Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phật Tử Chân Chính

08 Tháng Năm 201509:20(Xem: 6735)
Phật Tử Chân Chính
PHẬT TỬ CHÂN CHÍNH

Đại Đức Shangpa Rinpoche


PHẬT TỬ CHÂN CHÍNHKhi chúng ta tự gọi mình là những Phật tử, có nghĩa là chúng ta là những người đi theo Phật. Khía cạnh quan trọng nhất của việc làm một Phật tử đó là chúng ta đi theo con đường của Phật và luôn luôn suy nghĩ như một người con Phật. Phật [Buddha] là một từ trong tiếng Phạn. Từ này dùng để chỉ người đã tỉnh thức thoát khỏi tâm si mê, người đã thành tựu về hiểu biếttrí tuệ. Từ này trong tiếng Tây Tạng gọi là ‘Sangye’.

Mỗi Phật tử đều có mục đíchđạt được trạng thái giác ngộ của Phật. Phật quả này là sự phát triển và thành tựu khả năng của mỗi người trong việc giải thoát tất cả chúng sinh hữu tình khỏi đau khổ.

Những người chưa đạt được Phật quả có nhiều cảm xúc rất mâu thuẫn, ví dụ tham muốn, căm giận, ghen tỵ, mê muộivô số xúc tình vô minh khác. Tất cả những sự vô minh này đều xuất phát từ si mê; đó là trạng thái không có trí tuệ và không nhận biết được bản chất thật sự của tâm. Sự si mê này là nguyên nhân gây ra tất cả những rắc rối phức tạphỗn loạn trong cõi luân hồi. Nhưng vô minh này không phải là vĩnh cửu. Nó có thể bị loại bỏ bằng cách áp dụng những phương cách của trí tuệ. Bằng cách chuyển hóa vô minh thành trí tuệ, người ta sẽ có khả năng thấu hiểu được sự thật. Điều này sẽ dần dần dẫn ta đến trạng thái của giác ngộ. Do vậy, là một người Phật tử, mục đích quan trọng nhất là phải phát triển trí tuệthông hiểu những giáo lý căn bản của Phật pháp, như Tứ diệu đế, Bát chánh đạo; và sau đó thực hành con đường của Bồ Tát và những phương pháp Kim Cương thừa. Hiểu được điều này sẽ giúp ta phát triển được trí tuệ.

Bên cạnh việc thấm nhuần hiểu biết về Pháp, áp dụng những giáo lý này cũng vô cùng quan trọng. Bất kỳ Pháp nào mà tâm ta lĩnh hội được, ta đều phải áp dụng. Ví dụ, tất cả mọi người đều biết rằng mình cần phải hào phóng. Nhưng hiểu về điều này là chưa đủ. Ta cần phải thực hiện điều mình đã hiểu ấy và thực tập bố thí mọi lúc.

Tương tự như vậy, các phẩm hạnh cũng quan trọng như vậy và ta cần rèn luyện thực hành. Chỉ bằng cách áp dụng những giáo pháp vào thực tế, ta mới có thể đạt được đến trạng thái của tỉnh thức.

Chúng ta càng hiểu về Pháp, ta càng hiểu ở đâu và khi nào thì nên áp dụng. Mỗi khoảnh khắc trong bất kỳ tình huống nào của đời sống hàng ngày của ta đều là cơ hội để thực hành, để ta phát triển về mặt tâm linh. Chúng ta trải qua những tình huống càng khó khăn, thì đó là cơ hội càng lớn để ta thành công trong việc thực hành Pháp.

Ví dụ, ta có thể có một kẻ thù, người ấy đã gây ra cho ta vô số những điều không như ý, căm hận và nguyền rủa ta. Nhìn chung, đây là một tình huống tồi tệ, không ai muốn mình bị ghét bỏ và nguyền rủa, điều này gây ra rất nhiều đau khổ. Tuy nhiên, nhìn ở khía cạnh thực hành tâm linh, đây là một thời điểm tốt để thử thách ta, nó mang lại cho ta cơ hội để phát triển và củng cố thái độ tích cực của ta đối với Pháp. Sự nhẫn nhục là một giáo lý quan trọng trong Phật pháp và ta có thể thực hành điều này trong mọi tình huống. Đặc biệt là khi ta đối mặt với kẻ thù của mình, ta cần phải kiên nhẫnkhoan dung. Nếu ta có thể áp dụng được những nguyên tắc này, ta sẽ thành công trong việc thực hành pháp.

Đau khổcon đường dẫn tới hạnh phúc. Về cơ bản, ta trải qua càng nhiều khó khăn, thì kết quả mà ta đạt được càng lớn, cũng giống như ta phải làm việc chăm chỉ để đạt được những kết quả tốt. Mặc dù ta có thể gặp phải vô số thử thách, chướng ngạicản trở, nhưng đó lại là con đường dể dẫn tới thành công. Pháp rất quý giá, nó giúp ta vượt qua được tất cả những thử thách, không kể đó là thử thách thực tế hay về tinh thần. Pháp thực sự là bảo bối duy nhất dẫn ta tới thành công.

Do đó, là một Phật tử không có nghĩa là lúc nào cũng có mặt ở trong chùa. Trong thực tế, một Phật tử thuần thành có thể ở bất kỳ chỗ nào, ở nơi làm việc, ở trên phố hay trong nhà hàng. Nói cách khác, khi nào ta vẫn còn áp dụngthực hiện Pháp mọi lúc, thì ta là một Phật tửchân chính. Một người tận dụng được tất cả những thời điểm trong những trải nghiệm của họ để phát triển sự thực hành tâm linh của mình, đó là Phật tử chân chính. Những người không thể áp dụng Pháp một cách hiệu quả nhưng luôn luôn ở trong chùa, đó chỉ gọi là những Phật tử bề ngoài. Những người rèn luyệnthực tập Pháp thường xuyên một cách đúng đắn, và đồng thời, cả đi chùa, đó là người Phật tử rất tích cực và là một hành giả.

Những khi vô minh xảy đến, người hành giả có thể nhận rangay lập tức. Sau khi nhận thức được nó là vô minh, ta sẽ áp dụng trí huệ để thực hiện những pháp tịnh hóa vô minhthoát khỏi những rắc rối ấy. Như vậy, bất cứ những cảm xúcvô minh nào xuất hiện, ta phải coi đó là một thử tháchvượt qua nó, đó là phương pháp đúng đắn nhất mà ta phải làm theo.

Tuy nhiên, việc thực hành Pháp không dễ như ta nghĩ. Việc nhận ra khi vô minh xuất hiện có thể trở nên rất khó khăn. Thậm chí khi ta đã nhận ra nó, việc nhớ lại và dùng thuốc giải độc cũng rất khó để thực hiện một cách hiệu quả. Sức mạnh của vô minh có thể là vô cùng lớn so với phương thuốc để giải trừ nó, ta có thể không có khả năng để xóa bỏ vô minh một cách nhanh chóng. Thật ra, tất cả chúng ta đều muốn tịnh hóa một số lượng lớn những si mê của mình nhưng vô minh thì quá nhiều nên ta không thể vượt qua chúng tất cả cùng một lúc. Sự nỗ lực kiên địnhtinh tấn sẽ giúp ta đẩy lùi chúng. Cuối cùng, nỗ lực của chúng ta sẽ trở thành một thói quen tích cực và một ngày nào đó ta có thể thành công.

Ngày xưa có một thương gia Tây Tạng tên là Norbu Zangpo, người ấy đã mất tất cả tiền trong việc kinh doanh. Vì sự thất bại trong làm ăn, ông cảm thấy rất thất vọng, nản lòng và muốn rút lui. Rất buồn chán, ông ta nằm xuống đất và đã nhìn thấy một chú kiến đang cố trèo qua một cọng cỏ. Được nửa đường, nó lại ngã xuống. Nó lại cố trèo lần nữa và cứ như vậy, ông ta đếm được 79 lần chú kiến ngã. Nhưng lần cuối cùng là lần thứ 80, chú kiến đã trèo lên được đỉnh của ngọn cỏ. Đột nhiên, ông ta nhận ra nếu không có sự nỗ lực bền bỉ, thì không thể thành công được trong bất kỳ điều gì. Từ đó về sau, ông ta đã cố gắng rất nhiều và làm ăn chăm chỉ, ông đã thành công. Ông trở thành thương gia giàu có nhất và thành công nhất ở Tây Tạng. Con côn trùng nhỏ bé đã trở thành động lực cố gắng của ông.

Câu chuyện nhắc ta phải nỗ lực không ngừng và không sợ thất bại. Trong quá trình ấy, dù ta không đạt được thành tựu từ lúc đầu, ta cũng cần phải thực hành đến tận khi đạt được thành tựu. Chúng ta thiếu sự tỉnh thức và sự nỗ lực lâu dài. Ta mong chờ một kết quả ngay lập tức mà không cần cố gắng nhiều. Điều đó là không thể. Pháp là sự rèn luyện về tinh thần mà không thể do ai khác mang đến hay chuyển sang cho ta được. Điều này rất đơn giản nếu ta biết cách chuyển Pháp thành hành động, thành thuốc giải để tịnh hóa vô minh. Nếu Pháp trở thành thứ gì đó khiến người ta tăng thêm danh vọng hay vô minh, thì nó sẽ phát triển thành một mặt rất tiêu cực đối với chúng ta. Nếu Pháp được thực hành một cách đúng đắn, ta có thể giảm bớt được vô minh như lòng căm giận, si mê, tham muốn và tất cả những xúc tình khác.

Về cơ bản, thông qua tất cả những quá trình này, ta sẽ có khả năng phân biệt được một người là Phật tử chân chính hay không. Một Phật tử thật sự là người không chỉ hiểu về giáo lý mà còn thực hành chúng và trải nghiệm được những kết quả mà điều đó mang lại. Không phải là một Phật tử chân chính có nghĩa là ta không áp dụng được giáo pháp vào thực tế và không bao giờ thay đổi được thái độ của mình trên con đường tâm linh. Thay vào đó, người ta tự hào về sự hiểu biết của mình về Pháp và nhìn xuống những người khác, điều này sẽ làm tăng những suy nghĩ tiêu cực của họ.

Việc lắng nghe giáo Pháp và suy ngẫm và thiền định, đó là tất cả những việc cần rèn luyện. Ta cần cố gắng hiểu được những giáo pháp của Phật, sau đó suy ngẫm và nghiên cứu về pháp. Sau khi đã tìm hiểu về logic của sự thật, ta phải áp dụngthực hiện tất cả những gì ta đã học và thiền định về việc đó. Với những phương pháp này, việc thực hành Pháp của ta sẽ trở nên có hiệu quả và ta sẽ có thể thành tựu giác ngộ.

Thiền định không có nghĩa là chỉ ngồi xuống và đặt hai tay vào nhau. Thiền định có thể được thực hiện bằng rất nhiều cách khác nhau như phát triển hạnh bố thí, nhẫn nhục và phẩm hạnh. Thực tế, tất cả những thực hành này đều liên quan đến thiền định, nó đòi hỏi hiểu biếttrí tuệ. Ví dụ, nếu một người đang nấu ăn và nói rằng anh ta đang thiền định, ta sẽ không tin bởi ta nghĩ rằng thiền định không phải là như vậy. Làm sao anh ta có thể thiền được khi đang nấu nướng? Tuy nhiên, nếu anh ta áp dụng những phẩm hạnh của trí tuệhiểu biết vào quá trình nấu nướng, thì anh ta thực sự đang thiền.

Trong Kim Cương thừa, ta có rất nhiều bài kinh, những nhạc cụ và rất nhiều loại ấn khác nhau v.v… Tất cả những điều ấy đều là một phần của thiền định. Thông qua những thiền định này và sự thực hành, ta có khả năng nhận ra được bản chất của tâm một cách hiệu quả hơn.

Kết lại, một Phật tử chân chính là người áp dụng những giáo lý của Phật ở trong tâm và trong cả cuộc sống hàng ngày. Bằng cách đó, ta sẽ tỉnh thức trong mọi suy nghĩ và hành động. Một khi ta đã có được hạnh đó, ta sẽ không còn mắc sai lầm và sẽ tiếp tục phát triển được những suy nghĩ tích cực cũng như công đứctrí tuệ. Khi ta đã có tất cả những hạnh đó, niềm hạnh phúc an lạc bên trong ta sẽ lớn lên và ta sẽ được hoàn toàn thỏa mãnthành tựu được tất cả những mục đích của cuộc đời.

Bài pháp được giảng tại Đạo tràng Karma Kagyud, Singapore vào ngày 3 tháng 5 năm 1995 trước ngày Phật đản.

Nguồn: http://www.dhagpo-kagyu.org/anglais/science-esprit/fondements/general/true-buddhist.htm

Việt dịch: Quỳnh Anh – Nhóm Thuận Duyên.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12089)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15186)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16509)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12119)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11379)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14145)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 24414)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10586)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
(Xem: 12394)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10246)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12229)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11525)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 11925)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 12896)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11339)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 17271)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21194)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10584)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19072)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12299)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 25827)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 14266)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 13623)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16700)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17396)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13010)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12424)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11518)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11468)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 20258)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18807)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19412)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18489)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14884)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 14949)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13859)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15410)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 14466)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 15710)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12787)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18257)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15662)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 10973)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53435)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 12869)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16387)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15257)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 19811)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15416)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15235)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15057)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 10279)
Với Phật giáo, toàn bộ nội dung tư tưởng Phật dạy là lấy con người làm gốc, gắn bó mật thiết với đời sống nhân quần xã hội...
(Xem: 20177)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 15347)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 12946)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 19842)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13162)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 28923)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11601)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
(Xem: 18181)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant