Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Những Lợi Ích Diệt Trừ Tham Ái

01 Tháng Năm 201509:20(Xem: 6286)
Những Lợi Ích Diệt Trừ Tham Ái
NHỮNG LỢI ÍCH DIỆT TRỪ THAM ÁI

Thích Trí Giải


Những Lợi Ích Diệt Trừ Tham ÁiLời nói đầu:

Nền giáo dục hòa bình của Đạo Phật là một con đường đạo đức nhân bảnthiết thực, là căn cứ trên chân lý từ bi, công bằng và ngay thẳng để thông cảm giữa những quốc gia, chủng tộc, cộng đồngtôn giáo, nhằm mục đích thiết lập một cuộc sống ổn định, hạnh phúc cho gia đìnhxã hội.

Việc diệt trừ tham ái thì có rất nhiều lợi ích, mang lại cuộc sống an lạc, hạnh phúcgiải thoát ngay trong cuộc đời này. Trên thực tế thì có rất nhiều lợi ích, ở đây người viết chỉ nêu những lợi ích chính về hòa bình, về môi trường, và đạo đức.

A. Hòa Bình

1. Chiến tranh

Ngày nay con người chạy theo những tài sản vật chất, những danh lợi địa vị, những quyền lợi của quốc gia, để thỏa mãn dục vọng mà thiếu tinh thần đoàn kết, hòa hợp, thiếu tinh thần trách nhiệm tương quan, nên gây ra biết bao nhiêu tội lỗi, chiến tranh, xung đột trong xã hội. Đức Phật dạy:

Này các Tỷ-kheo, do dục làm nhân, do dục làm duyên, do dục làm nguyên nhân, do chính dục làm nhân, vua tranh đoạt với vua, Sát-đế-lỵ tranh đoạt với Sát-đế-lỵ, Bà-la-môn tranh đoạt với Bà-la-môn, gia chủtranh đoạt với gia chủ; mẹ tranh đoạt với con, con tranh đoạt với mẹ; cha tranh đoạt với con, con tranh đoạt với cha; anh em tranh đoạt với anh em; anh tranh đoạt với chị; chị tranh đoạt với anh; bạn bè tranh đoạt với bạn bè. Khi chúng dấn mình vào tranh chấp, tranh luận, tranh đoạt, chúng tấn công nhau bằng tay, chúng tấn công nhau bằng gạch đá, chúng tấn công nhau bằng gậy gộc, chúng tấn công nhau bằng đao kiếm. Ở đây, chúng đi đến tử vong, đi đến đau khổ gần như tử vong [1]

"Lại nữa, này các Tỷ-kheo, do dục làm nhân, do dục làm duyên, do dục làm nguyên nhân, do chính dục làm nhân, chúng cầm mâu và thuẫn, chúng đeo cung và tên, chúng dàn trận hai mặt và tên được nhắm bắn nhau, đao được quăng ném nhau, kiếm được vung chém nhau. Chúng bắn, đâm nhau bằng tên, chúng quăng, đâm nhau bằng đao, chúng chặt đầu nhau bằng kiếm. Ở đây, chúng đi đến tử vong, đi đến đau khổ gần như tử vong" [2]

Nguồn gốc khổ đau và xung độtnguyên nhân phát sinh từ tâm dục vọng, tham ái, và chấp thủ của mỗi con người. Muốn đoạn trừ mọi nguyên nhân đó chỉ có tình thương và sự hiểu biết với nhau mới không tạo ra sự chống đối hiềm khích, ganh tỵ, kiêu căng, tham lam, sân hận, không gây ra chiến tranh tự thân, gia đình, xã hội; và phá mọi hàng rào thành kiến, dẹp bỏ lòng tự ái, ích kỷ, tôn trọng lẽ phảicông bằng đối với mọi người. Như vậy, “hòa bình là một kết quả ý chí quyết liệt, một cuộc đấu tranh kiên cường, một vấn đề tự giáo dục và tự huấn luyện để dân chúng có thể yêu quý hòa bình, như một vật báu cần phải thực hiện”

Ngược lại con người không có yêu thương lẫn nhau, thì cuộc sống con người trở nên khổ đau và phát sinh nhiều tai hại, xung đột, giết hại nhiều người, đó là một hành động từ tâm hận thù, si mê dẫn dến nguyên nhân chiến tranh chết chóc. Nên trong kinh Pháp Cú Đức Phật dạy:

“Hận thù diệt hận thù
Đời này không có được
Không hận diệt hận thù
định luật ngàn thu” (pc:5)

Đức Phật dạy: “Chiến tranh nào cũng đem đến khổ đau vô lượng vô biên, chiến thắng sinh thù oán, bại trận nếm khổ đau. Cho nên phương pháp hay nhất là đừng dùng chiến tranh để giải quyết các xung đột, phải tìm mọi phương tiện hòa bình để chấm dứt các bất đồng ý kiến và các xung đột”

"Thắng trận sanh thù oán,
Bại trận nếm khổ đau,
Ai bỏ thắng, bỏ bại,
Tịch tịnh hưởng an lạc". [3]

Trong thế gian này hận thù không bao giờ suy giảm hận thù, chỉ có tình thương mới làm suy giảm hận thù. Vậy con người không có hận thù, sống với tình thươnglòng nhân ái để thế giới được hòa hợp thì nhân loại được hòa bình và hạnh phúc:

“Bà la môn tịch tịnh
Luôn luôn sống an lạc
Không đèo bồng dục vọng
Thanh lương, không sanh y
Mọi ác trược đoạn diệt
Tịch tịnh sống an lạc
Tâm tư đại hòa bình”.

Sân hận hành động như một cái kềm siết chặt những ai rơi vào sự chi phối của sân hận, và được xem là gây tai hại cho người đời. Cho nên, tốt hơn là đừng nói lời thô ác đối với bất cứ ai, vì lời nói thô ác đem lại những lời thù hận và cho đến đao trượng chạm người. Đức Phật dạy rằng:

"Hãy nhiếp phục phẫn nộ,
Giữ tình bạn không phai,
Không đáng mắng, chớ mắng,
Không nên nói hai lưỡi,
Phẫn nộ nghiền người ác,
Như núi đá nghiền người". [4]
"Lấy không giận thắng giận,
Lấy thiện thắng không thiện,
Lấy thí thắng xan tham,
Lấy chơn thắng hư ngụy". [5]

Thật vậy, con người cần phải xây dựng cuộc sống nội tâm an tịnh, xây dựng nhân cách vững vàng để có thể điều phục dục vọng tham ái, đoạn trừ các khổ đau. Thì ngay lúc đó, tình thương chân thật của con người cảm nhận được một cuộc sống an lạchạnh phúc. Hòa nhập vào trong lòng cộng đồngxã hội để xây dựng một đất nước hòa bình và thịnh vượng.

2. Tôn giáo:

Ngày này, thế giới đang trong tình trạng khủng hoảng về sự xung đột tôn giáo một cách nghiêm trọng. Đặc biệt nhất là Hồi giáo cực đoan với những cuộc bắn giết lẫn nhau, xuất phát từ sự sai lầm về ý thức tôn giáotư tưởng cực đoan, tiếp tay cho những kẻ cuồng tín, đánh bom, ôm bom tự sát. Họ bị kích động tinh thần bằng tư duy mù quán: Họ chủ trương rằng: “nếu một người hy sinh vì đạo thì sẽ đem bà con lên thiên đường sau khi chết.” Do đó họ không ngần ngại trước cái chết của những người xung quanh. Ví dụ: Gần đây nhất là vụ “đánh bom tại nhà thờ ở Irag.”

Hồi giáo xuất hiện trên 1300 năm về trước, ở những vùng Trung Đông Iran, Irag….những người đàn ông phải để râu, người nữ phải che mặt và không được đi làm, ngoại tình bị xử tử bằng cách ném đá đến chết… tất cả những điều này cũng từ quan niệm sai lầm về tư duy hữu ngã. Họ cho rằng con người sau khi chết sẽ còn lại một linh hồn bất diệt hay một bản ngã thường trú.

Thượng Tọa Rahula nói:

Phật giáo đứng duy nhất trong lịch sử tư tưởng nhân loại bác bỏ sự hiện hữu cái gọi là linh hồn, bản ngã hay Atman. Theo giáo lý nhà Phật, quan niệm bản ngã là một ảo tưởng sai lầm không đi đôi với thực tế và tạo ra có hại cho “ta” hay “ của ta” như tham đám ích kỉ, dục vọng, thù hận, tự kiêu, vị kỉ và các tật đố khác. Đó là nguồn gốc của các phiền não trên thế giới từ những mâu thuẫn cá nhân đến chiến tranh giữa các nước. Tóm lại, vì quan điểm sai lầm này mà tất cả những tội lỗi trên thế giới đã xảy ra”. [6]

3. Phân biệt chủng tộc:

Ngoài những vấn đề khủng hoảng về tôn giáo ra thì vấn đề chủng tộc cũng là điều khó nan giải và nó đã làm đau đầu cho các nhà tri thức tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới.

Chúng ta cũng thấy rằng các cuộc nội chiến trên thế giới được lịch sử ghi lại như ở Rwanda, Nam Tư, Somalia, Bosinia v.v..., đều có nguyên nhân từ những xung đột về chủng tộc và sắc tộc. Đức Phật dạy: “Không có giai cấp trong một dòng máu cùng đỏ và nước mắt cùng mặn”.

Lịch sử để lại những cuộc chiến tranh, xung đột giữa các chủng tộc và cái đáng ghê sợ nhất là chủ nghĩa diệt chủng. Trong đại chiến thế giới thứ II, ngày 16 tháng 3 của thập niên 1940 có đến năm triệu người dân Do - Thái bị tàn sát bởi bọn Phát-Xít Hitle và hơn hai triệu người dân Campuchia bị thiệt mạng do Pôn-Pốt gây ra. Nói theo quan điểm của Đạo Phật thì nguyên nhân xuất phát cũng từ tư duy “hữu ngã.” Sinh ra sự phân biệt chủng tộc, vì thế con người chém giết lẫn nhau, cho dù sống chung cùng một đất nước. Khi nào con người ý thức được và bỏ đi cái tư duy hữu ngã thì bấy giờ mới lắng dịu chấm dứt những cuộc tàn sát lẫn nhau.

Trong cuốn “Đạo đức học Phật giáo” HT Thích Minh Châu đã nói rằng: “Mọi người cần có nhận thức rằng, nguồn gốc sâu xa của tất cả mọi bất hạnh rối ren xung đột trên thế giới này chính là do tham, sân, si tiềm ẩn trong mỗi thân tâm của chúng ta. Đạo Phật gọi đó là món độc có tính bẩm sinh và di truyền. Thiên nhiên có thừa tài nguyên để thỏa mãn lòng tham không đáy của con người thiếu đạo đức và không giác ngộ”


B. Về môi trường.

Chúng ta cũng biết rằng năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) hiệp lại thành tâm lý và vật lý của con người năm uẩn, vậy sắc uẩn của con người là sự vận hành của tứ đại; (đất, nước, gió, lửa) là phần thân thể vật lý của con ngườitoàn thể thế giới vật lý. Cho nên thiên nhiên hay môi trường rất quan trọng đối với sự tồn tại hiện hữu của con người như P.D Yharma đã nhận định:

“Tất cả sinh vật và môi trường sống của chúng có phản ứng hổ tương, và ảnh hưởng qua nhiều cách, loài động vật, quần hoa và cây cối là tương thuộc qua môi sinh và phản ứng hổ tương”.

“Môi sinh nó vốn là một phức thể của nhiều nhân tố tương hệ, và nó năng động (nghĩa là nó thay đổi theo thời giankhông gian), có chức năng như một cái sàng chọn lọc các sinh vật cho sự phát triển qua rất nhiều hình thái làm nên sự hình thành của nó hoặc một sự hình thành khác trở nên nhân tố quyết định ở các giai đoạn phát triển quyết định của chu kỳ sự sống của các lo” [7]

Như vậy, mối quan hệ giữa con người và môi sinh, giữa môi sinh và sinh vật có liên quan mật thiết tự nhiên, gắn bó chặt chẽ không thể rời nhau. Con người được hình thành phát triển đều nhờ vào hệ sinh thái, các sinh vật được tồn tại cũng đều nương tựa vào các hệ sinh thái.

Nếu chúng ta không thấy rõ mối tương quan mật thiết này. Thì chính con người đang hủy hoại cuộc sống an lành, hạnh phúc chính mình, và nhân loại .

Con người không thể coi sinh vật là kẻ thùcần phải chinh phục và cải tạo nó. Nếu như cơ thể năm uẩn mà thiếu đi môi trường thì không thể tồn tại.

Vì môi trường có quan hệ trực tiếp hay gián tiếp đến đời sống của con người. Do đó những hành động không chân chánh, hoặc những việc làm có lợi trước mắt, nhưng để lại tác hại ảnh hưởng đến môi trường vẫn là hành động sai trái,

Những hành động cách đây ba mươi năm, nhưng hậu quả để lại cho con người rất nghiêm trọng. Mỹ đã ném xuống miền nam nước ta (vùng Củ Chi) hàng tấn bom, phút giây kinh hoàng ấy mặc dù không còn nữa nhưng nó đã để lại hậu quả “chất độc màu da cam” những trẻ em dị hình. Đó là nỗi đau thương tàn khốc, những chất độc hủy diệt đời sống của con người.

Cho nên con người cần phải bảo vệ môi trường, các tầng khí quyển, bảo vệ rừng, tài nguyên thiên nhiên, khoáng sản, động vật…Ngày nay con ngườilợi dưỡng bản thân, vì lòng tham ích kỷ đã khai thác rừng, khai thác tài nguyên khoáng sản … một cách bừa bãi gây nên lũ lụt lớn, ảnh hưởng đến mùa màng, nhà cửa, và tánh mạng con người.

Con người do vì lòng tham bản thân mình đã đánh cá và chăn nuôi gia súc một cách ồ ạt. Đó là điểm lợi cho con người, tuy nhiên nó có mặt hạn chế, đó làm suy yếu những hệ sinh thái khác, như nguồn nước ngọt, tàn phá đa dạng sinh học khác.

Tất cả đều do con người thiếu ý thức, và lòng tham ái mà gây nên sự tai hại đến môi trường gây nên lũ lụt. Tất cả mọi người cần nên hiểu điều này, tự ý thức để bảo vệ cuộc sống bình yên hạnh phúc không có lũ lụt, bệnh tật cho mình, cho người và xã hội. Đây là triết lý bảo vệ môi sinh cần thiếtthế giới ngày nay đang kêu gọi ý thức của mọi người trên khắp các châu lục cùng nhau hợp tác xây dựng cuộc sống tốt đẹp chung cho thế giới.

Muốn đạt được mục đích ấy con người phải hiểu rõ sự tác hại của lòng tham ái và biết bảo vệ môi trường sống không có khai thác rừng, tài nguyên thiên nhiên một cách bừa bãi, và ý thức việc xả nước thải,…làm được điều đó chính là bảo vệ sự tồn tại của mỗi người trên trái trái đất.

C. Về Đạo Đức:

1. Cá nhânxã hội:

Trong thời công nghiệp hiện đại, sự chiếm lĩnh ngự trị của ngành khoa học công nghệ thông tin, phương tiện giao tiếp con người được thực hiện trên internet. Chính những phương tiện hiện đại này, khiến cho giá trị đạo đức vốn có của con người bị suy thoái, những giá trị nhân bản về tình người, tình thương muôn loài bị hạn chế, bên cạnh đó xuất hiện những sản phẩm văn hóa xấu kém, đồi trụy, chất lượng giáo dục, vai trò giáo dục học đường không đủ chức năng hướng dẫn tinh thần.

Nền kinh tế thị trường cuốn hút con người chạy theo thế lực của đồng tiền, những thú vui sa đọa chết người như hút chích xì ke, ma túy, giết người cướp của, hiếp dâm, Cưỡng dâm trẻ em, buôn bán trẻ em, đơn cử một vài trường hợp trong xã hội ngày nay, bị suy thoái đạo đức trầm trọng

a- Cá nhân:

Trước tiên chúng ta hiểu thế nào gọi là “cá nhân.” Theo Xã hội học định nghĩa: “cá nhân là một thực thể tồn tại độc lập trong không gianthời gian. Cá nhân hợp lại kiến tạo nên xã hội và ngược lại, cá nhân cũng hình thành từ xã hội. các cá nhân cùng nhau chia sẻ nền văn hóa mà họ đã tham gia xây dựng. Môi trường quan trọng của cá nhân là môi trường xã hội hóa, nó là một quá trình kéo dài diễn ra ở mọi lứa tuổi và mọi giai đoạn xã hội trong suốt cuộc đời của cá nhân.”

Giáo sư Bruce J.Cohen định nghĩa là: “cá nhân là một con người cụ thể”, còn J.H.Fichter nhà xã hội học người Anh định nghĩa là: “cá nhân là một con ngườilý tính.”

Phật giáo xét cá nhân về phươg diện bản chất, còn xã hội học thì quan niệm cá nhân về phương diện hình thức. Cả hai tuy có khác nhau trên lãnh vực nhận thức nhưng cũng đều đi đến mục đích cuối cùnggiáo dục cá nhân.

Đức Phật dạy: “Con người là một tập hợp của Năm uẩn. Nếu không tuệ tri được vị ngọt, sư nguy hiểm và sự xuất ly của nó sẽ đưa đế khổ đau”. [8]

Xã hội ngày nay khủng hoảng cá nhân đến mức độ nghiêm trọng, Đạo đức xã hội suy thối dấn đến khủng hoảng cá nhân. Con người luôn chạy theo đời sống vật chất, khiến con người rơi vào khủng hoảng mất lý trí, đời sống không có tâm linh, không có niềm tin, tín ngưỡng tôn giáo dễ kéo theo: bạo lực , đâm chém, giết người cướp của, hành động tàn ác mất tính người…mại dâm, ma túy nghiện ngập. Những con người này sống theo chủ thuyết hưởng thụ, đồng với chủ thuyết hiện sinh của J.P.Sartre ở thập niên 60. Con người tham lam vô độ...người ta sống vì đồng tiền hơn là đời sống đạo đức.

Khi con người sống trong đời sống ngũ dục thì tham lam không bao giờ biết đủ, biết thỏa mãn. Tất cả những cá nhân sống đời sống trụy lạc khiến cho xã hội rối ren, vô tổ chức, bạo lực, mai dâm, ma túy, giết người cướp của, con giết cha mẹ, cháu giết ông bà, vợ giết chồng, cha giết con…Đó là hậu quả của một xã hội với chủ nghĩa duy vật, nguyên nhân chính cũng từ vô minh, tham ái, sân hận, ba độc tố này tạo nên sự khủng hoảng về cá nhân

b. Xã hội:

Từ vấn đề khủng hoảng tôn giáo, phân biệt chủng tộc, khủng hoảng về cá nhân, khủng hoảng về kinh tế chính trị dẫn đến sự khủng hoảng về xã hội là một điều tất yếu.

Hiện nay, nhất là con người sống đối diện với nạn đói nghèo, thiên tai, chiến tranh, bệnh tật đặc biệt căn bệnh thế kỷ AIDS.

Tất cả tai họa trên đều do con người gây ra, Họ không cần biết đến đời sống giá trị tâm linh, lao vào vòng xoáy của tội lỗi tạo ra vô số điều ác

Thời cuộc hoàn cảnh dẫy đầy điều xấu, con ngườithỏa mãn lòng dục vọng của mình khiến nền đạo đức xã hội bị băng hoại, luân thường đạo lý bị đảo lộn, con người sống chà đạp lên nhân phẩm lẫn nhau.

2. Phương pháp khắc phục hậu quả

Trước tình hình đạo đức xuống cấp, bị băng hoại như vậy, phương pháp và diệu dược trị liệu hữu hiệu nhất, đòi hỏi mỗi con người phải có cái nhìn sáng suốt bằng trí tuệ(chánh kiến), hành động đúng đắn (chánh nghiệp), suy nghĩ đúng đắn (chánh tư duy), sống đúng đắn (chánh mạng), nói chung là mỗi con người nên áp dụng Bát Chánh Đạo, hoặc là ngũ giới (không sát sinh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu).

Để tu tập diệt trừ tham ái dục vọng của con người, và giúp con người tìm lại giá trị nhân bản của chính mình (phản quan tự kỷ) làm cho nền đạo đức xã hội được quân bìnhtrở về chân thiện mỹ, tùy theo mức độ nhận thứcthực hành của mỗi người, mà đạt được cuộc sống an lành hạnh phúc. Qua đây chúng ta khẳng định rằng, sở dĩ nền đạo đức gần như băng hoại là do con người sống bằng dục vọng thấp hèn, chấp ngã, và hành động ngược lại với tinh thần Bát Chánh Đạo.

Nhìn kỹ tình trạng xã hội, sự dấy sinh lòng khát ái đang trải rộng khắp xã hội, mà không có sự kiểm soát đạo đức, từ sự tích tập lòng khát ái này mà tham, sân, si, phát sinh, tạo nên một hố sâu tội lỗi.

Phật giáo nói chung và đạo đức Phật giáo nói riêng ra đời và hình thành không ngoài mục đích giải thoát nỗi khổ đau cho con ngườikiến tạo một xã hội tốt đẹp. Trong đó bao gồm tính nhân bản, luật pháp công bằng, văn hóa, và không còn các tệ nạn.

Giáo dục đạo đức Phật giáo là luôn nhắc nhở con người thấu hiểu thuyết nhân quả, nghiệp báo như là một lẽ công bằng, một quy luật khách quan, nó khuyến khích con người hành thiện từ lời nói đến hành động, một nền đạo đức xây dựng trên cái tâm, hướng về nội tâm để cải tạo con người, cải tạo xã hội.

Do vậy, muốn ngăn ngừa tham ái dục vọng, diệt khổ, chủ yếu chữa trị cái tâm con người, xã hội là nhiều cá nhân hợp thành, nếu mọi người đều tốt, thì xã hội cũng tốt đẹp theo.Vì vậy, muốn xây dựng một xã hội an vui tốt đẹp hạnh phúc thật sự, trước hết phải có những con người nhân cách đạo đức thật sự, việc chữa trị xã hội tốt đẹp, tức là phải chữa trị từng cá nhân.

Đạo Phật chủ trương rằng: Con người phải bắt đầu từ chính mình, phải ý thức tự chủ chính mình trong từng phút, từng giờ trong cuộc sống của mình. Chỉ có như vậy thì xã hội mới trở thành tốt đẹp hơn, hoàn thiện hơn, nếu không có những con người lành mạnh, làm sao chúng ta mong đợi một xã hội chân thiện mỹ.

Điều ấy đang trông chờ vào sự nỗ lực cá nhân mỗi con người; thế hệ tương lai đi vào cuộc sống mới, xã hội mới và kỷ nguyên mới. Với bao mơ ước hy vọng tốt đẹp, hạnh phúc không có những con người khát ái dục vọng ích kỷ

D. Tóm lại:

Như vậy, toàn bộ hệ thống giáo dục Phật giáo thiết lập trên nền tảng giới, định và tuệ, là một nền giáo dục toàn diện bao gồm các giá trị nhân bản khác nhau trên tinh thần vô ngã, vị tha, giàu lòng nhân ái và rất bình đẳng; với ý thức trách nhiệm cá nhân, hòa nhập mình, người, xã hội và môi trường xung quanh là một.

Khi nào con người dứt bỏ lòng tham ái ích kỷ cái “ta” đạt đến tinh thần vô ngã. Thì con người sống cho phù hợp với vũ trụ nhân sinh, thoát ra ngoài các trói buộc tư duy hữu ngã.

Phật giáo giáo dục con người hoàn toàn không xây dựng trên tín điều, mê tín mà luôn xây dựng con đường chánh kiến “tri” và “hành” giáo lý Đó dựa trên tư duy thuần túy, và được xây dựng trên tiêu chuẩn về những giá trị nhân cách đạo đức giữa cái Chân - Thiện - Mỹ của cuộc sống.

Đây là một đường hướng giáo dục đích thực sống động và đầy sáng tạo trong hệ thống giáo dục Phật giáo nhằm góp phần xây dựng một nền hòa bình, an lạc, hạnh phúc cho mỗi cá nhân và cho cả cộng đồng nhân loại.

Thích Trí Giải

Chú thích:

[1] Trung Bộ I. 87

[2] Trung Bộ I. 87A

[3] Tương Ưng I. 102

[4] Tương Ưng I. 305

[5] Pháp Cú. 223

[6] W.Rahula, What the Buddha taught, New-Yort,1962, tr.51

[7] Lý Thuyết Về Nhân Tính Qua Kinh Tạng Pali tr 72- 73

[8] Tương ưng bộ kinh III, tr.34

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8292)
Đạo Phật trên ý nghĩa thiết yếu là “biện chứng giải thoát” hay là con đường gỉai thoát. Gỉai thoát khỏi khổ đau, sinh tử luân hồi.
(Xem: 7576)
Lâu nay mình đã sống trọn vẹn hết thời giờ chưa? Mình có để lãng phí thời giờ hay không? Và bằng cách nào để chúng ta sống một cách có ý nghĩa?
(Xem: 8603)
Hai chữ “Sinh Tử” đã khiến cho biết bao nhiêu người bất kể trí ngu giàu nghèo từ xưa đến nay đều phải lưu ý tới và khổ tâm vì nó.
(Xem: 7140)
Những gì có mang một tính chất riêng (svalakṣaṇa) đều được gọi là pháp (dharma): “svalakṣaṇadhāraṇād dharmaḥ”[1], tức do duy trì yếu tính của tự thân nên nó được gọi là Pháp.
(Xem: 8418)
Đối với Phật giáo mỗi người làm chủ lấy vận mạng của chính mình. Mỗi chúng ta đều mang trong mình một tiềm năng ngang nhau...
(Xem: 7702)
Đạt được cơ sở con người, cơ sở đó giống như một cái bình thật quý và hiếm hoi, giúp ta có thể giải thoát tất cả kẻ khác và cho cả chính ta
(Xem: 7004)
Như Lai hay Như Khứ là dịch nghĩa của từ Sanskrit: Tathāgata, được ghép từ hai yếu tố là tathā và Agata hoặc tathā và gata.
(Xem: 8221)
TA THƯỜNG NGHE NÓI rằng thật khó tìm được một thân người. Không phải là bất kỳ thân người nào mà là một thân người “quý báu” có nối kết với Giáo pháp – đó chính là điều khó đạt được.
(Xem: 9243)
Đọc tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung, người ta thường thấy câu thành ngữ “Buông đao đồ tể, lập tức thành Phật”.
(Xem: 7932)
Thuật từ Uẩn 蘊, ngữ nguyên Sanskrit là skandha, Pāli là khandha, Hán phiên âm, Tắc-kiện-đà 塞健陀, dịch là tích tụ, loại biệt, tức là năm loại khác nhau về các pháp hữu vi.
(Xem: 8421)
“Bạn có nghĩ rằng hôm nay chỉ là một ngày nữa của đời mình chăng? Thật ra hôm nay không phải chỉ là ‘một ngày nữa’ thôi, mà nó là một ngày được riêng dâng tặng cho bạn.
(Xem: 8061)
Phật dạy chúng ta hãy đem chánh niệm vào tất cả những việc mình làm trong đời sống hằng ngày. Ngài không bỏ ra ngoài bất cứ một việc làm nhỏ nhặt nào hết...
(Xem: 9612)
Những lời khuyên thiết thực, thâm sâutrong sáng của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma, chỉ cho ta cách tu tập giúp biến cải tâm linh ta, biến ta thành một con người cao cả hơn...
(Xem: 6778)
Trong cuộc sống, chúng ta thường dùng lời nói để trao đổi thông tin, để diễn đạt ý tưởng hoặc để bày tỏ, biểu lộ tâm tư tình cảm của mình…
(Xem: 6809)
Đức Phậtlòng từ bi mà thương xót chúng sinh, nên đã chỉ ra nỗi khổ, niềm đau, chỉ dạy phương pháp dứt khổ, để chúng ta cùng được sống trong bình yên, hạnh phúc.
(Xem: 7028)
Hộ trì các căn (Indriyesu guttadvàro) hay phòng hộ các giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) là một trong các biện pháp tu tập căn bản của đạo Phật.
(Xem: 6664)
Tăng quan luận (僧官論) là một trong những bộ luận do ngài Thích Ngạn Tông (557-610)1 trước tác, nhằm thuyết minh và lý giải các chức vụ do chư Tăng đảm nhiệm (廣明僧職)
(Xem: 7209)
Chưa có tài liệu nào về niên đại của đức Phật lịch sử, vị sáng lập đạo Phật, được truyền thừa nhất quán trong các tông phái chính của Phật giáo cũng như được các học giả cùng công nhận.
(Xem: 6850)
Kinh Hoa Nghiêm, như các kinh điển Đại thừa, lấy tánh Không làm nền tảng. Tánh Không trong kinh này là Pháp thân của Phật bổn nguyên Tỳ-lô-giá-na, và toàn thể vũ trụhiện thân của Ngài.
(Xem: 16245)
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
(Xem: 7541)
Con đường Bồ tátcon đường lý tưởng nổi tiếng của Phật giáo Đại thừa – không phải là pháp tu để thành thánh, thành tiên, mà là một lối sống ai cũng có thể ước mong thành tựu được.
(Xem: 6483)
Sau kiến đạo, các pháp hữu lậu không thuộc kiến sở đoạn (darśana-prahātavya). Tức các pháp hữu lậu còn lại, trừ kiến chấp ô nhiễm khởi lên do tà phân biệt.
(Xem: 6959)
Đa số người xưng là Phật tử mà không biết rõ đường lối tu hành, ai bày sao làm vậy, trở thành mê tín sai lầm, khiến người đời phê bình đạo Phật là huyền hoặc, là vô ích.
(Xem: 7283)
Tánh "không" (S. 'Suunyataa, P. Su~n~nataa) là một trong các học thuyết quan trọng bậc nhất của Phật giáo và cũng là học thuyết bị người khác đạo hiểu sai lầm nhiều nhất.
(Xem: 6367)
Tánh Khôngbản tánh của tất cả mọi sự vật, mọi hiện tượng, mọi hành động của thân khẩu ý, nên ở đâu trong không gian nào thời gian nào chúng ta cũng có thể nhận ra nó...
(Xem: 6724)
Nói đến Bát-nhã (Trí huệ), các luận thường phân làm ba: Bát-nhã văn tự, Bát-nhã quán chiếu, và Bát-nhã thật tướng.
(Xem: 5579)
Người Phật tử chân chính chớ nên dòm ngó lỗi người, chúng ta chỉ nên nhìn lại hành động của mình, xem đã làm được điều gì tốt đẹp hay chưa.
(Xem: 8904)
"Vậy nên này Ananda, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình (atta-dipà viharatha), hãy tự mình y tựa chính mình (attàsaranà) chớ y tựa một cái gì khác.
(Xem: 7394)
Tổ Quy Sơn dạy: "Nếu mình chưa là bậc thượng lưu, vượt thẳng lên thềm vô thượng giác thì hãy để tâm vào giáo pháp, ôn tầm kinh điển, rút ra nghĩa lý tinh hoa, truyền bá tuyên dương tiếp dẫn hậu lai, trả ơn đức Phật".
(Xem: 22300)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 7791)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 6855)
Bài Pháp này nhắc nhở các bạn về một số điều Phật dạy, như một cách để sách tấn, khuyến khích các bạn chăm chỉ thực hành đúng theo lời Phật dạy.
(Xem: 15036)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 8616)
Sự hình thành và phát triển tâm lý học Phật giáo là một quá trình vừa diễn dịch vừa xây dựng kéo dài suốt hàng thế kỷ trong lịch sử truyền thừa Phật giáo kể từ thời Đức Phật.
(Xem: 13099)
Giáo lý Duyên khởi (Cái này sinh, nên cái kia sinh, cái này diệt nên cái kia diệt) là nguyên tắc chung giải thích về sự hình thành hay hủy diệt của các pháp.
(Xem: 18965)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 6005)
Phật Thích Ca sau 49 năm thuyết pháp cũng bảo những lời ta nói là thuyết lại lời cổ Phật. Khổng Tử thì nhắn nhủ hậu thế: ông chỉ truyền lời Thánh hiền không thêm bớt không sáng tạo...
(Xem: 6239)
Ở đời cái gì cũng vậy, không phải ngẫu nhiên có được, mà đòi hỏi mỗi con người chúng ta phải tự nỗ lực, tự tầm cầu, tự suy tư để tìm đến con đường giải thoát cho tự thân và tha nhân.
(Xem: 7000)
Chân lý tương đối là những sự thật còn nằm trong đối đãi đối trị nhau. Những sự đối đãi ấy là...
(Xem: 7310)
Sanh tử sự đại là một đề mục lớn của Thiền Tông, và sanh tử luân hồi là một chủ đề phổ thông của Phật Giáo. Nói đến sanh tử luân hồi thì người Phật tử nào cũng nghĩ đến việc thoát ly sanh tử luân hồi.
(Xem: 8368)
Nghiệp báo đóng một vai trò rất quan trọng trong giáo lý nhà Phật.
(Xem: 5671)
Người ta thường tìm đủ mọi cách để gán một nhãn hiệu nào đó lên các lời giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 5872)
Đã lâu, đa số thanh niên quan niệm giải thoát của đạo Phật là siêu hình huyền hoặc đâu đâu, để dành riêng cho những người chán thực tại cầu vào chốn hư vô tịch diệt.
(Xem: 5513)
Sự hiện hữu của mỗi chúng ta hiện giờ và ở đây là do, từ, bởi, nhiều nguyên nhânđiều kiện.
(Xem: 6501)
Đồng Mông Chỉ Quán là một trước tác rất hàm xúc và có hệ thống, nếu hành giả cố gắng thực hành theo "Pháp yếu tọa Thiền tu tập Chỉ Quán" này chắc chắn sẽ đạt được kết quả lớn lao.
(Xem: 5921)
Đạo Phật chủ trương giác ngộ mang ánh sáng trí tuệ soi rọi cho thế gian. Mọi lẽ thật đều hiện bày dưới ánh sáng giác ngộ,
(Xem: 7507)
Mọi chúng sinh dù là người hay là thú , dù giầu hay nghèo, già hay trẻ, không ai là có thể tồn tại lâu dài mãi mãi trong một tình trạng , mọi thứ đều sẽ phải thay đổi và xa rời đi.
(Xem: 5808)
Bốn dấu ấn tiếng Phạn gọi là caturlaksana, tiếng Pa-li là caturlakkhana, hoặc còn gọi là Dharma mudra.
(Xem: 6734)
Đại thừa (Mahāyāna) phát triển một nhận thức mới về bản chất lịch sử của Đức Phật Śākyamuni.
(Xem: 6789)
Khi chúng ta tự gọi mình là những Phật tử, có nghĩa là chúng ta là những người đi theo Phật.
(Xem: 5725)
Phật Giáo là một tôn giáo xây dựng trên trí thông minh, khoa học và sự hiểu biết. Mục đích của tôn giáo ấy là để giúp loại trừ khổ đau và các nguyên nhân mang lại khổ đau.
(Xem: 6226)
Chúng ta học Phật, Phật dạy chúng ta hồi đầu, quy y tự tính giác. Tự tính giác tức là Phật tính. Phát Bồ đề tâm, tu Bồ Tát hạnh...
(Xem: 5511)
Phật pháp là những điều đức Phật chứng kiến được sau khi giác ngộ, đem chỗ chứng kiến ấy nói lại để cho mọi người hiểu biết để dứt sạch mê lầmgiác ngộ
(Xem: 7136)
Ý niệm về nghiệp hữu lý trên nhiều phương diện, nhưng một số người đã hiểu lầm về nghiệp.
(Xem: 6099)
Khả năng thích ứng tuyệt vời của Phật giáo đã giúp Phật giáo hội nhập với các nền văn hoá khác.
(Xem: 7922)
Bụt là thầy chỉ đạo Bậc tỉnh thức vẹn toàn Tướng tốt đoan trang Trí và bi viên mãn.
(Xem: 6086)
Người có tuệ giác biết nhìn thẳng vào sự thậtchấp nhận sự thật ấy dù đau thương rồi nỗ lực chuyển hóa, thăng hoa.
(Xem: 7113)
Đạo Phậtđạo từ bi và hành động thiết thực của nó mang đến sự an vui, bình yên cho tất cả chúng sinh.
(Xem: 6959)
Ai có thể hàng phục được mười tám giới: sáu căn, sáu trần, và sáu thức, khiến chúng đừng tạo phản thì người đó chính là Bồ Tát.
(Xem: 7015)
Trong Phật giáo, các từ ngữ "cầu nguyện," "cầu xin" hay "ước nguyện" được hiểu đồng nghĩa với thuật ngữ "pràrthanà" (Sanskrit) hay "patthanà" (Pali).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant