Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật Tử Chân Chính

08 Tháng Năm 201509:20(Xem: 6781)
Phật Tử Chân Chính
PHẬT TỬ CHÂN CHÍNH

Đại Đức Shangpa Rinpoche


PHẬT TỬ CHÂN CHÍNHKhi chúng ta tự gọi mình là những Phật tử, có nghĩa là chúng ta là những người đi theo Phật. Khía cạnh quan trọng nhất của việc làm một Phật tử đó là chúng ta đi theo con đường của Phật và luôn luôn suy nghĩ như một người con Phật. Phật [Buddha] là một từ trong tiếng Phạn. Từ này dùng để chỉ người đã tỉnh thức thoát khỏi tâm si mê, người đã thành tựu về hiểu biếttrí tuệ. Từ này trong tiếng Tây Tạng gọi là ‘Sangye’.

Mỗi Phật tử đều có mục đíchđạt được trạng thái giác ngộ của Phật. Phật quả này là sự phát triển và thành tựu khả năng của mỗi người trong việc giải thoát tất cả chúng sinh hữu tình khỏi đau khổ.

Những người chưa đạt được Phật quả có nhiều cảm xúc rất mâu thuẫn, ví dụ tham muốn, căm giận, ghen tỵ, mê muộivô số xúc tình vô minh khác. Tất cả những sự vô minh này đều xuất phát từ si mê; đó là trạng thái không có trí tuệ và không nhận biết được bản chất thật sự của tâm. Sự si mê này là nguyên nhân gây ra tất cả những rắc rối phức tạphỗn loạn trong cõi luân hồi. Nhưng vô minh này không phải là vĩnh cửu. Nó có thể bị loại bỏ bằng cách áp dụng những phương cách của trí tuệ. Bằng cách chuyển hóa vô minh thành trí tuệ, người ta sẽ có khả năng thấu hiểu được sự thật. Điều này sẽ dần dần dẫn ta đến trạng thái của giác ngộ. Do vậy, là một người Phật tử, mục đích quan trọng nhất là phải phát triển trí tuệthông hiểu những giáo lý căn bản của Phật pháp, như Tứ diệu đế, Bát chánh đạo; và sau đó thực hành con đường của Bồ Tát và những phương pháp Kim Cương thừa. Hiểu được điều này sẽ giúp ta phát triển được trí tuệ.

Bên cạnh việc thấm nhuần hiểu biết về Pháp, áp dụng những giáo lý này cũng vô cùng quan trọng. Bất kỳ Pháp nào mà tâm ta lĩnh hội được, ta đều phải áp dụng. Ví dụ, tất cả mọi người đều biết rằng mình cần phải hào phóng. Nhưng hiểu về điều này là chưa đủ. Ta cần phải thực hiện điều mình đã hiểu ấy và thực tập bố thí mọi lúc.

Tương tự như vậy, các phẩm hạnh cũng quan trọng như vậy và ta cần rèn luyện thực hành. Chỉ bằng cách áp dụng những giáo pháp vào thực tế, ta mới có thể đạt được đến trạng thái của tỉnh thức.

Chúng ta càng hiểu về Pháp, ta càng hiểu ở đâu và khi nào thì nên áp dụng. Mỗi khoảnh khắc trong bất kỳ tình huống nào của đời sống hàng ngày của ta đều là cơ hội để thực hành, để ta phát triển về mặt tâm linh. Chúng ta trải qua những tình huống càng khó khăn, thì đó là cơ hội càng lớn để ta thành công trong việc thực hành Pháp.

Ví dụ, ta có thể có một kẻ thù, người ấy đã gây ra cho ta vô số những điều không như ý, căm hận và nguyền rủa ta. Nhìn chung, đây là một tình huống tồi tệ, không ai muốn mình bị ghét bỏ và nguyền rủa, điều này gây ra rất nhiều đau khổ. Tuy nhiên, nhìn ở khía cạnh thực hành tâm linh, đây là một thời điểm tốt để thử thách ta, nó mang lại cho ta cơ hội để phát triển và củng cố thái độ tích cực của ta đối với Pháp. Sự nhẫn nhục là một giáo lý quan trọng trong Phật pháp và ta có thể thực hành điều này trong mọi tình huống. Đặc biệt là khi ta đối mặt với kẻ thù của mình, ta cần phải kiên nhẫnkhoan dung. Nếu ta có thể áp dụng được những nguyên tắc này, ta sẽ thành công trong việc thực hành pháp.

Đau khổcon đường dẫn tới hạnh phúc. Về cơ bản, ta trải qua càng nhiều khó khăn, thì kết quả mà ta đạt được càng lớn, cũng giống như ta phải làm việc chăm chỉ để đạt được những kết quả tốt. Mặc dù ta có thể gặp phải vô số thử thách, chướng ngạicản trở, nhưng đó lại là con đường dể dẫn tới thành công. Pháp rất quý giá, nó giúp ta vượt qua được tất cả những thử thách, không kể đó là thử thách thực tế hay về tinh thần. Pháp thực sự là bảo bối duy nhất dẫn ta tới thành công.

Do đó, là một Phật tử không có nghĩa là lúc nào cũng có mặt ở trong chùa. Trong thực tế, một Phật tử thuần thành có thể ở bất kỳ chỗ nào, ở nơi làm việc, ở trên phố hay trong nhà hàng. Nói cách khác, khi nào ta vẫn còn áp dụngthực hiện Pháp mọi lúc, thì ta là một Phật tửchân chính. Một người tận dụng được tất cả những thời điểm trong những trải nghiệm của họ để phát triển sự thực hành tâm linh của mình, đó là Phật tử chân chính. Những người không thể áp dụng Pháp một cách hiệu quả nhưng luôn luôn ở trong chùa, đó chỉ gọi là những Phật tử bề ngoài. Những người rèn luyệnthực tập Pháp thường xuyên một cách đúng đắn, và đồng thời, cả đi chùa, đó là người Phật tử rất tích cực và là một hành giả.

Những khi vô minh xảy đến, người hành giả có thể nhận rangay lập tức. Sau khi nhận thức được nó là vô minh, ta sẽ áp dụng trí huệ để thực hiện những pháp tịnh hóa vô minhthoát khỏi những rắc rối ấy. Như vậy, bất cứ những cảm xúcvô minh nào xuất hiện, ta phải coi đó là một thử tháchvượt qua nó, đó là phương pháp đúng đắn nhất mà ta phải làm theo.

Tuy nhiên, việc thực hành Pháp không dễ như ta nghĩ. Việc nhận ra khi vô minh xuất hiện có thể trở nên rất khó khăn. Thậm chí khi ta đã nhận ra nó, việc nhớ lại và dùng thuốc giải độc cũng rất khó để thực hiện một cách hiệu quả. Sức mạnh của vô minh có thể là vô cùng lớn so với phương thuốc để giải trừ nó, ta có thể không có khả năng để xóa bỏ vô minh một cách nhanh chóng. Thật ra, tất cả chúng ta đều muốn tịnh hóa một số lượng lớn những si mê của mình nhưng vô minh thì quá nhiều nên ta không thể vượt qua chúng tất cả cùng một lúc. Sự nỗ lực kiên địnhtinh tấn sẽ giúp ta đẩy lùi chúng. Cuối cùng, nỗ lực của chúng ta sẽ trở thành một thói quen tích cực và một ngày nào đó ta có thể thành công.

Ngày xưa có một thương gia Tây Tạng tên là Norbu Zangpo, người ấy đã mất tất cả tiền trong việc kinh doanh. Vì sự thất bại trong làm ăn, ông cảm thấy rất thất vọng, nản lòng và muốn rút lui. Rất buồn chán, ông ta nằm xuống đất và đã nhìn thấy một chú kiến đang cố trèo qua một cọng cỏ. Được nửa đường, nó lại ngã xuống. Nó lại cố trèo lần nữa và cứ như vậy, ông ta đếm được 79 lần chú kiến ngã. Nhưng lần cuối cùng là lần thứ 80, chú kiến đã trèo lên được đỉnh của ngọn cỏ. Đột nhiên, ông ta nhận ra nếu không có sự nỗ lực bền bỉ, thì không thể thành công được trong bất kỳ điều gì. Từ đó về sau, ông ta đã cố gắng rất nhiều và làm ăn chăm chỉ, ông đã thành công. Ông trở thành thương gia giàu có nhất và thành công nhất ở Tây Tạng. Con côn trùng nhỏ bé đã trở thành động lực cố gắng của ông.

Câu chuyện nhắc ta phải nỗ lực không ngừng và không sợ thất bại. Trong quá trình ấy, dù ta không đạt được thành tựu từ lúc đầu, ta cũng cần phải thực hành đến tận khi đạt được thành tựu. Chúng ta thiếu sự tỉnh thức và sự nỗ lực lâu dài. Ta mong chờ một kết quả ngay lập tức mà không cần cố gắng nhiều. Điều đó là không thể. Pháp là sự rèn luyện về tinh thần mà không thể do ai khác mang đến hay chuyển sang cho ta được. Điều này rất đơn giản nếu ta biết cách chuyển Pháp thành hành động, thành thuốc giải để tịnh hóa vô minh. Nếu Pháp trở thành thứ gì đó khiến người ta tăng thêm danh vọng hay vô minh, thì nó sẽ phát triển thành một mặt rất tiêu cực đối với chúng ta. Nếu Pháp được thực hành một cách đúng đắn, ta có thể giảm bớt được vô minh như lòng căm giận, si mê, tham muốn và tất cả những xúc tình khác.

Về cơ bản, thông qua tất cả những quá trình này, ta sẽ có khả năng phân biệt được một người là Phật tử chân chính hay không. Một Phật tử thật sự là người không chỉ hiểu về giáo lý mà còn thực hành chúng và trải nghiệm được những kết quả mà điều đó mang lại. Không phải là một Phật tử chân chính có nghĩa là ta không áp dụng được giáo pháp vào thực tế và không bao giờ thay đổi được thái độ của mình trên con đường tâm linh. Thay vào đó, người ta tự hào về sự hiểu biết của mình về Pháp và nhìn xuống những người khác, điều này sẽ làm tăng những suy nghĩ tiêu cực của họ.

Việc lắng nghe giáo Pháp và suy ngẫm và thiền định, đó là tất cả những việc cần rèn luyện. Ta cần cố gắng hiểu được những giáo pháp của Phật, sau đó suy ngẫm và nghiên cứu về pháp. Sau khi đã tìm hiểu về logic của sự thật, ta phải áp dụngthực hiện tất cả những gì ta đã học và thiền định về việc đó. Với những phương pháp này, việc thực hành Pháp của ta sẽ trở nên có hiệu quả và ta sẽ có thể thành tựu giác ngộ.

Thiền định không có nghĩa là chỉ ngồi xuống và đặt hai tay vào nhau. Thiền định có thể được thực hiện bằng rất nhiều cách khác nhau như phát triển hạnh bố thí, nhẫn nhục và phẩm hạnh. Thực tế, tất cả những thực hành này đều liên quan đến thiền định, nó đòi hỏi hiểu biếttrí tuệ. Ví dụ, nếu một người đang nấu ăn và nói rằng anh ta đang thiền định, ta sẽ không tin bởi ta nghĩ rằng thiền định không phải là như vậy. Làm sao anh ta có thể thiền được khi đang nấu nướng? Tuy nhiên, nếu anh ta áp dụng những phẩm hạnh của trí tuệhiểu biết vào quá trình nấu nướng, thì anh ta thực sự đang thiền.

Trong Kim Cương thừa, ta có rất nhiều bài kinh, những nhạc cụ và rất nhiều loại ấn khác nhau v.v… Tất cả những điều ấy đều là một phần của thiền định. Thông qua những thiền định này và sự thực hành, ta có khả năng nhận ra được bản chất của tâm một cách hiệu quả hơn.

Kết lại, một Phật tử chân chính là người áp dụng những giáo lý của Phật ở trong tâm và trong cả cuộc sống hàng ngày. Bằng cách đó, ta sẽ tỉnh thức trong mọi suy nghĩ và hành động. Một khi ta đã có được hạnh đó, ta sẽ không còn mắc sai lầm và sẽ tiếp tục phát triển được những suy nghĩ tích cực cũng như công đứctrí tuệ. Khi ta đã có tất cả những hạnh đó, niềm hạnh phúc an lạc bên trong ta sẽ lớn lên và ta sẽ được hoàn toàn thỏa mãnthành tựu được tất cả những mục đích của cuộc đời.

Bài pháp được giảng tại Đạo tràng Karma Kagyud, Singapore vào ngày 3 tháng 5 năm 1995 trước ngày Phật đản.

Nguồn: http://www.dhagpo-kagyu.org/anglais/science-esprit/fondements/general/true-buddhist.htm

Việt dịch: Quỳnh Anh – Nhóm Thuận Duyên.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 16647)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13242)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12710)
Chữ A tỳ đạt ma luận thường để chỉ các luận thư của các bộ phái, chứ không dùng cho các luận thư Đại thừa. Abhidharma, Trung Hoa dịch âm là A tỳ đàm, A tỳ đạt ma, và dịch nghĩa là Vô tỷ pháp, Thắng pháp, Đối pháp.
(Xem: 13548)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11722)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14249)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17743)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22602)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13449)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 15531)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 16058)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11343)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15665)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 13142)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 21906)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 16151)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 19115)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24791)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 17630)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 17079)
Kinh Hoa Nghiêm phát xuất từ Ấn Ðộ, nhưng được phát triển mạnh ở Trung Quốc, Nhật Bản... HT Thích Trí Quảng
(Xem: 18566)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 18998)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18816)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 14382)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Số 2072, nguyên tác: Minh Châu Hoằng; Nguyên Lộc Thọ Phước
(Xem: 23071)
Chứng Đạo Ca - Nguyên tác: Huyền Giác; Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn, sáng tác những năm tháng từ 1980 - 1990, lúc Ngài đang bị quản thúc.
(Xem: 28498)
Duy Thức Tam Thập Tụng (唯 識 三 十 頌) Tài Liệu Học Tập Lớp Cao Học Triết của Đại Học Văn Khoa Viện Đại Học Vạn Hạnh, Niên Khóa: 1972-1973... HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 15158)
Luận Giải Trung Luận: Tánh Khởi và Duyên Khởi - Hồng Dương Nguyễn Văn Hai do Ban tu thư Phật học Viện Cao Đẳng Hải Đức ấn hành
(Xem: 13660)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Kinh số 2031 - Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 16399)
Luận Du Già Sư Địa (Phạn: Yogacàrabhùmi – sàtra), tác giảBồ tát Di Lặc (Maitreya) thuyết giảng, Đại sĩ Vô Trước (Asànga) ghi chép, Hán dịch là Pháp sư Huyền Tráng (602 -664)... Nguyên Hiền
(Xem: 143461)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
(Xem: 16300)
Giới là nguồn cội của hết thảy Thiện pháp, là nền tảng của Tam vô lậu học và mọi quả vị Giải thoát... Nguyên tác: Lý Viên Tịnh; Thích Giác Quả dịch
(Xem: 17383)
Tập Tổng quan kinh Đại Bát Niết-bàn này được chúng tôi biên soạn như một phần trong công trình dịch thuật và chú giải kinh Đại Bát Niết-bàn... Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 47365)
Bấy giờ, năm trăm công tử Ly-xa, dẫn đầu bởi Bảo Tích (Ratnākāra), mỗi người mang theo một cây lọng quý, biểu hiệu quyền quý, đến vườn Xoài cúng dường Phật... Tuệ Sỹ
(Xem: 39089)
Trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15777)
“Vũ trụ vạn hữu bản thể luận” của Định Hy là một kiến giải nhân sinh vũ trụ trên hai phương diện bản thểhiện tượng, tuy vậy không rời tính thực dụng của Phật pháp trong đời sống tu tập... Thích Đức Trí
(Xem: 23075)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 16725)
Bản nầy thứ tự kinh văn số 1726 được khắc vào đời nhà Minh Vạn Lịch -Trung Quốc - và đang lưu trữ tại Báo Ân Tạng thuộc chùa Jojoji - Tăng Thượng tự - Tokyo, Nhật Bản... HT Thích Như Điển
(Xem: 14279)
Du Già Sư Địa Luận Thích - Trước tác: Bồ Tát Tối Thắng Tử; Hán dịch: Tam-Tạng Pháp Sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích Tâm Châu
(Xem: 13871)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, thuộc Luận Tập bộ toàn. Thứ tự kinh văn số 1663 (562-563)... HT Thích Như Điển
(Xem: 17201)
Tác Giả: Tăng Triệu Ðại Sư - Lược Giải: Hám Sơn Ðại Sư; Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 14340)
Toàn thể đại dụng, thu nhiếp xưa nay ngay trên đường; dứt trí tuyệt ngu, vật và ta ngang bằng nơi kiếp ngoại ... HT Thích Thiện Siêu
(Xem: 16899)
Luận về Pháp Hoa Kinh An Lạc Hạnh Nghĩa - Phiên dịch, chú giải: Daniel B. Stevenson & Hiroshi Kanno - Phiên dịch, thi hóa: Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm
(Xem: 27922)
Bộ kinh Lăng Nghiêm Tông Thông này được Ngài Thubten Osall Lama, tức Nhẫn Tế thiền sư, Đức Sơ Tổ Tây Tạng Tự, dịch và chú thích thêm từ bản Hán văn sang Việt văn...
(Xem: 50141)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 38440)
Sách này thâu kết lời giảng của đức Đalai Lama về bài kinh ngắn mang tựa đề Bát Nhã Tâm Kinh, một trong những bộ kinh Phật giáo Ðại thừa quý giá nhất.
(Xem: 28514)
Trọng tâm cứu khổ của Ngài Quán Thế Âm nhằm giải thoát sự khổ tâm, khổ tinh thần. Một khi con người đã giải thoát khổ tinh thần thì thân thể sẽ lành mạnh.
(Xem: 52134)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 35803)
Địa Tạng Bồ Tát Bản Tích Linh Cảm Lục - Liêu Nguyên dịch, Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 32823)
Kinh Kim Cương lấy vô tướng làm tông, vô trụ làm thể, diệu hữu làm dụng. Từ khi Bồ-đề Đạt-ma đến từ Tây Trúc truyền trao ý chỉ kinh này khiến người đời ngộ lý đạo, thấy tính.
(Xem: 50736)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 63629)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 49642)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 56957)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47473)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39366)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38415)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 36542)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32187)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 46646)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 40013)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant