Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ý Nghĩa Của Cầu Nguyện, Cầu An Và Cầu Siêu

04 Tháng Năm 201509:10(Xem: 7001)
Ý Nghĩa Của Cầu Nguyện, Cầu An Và Cầu Siêu

Ý NGHĨA CỦA CẦU NGUYỆN,
CẦU AN VÀ CẦU SIÊU

Thích Nhật Từ


Ý Nghĩa Của Cầu Nguyện, Cầu An Và Cầu SiêuTrong Phật giáo, các từ ngữ "cầu nguyện," "cầu xin" hay "ước nguyện" được hiểu đồng nghĩa với thuật ngữ "pràrthanà" (Sanskrit) hay "patthanà" (Pali). Pràrthanà bắt nguồn từ gốc "pra + arth" có nghĩa là ước nguyện, ước muốn, mong cầu, cầu xin.

I. Ý nghĩa của cầu nguyện

Trong Phật giáo, các từ ngữ "cầu nguyện," "cầu xin" hay "ước nguyện" được hiểu đồng nghĩa với thuật ngữ "pràrthanà" (Sanskrit) hay "patthanà" (Pali). Pràrthanà bắt nguồn từ gốc "pra + arth" có nghĩa là ước nguyện, ước muốn, mong cầu, cầu xin.

Đàn tràng cầu siêu bạt độ các hương linh tử nạn do động đất sóng thần ở Nhật Bản.

Cầu nguyện, cầu xin hay ước nguyện là một trạng thái tâm lý mong mỏi một điều gì đó sẽ được thực hiện, sẽ được thành tựu hay diễn ra theo chủ ý của người mong đợi. Nó phản ánh một thái độ mong chờ một sự kiện diễn ra theo chủ ý của người có ước mong.

Theo đạo Phật, tùy theo đối tượng và mục tiêu của ước muốn, cầu nguyện có thể trở thành một trạng thái tâm lý "tham" tức mong muốn gồm thâu về cho mình, gia đình mình, người thân mình, hay một trạng thái tâm lý "vị tha" mong cho người khác, chúng sanh được điều lợi ích, an lạchạnh phúc. Nói cách khác, bản thân của sự cầu nguyện mang tính cách trung tính về phương diện đạo đức. Tính chất đạo đức của cầu nguyện được xác định tốt hay xấu tùy thuộc vào mục tiêu của nó cũng như hệ quả của nó diễn ra đối với đối tượng được mong cầu. Nếu các ước mong của cầu nguyện hướng về tư lợi, tư hữu, cho cái ta và cái ta sở hữu thì cầu nguyện trong trường hợp này là một lòng tham, đồng nghĩa với tham ái (patthanà vuccati ta.nhà, tác phẩm Mahà Nidesa I. 316-37). Nói cách khác, cầu mong những điều xấu xa cho mục tiêu vị kỷ, tư hữu, thì cầu nguyện sẽ đồng nghĩa hay mang tính chất của lòng tham (patthana lakkha.no lobho, tác phẩm Nettippakara.na, tr. 27). Ngược lại các ước mưa hòa gió thuận, nông dân được mùa, đất nước hòa bình và thế giới hết chiến tranh là các sự mong cầu "thiện" (kusala) vì tính cách vị tha của mục tiêu mong ước. Ở đây, sự cầu nguyện hướng đến phúc lợihạnh phúc của người khác, mong điều vui và an lành đến với xã hội loài người, hoàn toàn không có bóng dáng của lòng vị kỷ, tóm thâu về cho mình. Một ước nguyện như vậy là ước nguyện chánh đáng và mang tính cách thiện ích.

II. Cầu nguyện thấp kémcầu nguyện cao thượng

Như vừa trình bày, bản chất đạo đức của cầu nguyện sẽ được phân định tùy theo ý tưởng hay chủ tâm mong ước của người cầu nguyện. Nếu đối tượng và mục tiêu của mong ước được phân ra tốt và xấu thì cầu nguyện hay ước nguyện cũng theo đó được phân thành 2 loại: thấp kém và cao thượng.

Cầu nguyện thấp kém là lòng mong ước những điều bất chính, những gì có hại cho nhân quần, xã hội, những gì đi ngược lại lợi ích của số đông. Một ước muốn giết người (dù là kẻ thù), cướp đoạt tài sản của người khác, chiếm đoạt vợ / chồng người khác, lừa đảo người khác bằng lời nói v.v. là những ước muốn thấp kém về đạo đức. Những cầu nguyện cho chiến tranh xảy ra, cho người khác bị giết chết, bệnh tật, tán gia bại sản, cho những món lợi lộc bất chánh, phi pháp cho mình, gia đình mình, người thân mình, cộng đồng mình, xã hội mình và đất nước mình v.v. đều là những thứ cầu nguyện hay ước muốn trái lại với sự phát triển đạo đức bản thâncộng đồng, do đó được xem là các ước muốn hay cầu nguyện thấp hèn. Có nhiều lời cầu nguyện xấu đã trở thành những lời nguyền rủa, trù ẻo, thư ếm, để hại người khác. Có lời cầu nguyện phản ánh thái độ bỏn xẻn, vị kỷ, cá nhân và không tùy hỷ với thành cônghạnh phúc của người khác. Tất cả những ước nguyện như vậy đều thuộc thấp kém, và không có giá trị đạo đức.

Cầu nguyện cao thượng, trái lại phát xuất từ tấm lòng vô ngã, vị tha, từ tình thương không phân biệt giới tính, giai cấp xã hội, không phân biệt thân sơ, bạn thù, chỉ vì mang lại lợi ích, phúc lợi và niềm an vui cho người khác v.v. Đó là những cầu nguyện hay ước muốn thiện và đạo đức. Những ước muốn cho chiến tranh chấm dứt, không còn cảnh máu đổ, không còn cảnh sát hại con người, động vật và môi trường; những ước muốn cho hạnh phúc đôi lứa của kẻ khác được lâu bền, cảnh chia rẻ, phân hóa trở nên đoàn tụ, liên kết nhau; những ước muốn cho mọi người có công ăn việc làm ổn định, không ai cướp bóc sức lao động và tài sản của ai, mọi người thương yêu, đùm bọc và giúp đỡ nhau v.v. là những ước muốn hay cầu nguyện cao thượng, và có giá trị đạo đức.

Theo lời Phật dạy, có nhiều nguyên nhân dẫn đến các ước muốn hay cầu nguyện thấp kém và cao thượng. Trong bài kinh nói về các hạt giống tâm thuộc bộ Tăng Chi (A. V. 213) đức Phật đưa ra mười nguyên nhân sâu xa dẫn đến các ước muốn và cầu nguyện thấp kém. Mười nguyên nhân đó là: (1) quan niệm sai lầm, (2) tư duy sai lầm, (3) lời nói sai lầm, (4) hành vi sai lầm, (5) lập nghiệp phi pháp, (6) nỗ lực sai lầm, (7) chú tâm sai lầm, (8) thiền định sai lầm, (9) kiến thức sai lầm, (10) tự do sai lầm. Mười nguyên nhân này thực chất có nguồn gốc sâu xa từ quan niêm sai lầm. Chính "quan điểm" là chủ não của nhận thức và hành động. Một khi nhận thức sai thì hành động trở nên nguy hại cho đạo đứcphúc lợi của người khác. Ví dụ khi một người nào đó nhận thức sai lầm rằng giết người, cướp của, quan hệ tình dục phi pháp, nói láo để lừa gạt người, uống rượu, hút thuốc và ăn chơi xa xỉ, là không có hại hay không trái với nguyên tắc đạo đức căn bản của xã hội loài người, thì chắc chắn rằng người đó không những có những ước muốn xấu ác, tổn hại tha nhânxã hội mà còn có thể có các hành vi bất thiện, để đem về lợi ích vị kỷ cho bản thân mình. Trong trường hợp này, người cầu nguyện hay có ước nguyện thấp kém sẽ bất chấp luật pháp, làm những điều bất chính, tổn hại cho đạo đức xã hội. Do đó, để chặn đứng các cầu nguyện hay ước muốn xấu xa đó, trước nhất và hơn bao giờ hết, chúng ta nên phát triển quan điểm chân chánh (sammà-di.t.thi). Nói cách khác quan điểm chân chánh là đầu mối của tất cả hành vi đạo đức đem lại lợi ích cho bản thântha nhân.

Cũng trong bài kinh trên, đức Phật trình bày 10 nguyên nhân của ước muốn hay cầu nguyện cao thượng, đó là: (1) quan niệm chân chánh, (2) tư duy chân chánh, (3) lời nói chân chánh, (4) hành vi chân chánh, (5) lập nghiệp chân chánh, (6) nỗ lực chân chánh, (7) chú tâm chân chánh, (8) thiền định chân chánh, (9) kiến thức chân chánh, (10) tự do chân chánh.

Quan niệm chân chánh được xem là yếu tố dẫn đầu của chín loại chân chánh còn lại. Theo lời Phật dạy, quan điểm chân chánh là cái nhìn về con người và sự vật dưới ánh sáng của nguyên lý duyên khởi hay tương thuộc, không có một nguyên nhân khởi thủy, sanh ra muôn vật. Quan niệm như vậy đánh đổ hoàn toàn một niềm tin sai lầm về một đấng tạo dựng, sanh ra sơn hà vũ trụ do đó nắm lấy cán cân thưởng phạt đạo đức con người. Người có quan niệm chân chánh sẽ làm chủ bản thân mình, không than trời trách đất về những đau khổ khách quan, vì nhận thức rõ rằng nguyên nhân của nó là những hành vi tham lam, sân hận, si mêtham ái trong hiện đời hay trong quá khứ. Người có quan điểm chân chánh cũng nhìn thấy được phương diện khác của cuộc đờitrạng thái hạnh phúcan lạc do vắng bóng hoàn toàn các khổ đau tâm sinh lý. Để đạt được an lạc này, không thể cầu xin một đấng thần linh ban giáng hay mua đổi bằng tiền bạc, danh vọng, chức sắc, trái lại chỉ có phát triển chín điều chân chánh còn lại (như đã nêu ở trên) mới giúp cho chúng ta có được an lạchạnh phúc thật sự và bền lâu.

Nói tóm lại nếu mười tà là những nguyên nhân, là chất xúc tác, là chất dẫn đạo, là cội nguồn của những nguyện vọng hay cầu mong thấp kém thì 10 chân chánh là những nguyên nhân ngược lại, mang lại kết quả an lạchạnh phúc cho mình và người, đời này và đời sau. Người đệ tử của đức Phật nói riêng, và người mong mỏi tiến bộ đạo đức nói chung nên phát triển 10 chân chánh để sống an vui trong đời.

III. Khái niệm cầu an và cầu siêu

Đạo Phật không chú trọng đến ước muốn thuần túy. Đạo Phật chủ trương hành động thực tiễn. Mặc dù trong đạo Phật có nhiều bài kinh dạy về cách thế nào để đạt được an lạchạnh phúc trong cuộc sống, cũng như cách tu tập để sanh về thế giới của các đức Phật, khái niệm "cầu an và cầu siêu" không những không phản ánh được điều trên mà còn có thể gây hiểu lầm rằng đạo Phật là đạo của cầu nguyệnvan xin, đạo tùy vào tha lực.

Về từ nguyên, khái niệm "cầu an" và "cầu siêu" mới xuất hiện gần đây trong giới Phật giáo Việt Nam. "Cầu an" có nghĩa là đen là "cầu cho một người nào đó được khỏe mạnh và an lạc," trong khi "cầu siêu" có nghĩa là "cầu cho người chết được siêu độ, được sanh về thế giới của chư Phật."

Như vậy cầu an là sự mong muốn, là ước vọng được khỏe mạnh, an lạchạnh phúc. Nó không giới hạn ở việc cầu cho người bệnh sớm lành mạnh, tai qua nạn khỏi, như nhiều người đã hiểu lầm. Để được khỏe mạnh, tai qua nạn khỏi và sự an lạc nội tâm, theo đức Phật là mỗi người phải tự trau dồi đời sống đạo đứctrí tuệ, phát huy các hạnh lợi tha, giúp đỡ mọi người, sống an trụ, chánh niệm và tỉnh thức trong từng phút giây của hiện tại. Không hoài vọng về quá khứ để thoát khỏi thế giới kinh nghiệm đau thương. Không hoài vọng về tương lai để không lo âu và sợ sệt. Sống một cách sáng suốt, bình thản trong hiện tại để khắc chế mọi tham ưu ở đời. Người sống được như vậy thì lúc nào cũng "an" lúc nào cũng khỏe mạnh, cũng hạnh phúc, không cần cầu nguyện và mong mỏi cũng được. Trái lại, nếu chúng ta sống buông lung, sa đọa, bỏ rơi hiện tại, không làm các điều thiện, trái lại rơi vào con đường tội lỗi thì dù có cầu nguyện bao nhiêu cũng không thể an ổn được. Trên tinh thần đó, để tránh hiểu lầm, kinh cầu an nên đổi thành "kinh an lạc."

Cầu siêu là nguyện vọng hay ước muốn một người nào đó được siêu thoát hay sanh về thế giới chư Phật. Do đó, chữ "cầu siêu" có thể là hình thức viết ngắn của từ "cầu siêu độ" hay "cầu siêu sanh" hay đầy đủ hơn "cầu siêu sanh Tịnh độ." Như vậy cầu siêu là nguyện vọng và ước muốn nhắm tới chủ yếu là người quá cố. Trong các nước Phật giáo Bắc tông do chịu ảnh hưởng của pháp môn Tịnh Độ, các kinh được đọc tụng vào các lễ tang và đám giổ thường là kinh A-di-đà, kinh Địa Tạng và Vu-lan. Tụng kinh A-di-đà chủ yếu là nhắc cho người chết nhớ lại pháp môn niệm Phật thiền "nhất tâm bất loạn" như là điều kiện tiên quyết để vãng sanh Tịnh Độ, để hương linh nương theo đó niệm Phậtvãng sanh. Tụng kinh Địa Tạng một mặt nhằm ôn lại công đức hiếu thảo của bồ-tát này, mặt khác phát huy và tu tập mảnh đất tâm (địa = tâm địa). Khi tụng kinh này, con cháu của người quá vãng được dịp học hỏi về hiếu hạnh và còn có cơ hội để trau dồi tâm tánh cho thuần thục. Đọc kinh Vu-lan để học hỏi tấm gương báo hiếu đặc biệt của ngài Mục-kiền-liên. Nói chung các bài kinh trên không chỉ có tác dụng tốt cho người quá cố mà hơn hết làm nhằm giáo dục cho thân quyến của người chết về các phương pháp tu tập và làm phước. Theo đạo Phật, không ai có thể siêu độ cho ai. Không ai có thể giải thoát cho ai. Sự cầu nguyện chỉ mang tính cách biểu tượng, thể hiện tấm lòng thương kính và biết ân đối với người quá cố, và ở phương diện khác nhằm nhắc cho người quá cố biết về quy luật sanh tử mà không còn quyến luyến thế gian, dễ dàng ra đi hay tái sanh. Do đó, để tránh hiểu lầm, thuật ngữ "kinh cầu siêu" nên đổi thành "kinh siêu độ" hay "kinh siêu thoát."

Nói tóm lại, để được sức khỏean lạc, theo đạo Phật, chúng ta phải tu tập công đức, làm việc lành, sống tiết chế, ngủ nghỉ ăn uống thích hợp, an trụ vào hiện tại, lấy chánh niệm và sự tỉnh thức làm phương châm của cuộc sống. Được như vậy thì sự an lạc sẽ hiện diện như người bạn đồng hành của ta trong cuộc đời. Tương tự, để được siêu thoát, mỗi người phải tự trang bị cho mình các hành trang đạo đức khi còn khỏe mạnh, để khi cơn vô thường đến, nhắm mắt xuôi tay, nghiệp thiện của chúng ta sẽ dẫn dắt chúng ta tái sanh về cảnh giới tốt hay vãng sanh về cảnh giới của chư Phật. Ở đây, không hề có yếu tố tha lực. Tất cả tùy thuộc vào đời sống đạo đức, trí tuệthái độ sáng suốt của chúng ta.

IV. Cầu nguyện và kết quả

Trong đạo Phật, cầu nguyện hay ước muốn dù là đạo đức và cao thượng cũng có giá trị rất giới hạn, ở phạm vi của ý chí, chứ chưa thể hiện cụ thể ở hành động. Đạo Phật do đó đề cao chủ thuyết hành vi đạo đức có chủ ý (cetana) như là nền tảng của các thành côngtoại nguyện trong cuộc sống. Nói cách khác cầu nguyện hay ước muốn dù tốt đẹp đến đâu nếu không có hành động hay ứng dụng cụ thể cũng trở nên vô ích. Học thuyết hành vi đạo đức của Phật giáo trên cơ sở này đã đóng vai trò quan trọng trong đời sống đạo đức của con người. Đạo Phật không dạy ta sống với những ước muốn hay cầu nguyện suông, trái lại dạy ta các phương pháp cụ thể để biến niềm mơ ước chân chánh và cao đẹp trở thành hiện thực.

Trên tinh thần hành động là quan trọng, ước muốn là phụ thuộc, đạo Phật đã dạy chúng ta sống với một thái độ tự tin vào các hành thiệnđạo đức của bản thân trong việc mang lại hạnh phúc và sự toại nguyện trong đời. Một khi hiểu được đạo lý nhân quả của Phật, nghĩa là hiểu rằng không có ai cầm cân cuộc sống thưởng phạt, ngoài chính hành vi thiện ác của chúng ta, người Phật tử không phải mất thời giờ để cầu nguyện hay ước muốn này nọ. Nếu thần linh không thể giúp được họ trong các hành vi bất thiện nếu có của họ, thì thử hỏi làm sao họ có thể cứu giúp được chúng ta. Thần linhthượng đế nếu có cũng không sống ngoài quy luật nhân quả tương duyên. Do đó, người Phật tử không dại gì phải trông chờ vào một quyền năng bất thật của thượng đế, chúa trời, mẹ sanh mẹ độ, đức ông, đức bà v.v. Người Phật tử ý thức sâu sắc rằng, một khi đã tạo nghiệp ác, dù có van xin, chúng ta cũng phải là người gặt hái kết quả đau khổ của nó. Không ai có thể đánh đổ quy luật muôn đời này. Sau đây là một đoạn kinh cho thấy rõ điều đó:

"Nếu ai làm 10 nghiệp ác, rồi một quần chúng đông đảo đến cầu khẩn van xin, thành kính mong rằng người ấy sẽ được sanh thiện thú. Sự cầu khẩn như vậy là vô ích. Làm 10 nghiệp ác phải rơi vào đọa xứ. Sự thể như có một người quăng tảng đá vào hồ nước, rồi nhiều người đến cầu khẩn van xin cho tảng đá ấy được nổi lên. Sự cầu khẩn như vậy là vô ích. Vì tảng đá, với sức nặng của nó, không thể nổi lên, không thể trôi vào bờ như lời cầu khẩn. Cũng vậy, tạo 10 nghiệp ác thì phải rơi vào đọa xứ "(Tương Ưng IV, 313).

Ở đây lời của Phật nhằm xác quyết rằng hành vi ác và bất thiệnnguyên nhân gây ra các hậu quả khổ đau, mà người đã tạo ra nó phải gánh chịu trong đời của mình, dù hiện tại hay về sau. Sức gia trìcầu nguyện trong trường hợp này không có giá trị đạo đức nào cả. Bởi lẽ, nếu cầu nguyện có kết quả thì chắc chắc rằng những người triệu phú, tỷ phú trên thế gian này phải là những người siêu sanh trước nhất, được hết tội trước nhất, do tiền rừng biển bạc của họ tung ra trong các buổi cầu nguyện tôn giáo.

Theo đức Phật nhân quả là người thẩm phán tuyên án đau khổ cho người đã tạo ra nghiệp xấu ác và ban thưởng hạnh phúc cho người hiền lương. Vị thẩm phán này không thể bị các hình thức hối lộ thế gian tác động, để cải đen thành trắng, để trắng án, như trong các trường hợp của pháp luật đời. Vị thẩm phán của nhân quả rất công minh, chính xác và không lầm lẫn trong khi phán quyết nghiệp báo của các hành vi thiện ác.

Về phương diện cầu nguyện hay ước muốn thiện, đức Phật cũng khẳng định rằng cầu nguyện về điều thiện mà không nỗ lực thực hiện thiện cũng trở nên vô ích và không có kết quả nào cả. Trong các buổi cầu nguyện cao đẹp, thường người ta mong mỏi cho mình nào là có sức khỏe, sống thọ, có danh thơm tiếng tốt, có được sắc đẹp, có hạnh phúc v.v. Đức Phật khẳng định rằng những thứ này không thể do cầu nguyện hay ước muốn suông mà có được:

"Này các vị, có năm điều sau đây không thể do cầu nguyện hay ước muốn mà có được: (1) tuổi thọ (àyu), (2) sắc đẹp (va.n.na), (3) hạnh phúc (sukha), (4) danh tiếng (yasa) và (5) sanh cõi trời (sagga)." [Tăng Chi, A"nguttara Nikàya, III. 47]

Nghĩa là theo đức Phật, muốn có sức khỏe chúng ta phải sống tiết độ, thiền định, không sa đắm sắc dục, không rượu chè, hút sách, siêng thể thao, và ngủ nghỉ thích hợp. Muốn có sắc đẹp ta phải biết giữ gìn sức khỏe, ăn uống kiêng cử, nghỉ ngơi hợp lý, làm việc điều độ v.v. Muốn có đời sống hạnh phúc ta phải làm thiện, bỏ ác, tuân thủ pháp luật, sống vì lợi ích của mình và người khác. Muốn có danh tiếng ta phải siêng năng học tập, làm việc chăm chỉ, sống có lương tâm, đạo đức, cương trực, liêm sĩ, công bằng, thanh cao, rộng lượng giúp đỡ người khác và làm nhiều việc tốt. Muốn sanh cõi trời thì phải tu nhân tích đức, phát triển 10 hạnh lành, tu thiền định, bố thí cúng dường và làm nhiều việc từ thiện. Nói chung tất cả những thứ đó không thể do cầu nguyện hay ước muốn mà có được. Ở đây, chúng ta thấy chủ nghĩa hành động đạo đứcphương châm của một đời sống hạnh phúcan lạc theo Phật giáo.

Kinh điển Phật giáo cũng xác định rằng một đời sống an lạc, hạnh phúcgiải thoát không phải là hệ quả của những ước muốn cao đẹp mà là kết quả của quá trình nỗ lực trau dồi đạo đức, thiền địnhtrí tuệ:

"Một người không chú tâm trong sự tu tập, dẫu có khởi lên ước muốn được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không còn chấp thủ, ước muốn ấy nhất định không được toại nguyện" (Tăng Chi III A, 123. Tương Ưng III, 184).

Nói cách khác các ước muốn hay cầu nguyện cao đẹp trái với nguyên lý nhân quả báo ứng chỉ là một sự mỏi mòn chờ đợi, vô ích và không cần thiết, và đôi khi còn mang lại sự chán chường và thất vọng:

Vắt sữa nơi "sừng" con bò cái
Tìm dầu nơi thùng cát có nước
Dầu ước nguyện cũng không thành tựu -- (Kinh Trung Bộ I, 103).


Sự giác ngộ, giải thoát hay chứng đắc trong Phật giáo là kết quả của quá trình dày công tu tập, chặt đốt phiền não, lậu hoặc. Sự tận diệt phiền não là cội nguồn của Niết-bàn, của đạo quả Vô thượng Bồ đề. Nhưng đó không phải là hệ quả của cầu nguyện hay cứu rỗi:

"Muốn chứng được Vô thượng Bồ đề mà không đoạn trừ Sát Đạo Dâm Vọng, chẳng khác nào như nấu cát muốn thành cơm, dù trải qua ngàn ức kiếp cũng không thể nào thành tựu được" (Lăng Nghiêm, VI, 234-242).

Trong quá trình hướng đến giải thoát của mọi hành giả, Đức Phật đã tuyên bố là Ngài chỉ đóng vai trò của Đạo Sư dẫn đường, không thể ban bố cho chúng ta kết quả giải thoát. Do đó để đạt chân lý giải thoát, chúng ta phải là hành giả tu tập, như bài kệ dưới đây, Đức Phật đã khuyên:

"Hãy tự siêng trau dồi,
Như Lai chỉ thuyết dạy.
Tự hành trì thiền định,
Tự giải thoát ác nghiệp" (Kinh Pháp Cú, kệ 276)


Sự tu tập trên cơ sở nỗ lực của tự thân còn được Đức Phật sánh ví với ốc đảo vững chắc, chính trên cơ sở này hoa tỉnh thức sẽ nở rộ, phiền não nghiệp chướng bị tiêu trừ:

"Hãy tự làm hòn đảo,
Tinh cần gấp sáng suốt,
Trừ cấu uế: thanh tịnh.
Đến thánh địa chư Phật" (Kinh Pháp Cú, kệ 236).

Đức Phật cũng lưu ý chúng ta, không phải từ Ngài, không phải từ ân sủng cứu chuộc của Thiên Chúa, không phải do một ai, mà chính do sự tự tu tập của chúng ta dẫn chúng ta đến sự giác ngộ. Có như vậy, sự giác ngộ ấy mới vững chắc:

"Chẳng phải nương người khác,
đạt được Niết-bàn,
Do tự điều, tự nương,
Mà đích đến kiên cố " (Kinh Pháp Cú, kệ 323).

Do đó, người Phật tử khi nắm vững nguyên lý nhân quả nghiệp báo là cán cân thưởng phạt chính xác, công bằng, nên không hoài công nhọc sức mong đợi, vọng cầu. Trái lại khi làm xong bất kỳ việc thiện nào, họ trở nên thản nhiên, ung dung, không chờ đợi kết quả, vì họ biết chắc chắn rằng kết quả tốt sẽ đến, không chóng thì chày. Hai câu thơ vô danh sau đây cho thấy một niềm tin chân chánh đó:

Khai trì bất đãi nguyệt
Trì thành tất tự lai

Tạm dịch là:

Đào ao chẳng đợi trăng sao
Khi ao có nước trăng sao hiện về!

Nói tóm lại, cầu nguyệngiá trị rất giới hạn trong đời sống đạo đức của người Phật tử. Người Phật tử theo đúng tinh thần Phật giáo là người theo chủ nghĩa hành động thiện, chứ không phải là người chỉ biết ước vọng thiện. Chính hành động thiện quyết định đời sống đạo đức chứ không phải những cầu nguyện hay ước nguyện chân thành.

V. Cầu nguyện, phát nguyệnhồi hướng

Trong Phật giáo Đại thừa còn có hai khái niệm liên hệ đến cầu nguyện là "phát nguyện" và "hồi hướng" hay "hồi hướng công đức." Hai khái niệm này chứa tải ý nghĩa đạo đức rất cao và đã trở thành nếp sống của các Phật tử theo truyền thống Bắc tông hay Đại thừa.

Trong nhiều trường hợp như chúng ta chứng kiến trong cuộc sống, cầu nguyện thường phản ánh thái độ tâm lý mong cầu hay mong đợi những lợi ích hay hạnh phúc cho bản thân mình, gia đình mình, đất nước mình. Dù là các ước muốn hay mong mỏi thiện, nó cũng thường xoay quanh cái ta, vì cái ta, dù nhỏ hay lớn. Nó có thể mang dáng dấp của vị kỷ, trong sự sâu kín nhất của tâm hồn. Người ta thường cầu nguyện cho người thân mình, chứ ít ai nghĩ đến việc cầu nguyện những điều tốt lành cho kẻ thù mình, cho những người hảm hại mình. Thái độ tâm lý này giới hạn vào người thân, người làm tốt cho mình, người có ân ích với mình đã trở thành thói quentập khí của chúng sanh nhiều đời.

Các bậc bồ-tát của Phật giáo thì khác hẳn. Các ngài không còn thái độ nhận thức lập cước trên thân sơ. Đối với các ngài, tất cả chúng sanh là thân bằng quyến thuộc từ nhiều đời kiếp trong quá khứ. Chúng ta đã từng là cha mẹ, anh em, bạn bè, thân thuộc, vợ chồng của nhau trong chuổi dài vô thủy của sanh tử. Tình thương thân quyếnđồng loại không thể ngăn cản được các ngài. Lòng từ bi của các ngài đã siêu vượt ranh giới của bỉ thử, ta người, thân sơ, thù bạn, mà còn trải rộng đến các loài động vật và cây cỏ, côn trùng. Một tình thương vô bờ bến như vậy đã thúc giục các ngài không sớm chứng đắc đạo quả vô thượng bồ-đề để cứu độ chúng sanh đang đau khổ trong ba cõi.

Đạo lý bồ-tát đã dạy người Phật tử mở rộng tình thươngtrí tuệ đến với mọi người và mọi loài. Một khi dấn thân trên con đường bồ-tát, người Phật tử trước nhất phải biết "phát tâm." Sự phát tâm bao gồm 2 bước: trước nhất là phát tâm giác ngộ như Phật và bồ-tát (phát bồ-đề tâm) sau đó là phát tâm độ chúng sanh. Phát tâm độ chúng sanh chính là "phát nguyện" của người học theo hạnh bồ-tát. Phát tâm giác ngộ là một quá trình tự tu, tự độ. Phát tâm độ chúng sanh và quá trình lợi tha, và cứu độ tha nhân. Hạnh bồ-tát bao trùm tự độ và độ tha, chứa đựng đầy đủ nhân hạnh và quả chứng.

Ngoài ra, người Phật tử còn phải biết hồi hướng công đức tu tập của mình đến với tất cả chúng sanh trong ba cõi sáu đường. Nếu phát tâm giác ngộphát nguyện độ sanh là những tấm lòng vì đạo cao cả, vì thương xót chúng sanh thì hồi hướng công đứcmột thể hiện cụ thể của tấm lòng giác ngộbao la đó. Nghĩa là người Phật tử tu tập không phải vì cho mình mà cho người, thành quả giác ngộcông đức thu hoạch được không phải để dành riêng cho mình, mà còn san xẻ đều cho chúng sanh. Chia xẻ công đức như vậy chính là làm cho tâm mình giác ngộ, làm cho tình thương trở nên siêu vượt biên giới, thời giankhông gian.

Nói một cách khác, người Phật tử hiểu rõ đạo lý của đức Phật sẽ không còn cầu nguyện mang tính chất "thu hẹp" lợi lạc cho bản thân mình, gia đình mình, quốc gia mình, mà hơn hết, phải biết phát nguyện để "mở rộng" tấm lòng ra, hướng đến lợi ích của người khác và tất cả chúng sanh; để có những hoạt động cụ thể, giác ngộ mình và người. Tình cảm vị kỷ và mang tính giới hạn của "cầu nguyện" đã được tình thương của "phát nguyện" thay thế. Phát nguyện giác ngộ để tự độ. Phát nguyện hồi hướng công đức cho tha nhânchúng sanhđộ tha. Đây là hai đặc tính thay thế hoàn toàn những cầu nguyện và ước muốn có tính cách hạn cuộc.

Không có gì cao đẹp cho bằng khi người Phật tử làm bất kỳ việc thiện gì không phải chỉ cho mình, vì mình, mà còn cho người khác, vì người khác và nói rộng ra là tất cả chúng sanh. Sự nghiệp cũng như mục tiêu lớn nhất của người Phật tử là hướng đến sự giác ngộ chính mình và chúng sanh. Sự phát nguyệnhồi hướng công đức của người Phật tử cũng không ra ngoài mục tiêu giác ngộ trọn vẹn, nghĩa là cùng nhau tu hànhthành Phật:

Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tửchúng sanh
Đều trọn thành Phật đạo.

VI. Kết luận

Như vậy, đạo đức của người Phật tử không nằm ở những hành vi đạo đức cho bản thân, mà cốt là cho xã hội loài người và các loài động vật. Mục tiêu đạo đức rộng rãi như vậy rõ ràng không thể phát sanh từ ước muốn đơn thuần, mà phải phát xuất từ từ nhận thức giác ngộ cụ thể, hành động lợi tha cụ thể, để tất cả chúng tachúng sanh cùng từng bước hướng đến và thành tựu con đườngđạo quả giác ngộ, vượt thoát vĩnh viễn đau khổ.

Đây chính là điểm khác biệt căn bản nhất và quan trọng nhất, giữa đạo Phật và các tôn giáo khác, không những về ý nghĩa cầu nguyện mà còn ở tính chất vị tha, vô ngã bao la trong hành vi đạo đức và thiện ích của người Phật tử trên con đường tu tập hạnh bồ-tát: phát tâm giác ngộ, phát nguyện độ sanh, tu tập công đứchồi hướng công đức đó đến muôn loài, cốt chỉ để giác ngộ cho mình, người và tất cả chúng sanh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 16449)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11901)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 12080)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12769)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 12733)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10233)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13965)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10219)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13702)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16264)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11963)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12970)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11643)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12668)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10793)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 10997)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10932)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11897)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12752)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11065)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12612)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11319)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
(Xem: 12508)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14104)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10846)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10512)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11186)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11997)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13128)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12348)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15335)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 14324)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12092)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15356)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11996)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12400)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11171)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12083)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10602)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12553)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13158)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14832)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12674)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16567)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19655)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 12251)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 13516)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11944)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11627)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12761)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14512)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12610)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15663)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13620)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12892)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 18013)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11161)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 12171)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13040)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10296)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant