Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Từ Bi: Đưa Đạo Vào Đời

05 Tháng Năm 201509:00(Xem: 7114)
Từ Bi: Đưa Đạo Vào Đời
TỪ BI: ĐƯA ĐẠO VÀO ĐỜI

Như Liên


Từ Bi Đưa Đạo Vào ĐờiCách đây hơn 2500 năm, Đức Phật đã dạy những chân lý Vô thường (anicca), Khổ (dukkha) và Vô ngã (anatta). Giáo lýĐức Phật giảng dạy, dù có tính cách triết lý hay luân lý đạo đức v.v… đều với mục đích duy nhất là chỉ bày cho chúng sanh con đường thực hành để chứng ngộ tự thân bằng cách thể nghiệm tâm linh với trí tuệ trực giác. Giáo pháp của đức Phật, do vậy, được ví như chiếc bè để đưa người vượt qua dòng sông sanh tửĐức Phật chính là vị Thầy dẫn đường đầy trí tuệ, là vị lương y tài ba đầy lòng từ ái.

Chữ “Phật” vốn là phiên âm từ tiếng Hán của từ “Bud” trong “Buddha” mà người dân miền Bắc vẫn gọi là “Bụt” đã được đề cập trong nhiều câu chuyện dân gian. Bụt là một vị Tiên hiền hòa luôn giúp đỡ người tốt lúc lâm nạn, người hiền bị ức hiếptrừng trị những ai có tâm ác.

Như vậy, Buddha hay Đức Phật đã xuất hiện từ rất sớm ở Việt Nam và đã luôn đồng hành cùng dân tộc trải qua những cuộc thăng trầm thịnh suy của đất nước qua nhiều thời đại, trong đó có những giai đoạn đặc biệt như đời Lý, đời Trần đã tôn Phật giáoquốc giáo. Nhưng dù triều đại nào đi nữa, Phật giáo đã góp phần xây dựng nên một nền chính trị bằng lòng từ bi và trí tuệ. Phật Giáo không bi quan, không lạc quan, nhưng thực tiễn, không tuyệt đối tại thế, cũng không hoàn toàn siêu thế mà là con đường giác ngộ duy nhất. Phật Giáo cũng không phải là một tôn giáo bởi vì Phật Giáo không phải là “một hệ thống tín ngưỡngtôn sùng lễ bái”. Phật Giáo, chính xác hơn, là Đạo của trí tuệ, của sự sáng suốt và đây chính là đặc tính quý báu nhất mà con người muốn đạt đến.

Đạo Phật không buộc con người phải quy phục mù quáng như kẻ nô lệ chỉ có đức tin suông nơi giáo lý của Phật đà, điều này đã được minh chứng hùng hồn qua bài Kinh Kàlàmà đã từng làm rúng động hàng loạt các giáo phái ngoại đạo cách đây hơn 25 thế kỷ, và cho đến nay vẫn còn đầy sức hấp dẫn đối với giới khoa học, trí thức. - “Này quý vị Kàlàmà, đừng tin vì nghe truyền khẩu, đừng tin vì đó là truyền thống, đừng tin vì nghe đồn đại, đừng tin vì được ghi trong kinh điển, đừng tin vì lý luận, đừng tin vì suy diễn, đừng tin vì đã tư duy trên mọi lý lẽ, đừng tin vì dựa theo ý kiến đã được cân nhắc, đừng tin vì vị ấy có vẻ có uy quyền, đừng tin vì nghĩ rằng vị ấy là thầy của mình.” “Khi nào quý vị tự mình biết rõ: ‘Các pháp này là bất thiện; các pháp này là đáng chê; các pháp này bị người trí chỉ trích; các pháp này nếu được thực hiệnchấp nhận, sẽ đưa đến bất hạnh khổ đau’, quý vị hãy từ bỏ chúng. … Khi nào quý vị tự mình biết rõ: ‘Các pháp này là thiện; các pháp này là đáng khen; các pháp này được người trí ca ngợi; các pháp này nếu được thực hiệnchấp nhận, sẽ đưa đến lợi lạc hạnh phúc’, quý vị hãy đạt đến và an trú”. (Tăng Chi Bộ Kinh III.65). Chủ ý của bản kinh này là Đức Phật muốn xác định mạnh mẽ rằng niềm tin luôn phải được dẫn dắt bằng trí tuệ, nếu không như thế thì đến cuối cùng cũng chỉ là một sự sùng mộ, cuồng tín vô bổ mà thôi. Đức Phật cũng nhấn mạnh rằng mỗi người có thể trở nên trong sạch hay không đều do chính mình “Chỉ có ta làm điều tội lỗi, chỉ có ta làm cho ta ô nhiễm. Chỉ có ta tránh điều tội lỗi, chỉ có ta gội rửa cho ta. Trong sạch hay ô nhiễm là tự nơi ta. Không ai có thể làm cho người khác trở nên trong sạch.” (Pháp Cú, 165). Thật vậy, không một ai, dù là Thượng Đế hay Đức Phật, có đủ quyền năng để rửa sạch các tội lỗi của người khác. Nói một cách chính xác, không ai có thể rửa sạch và cũng không ai có thể làm hoen ố người khác. Đức Phật là một vị Thầy đã giúp ta chỉ ra con đường hướng đến chân thiện mỹ, nhưng chính ta là người phải tự thanh lọc tâm để hưởng hương vị tuyệt vời của pháp bảo khi đi trên con đường ấy.

Tinh thần tự lực tự cường ấy của Phật giáo đã gắn liền với cuộc sống người dân Việt qua bao thăng trầm của lịch sử, với các triều đại vua chúa, với các vị Quốc sư, thiền sư có tấm lòng đại từ đại bi để giữ gìn Quốc Thái Dân An.

Nói đến Từ – Bi, ít ai biết rằng Từ Bi là hai tâm sở không bao giờ xuất hiện cùng một lúc, khi tâm từ sinh khởi thì tâm bi vắng mặt hay ngược lại. Vậy, Từ Bi là gì?

I. Tâm từ được dịch nghĩa từ tiếng Pāḷi là mettacitta. Mettā (Sk. maitri) – tâm từ có nghĩa là từ ái, tình thương, hảo tâm, thiện chí, là cái gì làm cho lòng ta trở nên êm dịu. Tâm từ (mettā) không phải là tình thươngliên quan đến nhục dục ngũ trần, hay lòng trìu mến cá nhân đối với một người nào mà là tâm biết thương yêu cao thượng gồm cả bản thân lẫn vạn loại chúng sinh, cầu mong sự lợi ích, an lạc lâu dài cho mình và tha nhân. Mettā hay tâm từ là một trong Tứ vô lượng tâm, và cũng là một trong những giải thoát tâm, với tâm niệm tràn đầy tình thương là một đề mục thiền giúp tâm phát triển đến tầng mức cao thượng hơn (Vism 308).

Kẻ thù trực tiếp của tâm từsân hận, oán ghét, hay tức giận bực mình (kodha). Kẻ thù gián tiếp là lòng trìu mến cá nhân (pema). Tâm từ bao trùm tất cả chúng sanh, không loại bỏ và không phân biệt chúng sanh nào. Đến mức cùng tột, tâm từ là tự đồng hóa với tất cả chúng sanh (sabbattatā), thấy vạn vật với mình là một. Tâm từ là lòng chân thành ước mong cho tất cả chúng sanh đều được an lành hạnh phúc. Thái độ từ áiđặc điểm chánh yếu của tâm từ. Tình thương yêu của tâm từ không bị ô nhiễm bởi phiền não, luôn luôn đồng sanh với thiện tâm, và đối tượng của nó là tất cả chúng sinh không giới hạn, không ngoại trừ một chúng sinh nào.

II. Karuṇātâm bi, được định nghĩa là cái gì làm cho tâm của người tốt rung động trước sự đau khổ của kẻ khác, hoặc cái gì xoa dịu nỗi khổ của người. Đặc tính của tâm biý muốn giúp người khác thoát ra một cảnh khổ. Kẻ thù trực tiếp của tâm bi là sự độc địa muốn hại người (vật) (hi), và kẻ thù gián tiếp của nó là sự âu sầu, phiền muộn (domanassa).

Tâm bi bao trùm những chúng sanh đau khổtiêu trừ mọi hành động độc ác tàn bạo. Khi trái tim biết lắng nghe và cảm nhận mọi nỗi đau đớn của chúng sanh là khi chúng ta đã có sự rung độngước mong cho chúng sanh đó thoát khổ. Tâm bi giúp cho người thực hành vượt qua những khó khăn, thử thách, làm những việc khó làm, nhằm cứu khổ và giúp đỡ những người nghèo nàn, neo đơn như bố thí, nhẫn nại… như Đức Đạt Lai Lạt Ma XIV từng nói “Nếu bạn muốn người khác được hạnh phúc, thực hành lòng từ bi. Nếu bạn muốn được hạnh phúc, thực hành lòng từ bi.”

Nếu ai cũng thực hành hạnh Từ Bi với chính mình là không làm cho mình đau khổ, giúp cho mình giảm bớt bệnh tật, bớt tâm tham, sân, si, thì phải quan tâmthương yêu đến bản thân mình hơn. Không ai thương mình, bằng chính mình thương mình. Nếu tâm ta cứ tham muốn điều này đến điều khác thì rất dễ dẫn đến sân hận, bực bộilo lắng.

Con người đau khổ, phiền não, bệnh tật là do tâm suy nghĩ quá nhiều, quá khứ đã trôi qua không bao giờ níu kéo lại, tương lai thì chưa đến, đều quan trọng là mỗi người trong chúng ta phải biết cách sống trong hiện tại. Khi nào lòng yêu thương không có sự chiếm hữu hay vụ lợi thì tình yêu thương chân thật đó sẽ giúp cho ta có một tâm hồn trong sáng để lắng nghe, một khi trái tim được rộng mở, thì toàn bộ cuộc sống trở nên tốt đẹp và hài hòa. Chính những đều đó là một năng lực từ trường có khả năng trị bệnh cho mình đồng thời cũng có thể giúp cho mọi người xích lại gần nhau hơn. Chính lòng từ bi mong muốn cho tha nhân được hạnh phúc sẽ nhân đôi lên niềm hạnh phúc của tự thân.

Tâm từ bi được thể hiện qua thân, khẩu, ý luôn luôn cầu mong cho sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài đến cho tất cả mọi người, mọi chúng sinh. Chúng ta nên sẵn sàng cùng nhau chung sức vào công việc chung, những lúc người thân cận bệnh hoạn ốm đau, ta phải có bổn phận chăm nom săn sóc, chữa trị bệnh cho họ chóng khỏi. Như lời Đức Phật dạy:

“Này các Tỷ-kheo, từ tâm giải thoát được thực hành, được tu tập, được làm cho sung mãn, được tác thành cỗ xe, được tác thành căn cứ địa, được tiếp tục an trú, được tích tập, được khéo khởi sự thời được chờ đợi là mười một lợi ích. Thế nào là mười một?

1- Ngủ được an lạc; 2- Thức dậy được an lạc; 3- Không thấy các ác mộng; 4- Được mọi người thương yêu, quý mến; 5- Được các hàng phi nhân thương yêu, quý mến; 6- Được chư thiên hộ trì; 7- Lửa hoặc chất độc hoặc các loại vũ khí… không thể làm hại được; 8- Tâm dễ dàng an tịnh; 9- Gương mặt sáng sủa; 10- Lúc lâm chung, tâm không mê muội (tâm sáng suốt); 11- Đề mục niệm rải tâm từ có khả năng chứng đắc các bậc thiền sắc giới (trừ đệ ngũ thiền); nếu chưa trở thành bậc Thánh A-la-hán, thì sau khi chết, bậc thiền sắc giới sở đắc của mình cho quả tái sanh lên cõi trời sắc giới phạm thiên. Này các Tỷ-kheo, từ tâm giải thoát được thực hành, được tu tập, được làm cho sung mãn, được tác thành cỗ xe, được tác thành căn cứ địa, được tiếp tục an trú, được tích tập, được khéo khởi sự thời được chờ đợi là mười một lợi ích.” (Tăng Chi 4, trang 684)

Từ bi được Đức Phật ví như người mẹ hiền hết lòng bảo bọc và thương yêu đứa con duy nhất của mình, dầu có phải hiểm nguy đến tánh mạng đi nữa. Trong Kinh Từ Bi (Kanariya Metta Sutta), Ngài dạy:

“Như mẹ giàu tình thương,

suốt đời lo che chở,

đứa con một của mình,

hãy phát tâm vô lượng,

cùng tất cả sinh linh,

từ bi gieo cùng khắp.”

(Truởng Lão Tăng Kệ, câu 33)

Ngoài hai thể tính Từ và Bi, Đạo Phật còn khuyến hoá mọi người thực hành thập thiệnbố thí, trì giới, tham thiền…. để đưa cuộc sống hạnh phúc hơn. Bố thí có nghĩa là tánh rộng rãi, rộng lượng, là hành động cho đi, là hành vi đạo đức đầu tiên để làm thềm thang đến với đạo lộ giải thoát, bởi cho là một hành động ly tham, là yếu tính cần có để từ bỏ cái “tôi” và cái “của tôi”. Bố thí hay cho đi thì trái với tâm tham hoặc mong muốn. Tánh rộng rải là để đối trị với tâm ham muốn, tham lam, tính chất bám víu hay ích kỷ.

Đạo Phậtđạo từ bi và hành động thiết thực của nó mang đến sự an vui, bình yên cho tất cả chúng sinh. Lòng từ bi này đã ăn sâu trong lòng dân tộc Việt, trải qua bao nhiêu biến cố thiên tai, lũ lụt, hoạn nạn, đói nghèo, người dân luôn lấy câu châm ngôn làm gốc “lá lành đùm là rách”. Điều quan trọng là làm sao phát triển mạnh mẽ hơn với những hoạt động từ thiện xã hội như giúp đỡ đồng bào nghèo, dân tộc thiểu số ở các vùng miền núi xa xôi, và làm sao để đưa giáo lý của Đức Phật tiếp cận với đồng bào ở miền Bắc nhiều hơn nữa. Đối với người dân miền Bắc, hình ảnh Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni có nhiều nơi dường như quá xa lạ và thay vào đó là sự mê tín, tín ngưỡng, cầu cúng, lễ bái, nhà sử học Lê Mạnh Thát đã phát biểu: “Đức Phật Thích Cađức Phật lịch sử, nhưng đối với người Việt Nam thì phải có những vị Phật mà người Việt Nam có thể cầu, những vị Phật quen thuộc đối với họ.”

Phần lớn các nước Phật giáo trên thế giới chú tâm rất mạnh mẽ tinh thần đạo đức vào thế hệ trẻ, họ đã đưa giáo lý Đức Phật vào các trường học, vì chính thế hệ này là rường cột đất nước cho tương lai. Hiện nay ở Việt nam với sự phát triển xã hội, hiện đại hóa, tiến bộ khoa học, công nghệ thông tin trở nên nhanh chóng và sự bùng nổ phương tiện truyền thông như Game, phim ảnh bạo lực…., đã làm thế hệ trẻ tiếp cận dễ dàng, điều đó dẫn đến bao nhiêu tệ nạn như cướp giật, trộm cắp, xì ke ma túy….., những bậc cha mẹ hầu như ai cũng tất bật ở những công sở đôi khi quên những đứa con bên cạnh của mình. Vì thế, Phật giáo nên mở các lớp học tình thương, giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ nhiều hơn nữa, lớp học tiếng Anh,… cô nhi viện, Viện dưỡng lão, trạm xá, bệnh viện Phật giáo… tất cả những đều đó không đều thể hiện tinh thần nhập thế từ bi của Đạo Phật.

Vị Thiền Sư Goenka- Ấn Độ đã áp dụng phương pháp thiền vào trong các trại tù lớn nhất ở Ấn Độ như Trung Tâm Nhà Tù Jaipur, Rajasthan (miền Bắc Ấn), Trung Tâm Nhà Tù Nashik, Maharashtra (miền Nam Ấn), Nhà Tù Yerwada “khét

(Khemarama.com Ni Chúng Phật Giáo Nguyên Thủy)



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 37208)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28247)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28854)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 27120)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 34538)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27762)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 33195)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28513)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30024)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25453)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 51218)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26646)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28569)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 24305)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27413)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31869)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30130)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27653)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35372)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27393)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 31692)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 24130)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 22973)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
(Xem: 26601)
Nếu chúng ta thẩm tra thế giới tinh thần của chúng ta, chúng ta thấy rằng có những nhân tố tinh thần đa dạng có cả những khía cạnh tích cựctiêu cực.
(Xem: 28204)
Càng trau dồi, Giác Trí càng khai mở thì Pháp Phật càng sáng tỏ hơn; giống như càng nghiên cứu học hỏi thì kiến thứctư tưởng càng phong phú và sâu sắc hơn.
(Xem: 29316)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 33204)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 21718)
Để dễ tiếp cận, chúng ta sẽ nêu câu hỏi cụ thể, rằng “Ai đã vượt qua cả thiện và ác?” và các trích dẫn nơi đây sẽ chỉ tập trung riêng vào Kinh Pháp Cú (Dhammapada).
(Xem: 20573)
Theo Trung Quán, duyên khởi không có nghĩa là nguyên lý của một tiến trình ngắn ngủi, mà là nguyên lý về sự lệ thuộc vào nhau một cách thiết yếu của các sự vật.
(Xem: 22193)
Vì sự vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, nên tâm khôngtự tính. Sáu thức hay tâm thức đã vô thường thì nó cũng không có chơn thật.
(Xem: 23930)
Nói khái quát, Phật giáo quan niệm thực tại không ngừng biến chuyểnbác bỏ khái niệm bền vững lâu dài. Tất cả là một dòng sát na sinh diệt liên tục, tất cả là lưu chú...
(Xem: 22811)
Với hy vọng và một cảm giác hạnh phúc, thân thể chúng ta cảm thấy an lạc. Vậy nên hy vọnghạnh phúc là những nhân tố tích cực cho sức khỏe của chúng ta.
(Xem: 23134)
Một quan điểm khách quan mà nói, các kinh dù nguyên thủy hay phát triển, cốt tủy Giác Ngộ được Cứu CánhGiải Thoát khỏi dòng Tâm Thức vẩn đục...
(Xem: 30352)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 21742)
Sodpa hay Nhẫn nhục ba la mật là một trong những pháp thực hành Bồ tát đạo quan trọng nhất. Có những hoàn cảnh đặc biệt bạn cần phải thực hành hạnh Sodpa.
(Xem: 19222)
Với Phật giáo, sống là sống với. Do đó, bạn bè là một thuộc tính riêng có của các loài chúng sanh nói chung và của con người nói riêng...
(Xem: 20113)
Muốn đền đáp ân đức cha mẹ là khi cha mẹ chưa có lòng chính tín thì khuyên bảo cha mẹ có lòng chính tín để có được nơi an ổn từ niềm tin đó...
(Xem: 32658)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 33959)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27710)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 23787)
Tâm kinh Bát-nhã là một bản kinh trọng yếu trong nhà Thiền, bản kinh này nói về “tánh không” của các pháp. Người tu Phật phải mở được cánh cửa trí tuệ...
(Xem: 23155)
Từ bi bác ái, tự giác giác tha. Ấy là mục đích của bậc chơn tu chánh đạo. Xưa, Phật ra đời khai môn giáo hóa, tế độ quần sanh trong bốn mươi chín năm...
(Xem: 28085)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 19177)
Ở một chừng nào đó có thể hiểu, đi theo con đường của Phật, noi theo công hạnh của Phật, để cuối cùng được kết quả như Phật… thì được xem là đang làm việc Phật.
(Xem: 24524)
Nội dung của Kinh Di Giáo là những lời dạy của đức Thế Tôn trước khi nhập diệt. Lời lẽ đã tha thiết, ý nghĩa lại sâu xathực tế.
(Xem: 21386)
Bổn phận của người Xuất Giatu đạo, truyền đạoduy trì Phật giáo, cho đến thực hiện tinh thần Bồ-tát nhập thế, còn bổn phận của người Tại Gia là ở bên ngoài hộ trì Phật giáo.
(Xem: 23782)
Diệu Pháp Liên Hoa, đề kinh được cấu tạo theo thể cách Pháp và Dụ. Diệu Pháp ám-tỷ cho cái Tri Kiến Phật nhiệm mầu vốn có của tất cả chúng sanh...
(Xem: 29344)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 30962)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25272)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 20086)
Nghiệp báo, trước tiên nhất có nghĩa là hành động. Chúng ta phân biệt một loại nghiệp báo, là bản chất tinh thần, một nhân tố tinh thần...
(Xem: 19009)
Theo lời dạy của Đức Phật, sắc sanh như là các hạt nhỏ. Các hạt nhỏ này có thể nhỏ hơn các nguyên tử. Khi quý vị thực hành thiền tứ đại một cách có hệ thống...
(Xem: 20094)
Diệu pháp đại thừa pháp Liên hoa một đóa trăng Cõi trời người cung kính Quy mạng đốn giác môn.
(Xem: 20000)
Đức Phật là vị thầy, người hướng dẫn và chỉ đạo tâm linh của chúng ta. Do thế, những hành vi thân thể, lời nóitư tưởng phải phù hợp với lời dạy của ngài.
(Xem: 19375)
Chúng ta sống trong không gian vô cùngthời gian vô tận tất phải có nhận thức về thế gian. Thế gianmột thế giới hiện tượng lưu chuyển mãi...
(Xem: 22528)
Tất cả các đệ tử đã đến đây, bởi đang tìm kiếm sự giải thoáthạnh phúc vô song tối thượng của sự toàn giác. Mọi người tập họp ở đây vì chúng sinh, vì Giáo Pháp...
(Xem: 31085)
Vâng, để Giác Ngộ, chỉ cần xoáy vào một chữ tâm đó thôi. Chỉ cần an trụ, chỉ cần hàng phục được cái tâm đó là xong! Nghĩa là trở thành một bậc Giác ngộ, ngang hàng với Phật...
(Xem: 19660)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 19650)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23928)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant