùa, phá tượng, chà đạp chư Tăng và làm hư hoại bản thể Tăng già. Dù ở cộng đồng nào, hay quốc gia nào đạo lý không được gìn giữ thì chất liệu tình thươngtrí tuệ bị xóa mờ, làm cơ hội cho ngọn lửa vô minh và thù hận cháy lan ra khắp cả lòng người. Đó sẽ là động lực mạnh mẽ đưa đến nghiệp báo chung mà con người phải gánh chịu như: chiến tranh, thù hận, tai ương bảo lụt, bệnh dịch v.v… Điều tệ hại nhất có thể xảy ra, là tự con người vô tình hay cố ý cột chặt tôn giáo với chính trị, biến thành những mâu thuẩn phức tạp trong cộng đồng xã hội, làm con người khó tiếp nhận bản chất trong sáng của Đạo Phật.

Dù là xuất gia hay tại gia, thường niệm pháp Quy Y trong đời sống, lấy Tam Bảo làm mục đích làm lợi ích cho Dân Tộc và cho cả chúng sinh. Điều đó các nhà lãnh đạo tôn giáo, hay tín đồ phải có cái nhìn tổng quát, có sự hy sinh cao thượng, giữ gìn hình ảnh trong sáng của Tam Bảo trong cuộc đời. Tổ chức Phật Giáo chân chính là không lệ thuộc vào thế lực vương quyền hay tổ chức chính trị, vì chính Đức Phật là người đầu tiên rời bỏ vương quyền và chính trị để tu đạo. Từ xưa cho đến nay chỉ có các thế hệ vua chúa, hay quan chức lãnh đạo trong quốc gia đều từ bỏ địa vị công danhcầu đạo. Đức Phật cũng không cho phép đệ tử xuất gia của Ngài nhận một địa vị hay chức quyền trong một tổ chức chính trị xã hội. Dù ở hoàn cảnh nào, Đức Phật và các vị Cao Tăng luôn luôn là ở vị trí một người hướng đạo thoát tục, như là một vị Quốc sư để đóng góp tư tưởng giải thoát vào lòng Dân Tộc. Các ngài không quỵ lụy trước sức mạnh của địa vị công danh mà luôn thể hiện tình thương bình đẳng, dùng giáo lý giải thoát để hóa độ.

3- Thái độ sống của Người học Phật:

Khi một người đã quy y Tam Bảo không nhận thức tầm quan trọng của nền đạo đức được xây dựng từ giới luật Phật Giáo, cho dù có nỗ lực muốn bảo vệ đạo Pháp cũng là một điều thiếu sót lớn. Đôi lúc do sự nhiệt huyết mà thiếu trí tuệ biến thành sự rối loạn trong tổ chức. Thực tế do bất đồng quan điểm hành đạo sinh ra mâu thuẩn trong tổ chức Tăng Đoàn, từ đó dẫn đến băng hoại niềm tin tín đồ, gây tổn thương đến Đạo Pháp.

Phật Giáo luôn lấy hạnh phúc con người làm mục đích hoằng pháp. Trước một chế độ không yêu chuộng Phật Giáo, hay một thế lực ngoại đạo cực đoan luôn hủy báng Tam Bảo, trong hoàn cảnh đó, đánh trả quyết liệt bằng võ lực ư? Nuôi lòng thù hận ư? Khoanh tay ngồi nhìn ư? Nếu đã quy y Tam Bảo rồi bạn phải làm gì?

Đánh trả quyết liệt bằng vũ lực thì không thể xảy ra, vì Đạo Phật vào đời bằng giáo pháp từ bitrí tuệ chứ không mang theo một vũ khí nào.

Khởi lòng căm thù thì càng không đúng vì bản chất Đạo Phật là loại trừ Tham, Sân, Si.

Khoanh tay ngồi nhìn thì cũng không phải, vì lý tưởng của Đạo Phật là chia sẻ nỗi khổ đau của dân tộc và nhân loại. Cụ thể Đức Phật là người đầu tiên lên tiếng nói bình đẳng, phủ nhận sự phân biệt giai cấp tại xứ Ấn Độ.

Đạo Phật không thiết lập tổ chức tôn giáo thông qua con đường chính trị, hay dùng thủ đoạn võ lực để ép người vào tôn giáo mình. Người đã quy y Tam Bảo luôn sống bằng trí tuệ để không bị đánh lừa bởi những quan điểm sai lạc. Dù ở trong hoàn cảnh nào, người học Phật luôn hành xử cho phù hợp khế lý và khế cơ. Khế lý là tiếng nói phù hợp với chân lý, khế cơ là tiếng nói phù hợp với căn cơ của chúng sanh.

Muốn mọi người tin nhận Tam Bảo, trước hết mở rộng tầm nhận thức về giá trị của Đạo Phật. Đừng thất vọngsân hận khi họ chưa theo mình, đặc biệt khi họ chưa biết mình là ai. Hãy nghe Đức Phật dạy: “Này các Kalamas, chớ có tin vì nghe truyền thuyết, chớ có tin vì theo một lập trường, chớ có tin vì đánh giá hời hợt các dữ kiện, chớ có tin vì phù hợp với các định kiến, chớ có tin vì phát xuất nơi có uy quyền, chớ có tin vì vị sa môn là bậc đạo sư của mình. Này Kalamas, khi nào các ngươi biết rằng những việc này là tốt, những việc này là thiện, những việc này được mọi người tán thán. Những việc này nếu thuận theothực hành sẽ mang lại lợi ích tốt đẹp thì các ngươi hãy chấp nhận chúng” (HT.Thích Minh Châu, Trường Bộ kinh I, Kinh Kalamas).

Đạo Phật chủ trương đấu tranh ôn hòacương quyết trên tinh thần bất bạo động. Đó không phải là thái độ nhu nhược mà là phong cách trí tuệ, chứa đựng sức mạnh của lòng kiên trì của người giữ gìn chân lý, không phải bằng thái độ phản ứng bồng bột nhất thời trước một bối cảnh nào đó. Đức Phật dạy rằng:

“Với hận diệt hận thù,
Đời này không có được.

Không hận diệt hận thù,

định luật ngàn thu.” (HT Minh Châu dịch, Kinh Pháp cú)

Thực tế, vì những lý do nào đó nền đạo lý Từ Bi không được xã hội tôn vinh, mặc dù Phật giáo có khả năng đóng góp tích cực cho đời sống con người qua nhiều thế hệ. Tình trạng này đưa đến công tác giáo dục tri thức đạo lý bị hạn chế, trong xã hội có nhiều tội phạm, đó là điều đáng ưu tư nhất. Đạo Phật là đạo của sự thật, xuất phát từ sự thấy biết tường tận về nguyên lý nhân quảĐức Phật thuyết minh cho thế gian chứ không phải là lời dọa dẩm mang tính giáo điều. Ngài thường giáo huấn tường tận các đệ tử của mình tìm về hạnh phúc thông qua con đường tu tập thiện nghiệp. Nếu làm điều xấu ác chắc chắn sẽ nhận lấy quả báo khổ đau:

“Ý dẫn đầu các pháp,
Ý làm chủ, ý tạo;

Nếu với ý ô nhiễm,

Nói lên hay hành động,
Khổ não bước theo sau,
Như xe chân vật kéo.”(HT Minh Châu dịch, Kinh Pháp Cú)

Nhân quả theo nhau như bóng với hình, nếu làm một hành động với tâm sân hận để hủy báng Tam Bảo, xem nhưche khuất ngọn đèn chánh Pháp của Phật trong cuộc đời. Một trong những tội báo nặng nề được Đức Phật nhấn mạnh là tội hủy báng Tam Bảo. Cho nên người học Phật cần phải thận trọng khi bày tỏ quan điểm của mình về những vấn đề Phật sự. Phải biết lắng nghe để nhận rõ mọi trường hợp đúng sai, từ đó có lập trường đúng đắn trong vấn đề tu tậpphụng sự đạo Pháp.

3. Quy Y Tam Bảo:

Khi Quy Y Tam Bảo rồi, phải biết thân mạng là vô thường, thế gian là cỏi tạm, nổ lực đoạn trừ tham lamchấp trước để hướng đến giải thoát. Tấm thân mà ta yêu quý suốt cuộc đời, rồi cũng biến thành tro bụi. Tài sản tích trữ một đời người, khi lìa trần không mang theo được. Những người thân yêu như cha mẹ, vợ chồng con cái không đi theo ta về thế giới khác được. Chúng ta chỉ mang theo cái nghiệp thức xấu hoặc tốt mà quyết định cảnh giới giải thoát hay khổ đau. Cho nên mọi người cần phải sớm phát bồ tâm để phụng sự Tam Bảo.

Bồ Đề Tâm là tâm hướng đến lý Quy Y Tam Bảo, làm bất cứ hành động nào cũng nghĩ đến lợi ích của tha nhân, khế hợp hai yếu tố từ bitrí tuệ. Nếu tâm chúng tatình thương rộng lớn, thì dẫn đến năng lực tạo công đức rộng lớn. Dấu hiệu của tâm Bồ Đề khai phát là bất cứ một hành động nào với tâm niệm thanh tịnh thì công đức cũng biến khắp pháp giới, trên nguyên lý “Một có trong tất cả, tất cả có trong một”. Nếu chúng ta sống trong tỉnh giác, một giọt nước mắt của em bé đang chảy vì thiếu ăn, một cụ già cô đơn rên rĩ bên vỉa hè nào đó cũng là nỗi xót xa trong lòng mình. Một đóa hoa nở bên đường, hay một nụ cười tươi của đứa trẻ cũng góp cho mình sự hạnh phúc, đáng chắp tay để nói lời tri ân. Một cọng cỏ rung bên kia cánh rừng xa xôi nào đó cũng có mặt trong tâm ta. Vũ trụ rộng lớn nhưng không ngoài một Tâm, con ngườithế giới khách quan “Không phải một mà không phải khác”. Từ nhận thức như thế, chúng ta thấy Đạo Phật rất đẹp, Tam Bảo rất là cao quý, giúp ta mở rộng cỏi lòng đối với con ngườivạn vật.

4. Tiêu chí phụng sự Tam Bảo:

Thực hiện tôn chỉ Đạo Phật truyền thốngtu tập Giới Định Tuệ để đối trị Tham Sân Si. Căn bảngiáo dục chư TăngPhật tử tôn trọng giá trị với quy củ tự viện theo giới luật Phật chế. Giới luật của Phật Giáo không phải là sự ràng buộc mà là sự bảo hộ cho đời sống chúng ta không bị phiền não. Đó là kim chỉ nam để hướng chúng ta đến cuộc sống Chân Thiện Mỹ. Đó là liều thuốc quý nuôi dưỡng thân tâmnếp sống hạnh phúc ngay trong đời này. Đó là con đường duy nhất đem đến sự lợi ích cho Tăng NiTín Đồ hướng giải thoát giác ngộ. Vì con đường Giới Định Tuệ là nền tảng của các pháp môn tu tập trong Đạo Phật.

Tổ chức Tăng đoàn theo nguyên tắc giới luật để thích ứng với nhu cầu tu học thiết thực của chư Tăng. Bất cứ một tổ chức giáo hội hay một tự viện nào mà không phát triển công tác giáo dục tri thức Phật họcxây dựng tinh thần giải thoát thông qua sự tu học thì sẽ trái ngược với tôn chỉ của Đạo Phật, không đem sự nương tựa xứng đáng cho chư TăngTín đồ.

Giải quyết tình trạng phụng sự Tam Bảo từ vấn đề lý tưởnghiện thực hoàn toàn đối lập. Cụ thểlý tưởng tốt đẹp được mọi người ưa chuộnghiện thực chưa đem được lợi ích lớn cho Đạo Pháp. Đây là vấn đề Tăng NiPhật tử phải suy xét tường tận mọi phương pháp cụ thể để đưa Đạo Phật vào trong mọi hoàn cảnh xã hội một cách thiết thực. Nguyện cầu chư Phật gia hộ cho thiền môn nghiêm tịnh, Tăng già hòa hợp, thất chúng câu hội đồng tu, đạo Pháp trường tồn, thế giới hòa bình, và chúng sanh an lạc.

Chùa Tam Bảo, Mùa Vu Lan 2008

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 16436)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11883)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 12070)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12756)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 12707)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10224)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13953)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10210)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13685)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16248)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11945)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12957)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11626)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12651)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10778)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10972)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10926)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11863)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12735)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11044)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12603)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11298)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
(Xem: 12491)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14092)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10839)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10510)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11167)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11975)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13102)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12338)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15325)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 14315)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12081)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15321)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11987)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12387)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11148)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12072)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10595)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12544)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13147)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14776)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12647)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16528)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19626)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 12238)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 13474)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11930)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11620)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12750)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14495)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12587)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15651)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13597)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12877)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 17996)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11147)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 12157)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13031)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10285)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant