Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Cuộc Luận Bàn Ly Kỳ

12 Tháng Sáu 201421:57(Xem: 19811)
Cuộc Luận Bàn Ly Kỳ

CUỘC LUẬN BÀN LY KỲ

Toàn Không

Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh; bấy giờ đức Phật du hóa đến Na-lan-Đà, và trú ngụ trong vườn xoài Ba-bà-Ly.

Một hôm, có một đại đệ-tử của Ni-kiền Thân-Tử là Ni-kiền Trường, sau giờ ăn trưa, ung dung đi đến chỗ đức Phật, chào hỏi xong, đức Phật hỏi:

- Nhà khổ hạnh Ni-kiền Thân-Tử, thầy của ông chủ trương có nhiều hành vi để không hành ác nghiệp không?

- Tôn-sư của tôi không giảng dạy về những hành vi để không gây ác nghiệp, nhưng Người giảng dạy về sự trừng phạt để không làm việc ác.

Đức Phật hỏi:

- Thầy của ông chủ trương có bao nhiêu sự trừng phạt để ngăn chặn làm việc ác?

- Tôn-sư của tôi giảng dạy về ba sự trừng phạt do thân, do miệng, và do ý để không làm việc ác.

- Thân phạt, khẩu phạt, và ý phạt có khác nhau không?

- Đối với chúng tôi: thân làm bị phạt, khẩu nói bị phạt, và ý nghĩ bị phạt đều khác nhau.

- Thầy ông chủ trương trừng phạt nào nặng hơn hết, trừng phạt nào nhẹ hơn hết?

- Tôn-Sư tôi chủ trương thân phạt nặng hơn hết để không làm việc ác, khẩu phạt nhẹ hơn, ý phạt nhẹ nhất, không bằng thân phạt rất là nặng nề lớn lao, vì sao? Vì nếu một người lấy trộm của cải tiền bạc của người khác, mà bị bắt gặp sẽ có tội nặng, nếu người ấy chỉ nói lấy trộm nhưng chưa lấy trộm tội nhẹ hơn; còn nếu người ấy không lấy trộm, không nói lấy trộm, chỉ nghĩ đến việc lấy trộm mà thôi, tội qúa nhẹ, hầu như không có tội vậy.

- Ông nói thân phạt nặng nhất phải không?

- Vâng, thân phạt nặng nhất.

Đức Phật: hỏi đi hỏi lại ba lần như thế, Ni-kiền Trường đáp đi đáp lại ba lần xác nhận cũng như thế, Ngài bèn ngồi yên lặng.

Bấy giờ Ni-kiền Trường cũng theo những câu hỏi trên mà hỏi lại chủ trương của đức Phật, thì được Ngài trả lời:

- Ta không giảng về những trừng phạt để không hành (thân làm, miệng nói, ý nghĩ) ác nghiệp, mà chỉ giảng thuyết về nghiệp để không hành ác nghiệp. Ta giảng về ba nghiệp, đó là thân nghiệp, khẩu nghiệp, và ý nghiệp, và chủ trương rằng ý nghiệp là nặng nhất. Ta chủ trương và giảng thuyết khác với Ni-kiền Thân-Tử, Tôn-sư cuả ông.

Ni-kiền Trường: cũng hỏi ba lần về chủ trương của đức Phậtý nghiệp nặng nhất, đều được Ngài trả lời ý nghiệp là nặng nhất; thẩm định xong, Ni-kiền Trường đứng dậy vái chào rồi ra về.

Khi về tới nơi, Ni-kiền Thân-Tử trông thấy Ni-kiền Trường, bèn hỏi:

- Ông từ đâu về vậy?

- Con từ vườn xoài Ba-bà-Ly, chỗ trú ngụ của Sa-môn Cù-Đàm về đây.

- Ông có cùng Sa-môn Cù-Đàm bàn luận gì không?

- Thưa có bàn luận với nhau.

- Này, nếu ông đã cùng Sa-môn bàn luận, hãy nói hết cho ta nghe, để ta biết được luận thuyết của vị ấy.

Khi ấy Ni-kiền Trường đem hết sự việc kể lại cho Tôn-sư của ông nghe, nghe xong ông khen rằng:

- Hay thay! Ông đối với Tôn-sư đã làm đúng pháp của một đệ-tử, và là người thành biện bằng trí tuệ với quyết định thông minh, trầm tĩnh, không sợ hãi, tự tin; Ông đã đạt đến tài hùng biện, đã bắt được ngọn gió cam lộ, và ở trong cảnh giới cam lộ, tự thân chứng ngộ, thành tựu an trụ, vì sao vậy? Vì vừa rồi ông đối trước Sa-môn Cù-Đàm nói thuyết thân phạt nặng nhất để không làm ác, khẩu phạt không nặng như vậy, ý phạt càng kém hơn, không bằng thân phạt lớn lao, trầm trọng nhất.

Lúc ấy Cư-sĩ Ưu-ba-Ly cùng năm trăm Cư-sĩ ngồi nghe sự việc như thế, bèn đứng dậy chắp tay hướng về Ni-kiền Thân-tử, rồi hướng qua nói với Ni-kiền Trường rằng:

- Ngài đã ba lần thẩm định Sa-môn Cù-Đàm, việc thực sự như vậy sao?

Ni-Kiền Trường đáp:

- Cư-sĩ Ưu-ba-Ly, tôi đã đích thân ba lần thẩm định Sa-môn Cù-Đàm, việc đúng như thế.

Cư-sĩ Ưu-ba-Ly nói:

- Tôi cũng có thể đến đó thẩm định Sa-môn Cù-Đàm, rồi lôi kéo đi đâu tùy ý. Tôi như người lực-sĩ nắm cái bờm dài của con dê, rồi lôi kéo đi đâu tùy ý. Tôi cũng như người cầm áo lông giũ bụi, có thể đến thẩm định Sa-môn Cù-Đàm ba lần, rồi lôi kéo đi đâu tùy ý. Cũng như một con voi chúa kiêu ngạo, đủ ngà, đủ vóc, gân cốt mạnh mẽ, một lực-sĩ dẫn đi, lấy nước rửa khắp, và giỡn chơi trong nước, xong muốn dẫn đi đâu thì đi; tôi đến chỗ Sa-môn Cù-Đàm và cùng ông ta bàn luận, hàng phục xong rồi, tôi sẽ trở về ngay không lâu đâu.

Ni-kiền Thân-Tử nói:

- Ta có thể hàng phục Sa-môn Cù-Đàm, Ni-kiền Trường có thể hàng phục Sa-môn Cù-Đàm, Cư-sĩ Ưu-ba-Ly cũng có thể hàng phục Sa-môn Cù-Đàm.

Khi ấy Ni-kiền Trường vội nói:

- Con không muốn để Cư-sĩ Ưu-ba-Ly đi vì Sa-môn Cù-Đàm có thể dùng huyển thuật biến hóa Cư-Sĩ thành đệ-tử của ông ta.

Ni-kiền Thân-Tử nói:

- Cư-sĩ Ưu-ba-Ly bị biến hóa thành đệ-tử của Sa-môn Cù-Đàm, điều đó hoàn toàn không thể xẩy ra; Sa-môn Cù-Đàm bị biến hóa làm đệ-tử của Cư-sĩ Ưu-ba-Ly, điều này chắc chắn có.

Cư-sĩ Ưu-ba-Ly ba lần nói muốn đến chỗ Phật để hàng phục xong sẽ trở về, Ni-kiền Trường ba lần ngăn cản không muốn để Cư-Sĩ đi, Ni-kiền Thân-Tử trái lại ba lần đồng ý để Cư-sĩ Ưu-ba-Ly đi. Ni-kiền Thân-Tử xác quyết rằng: “Không có trường hợp Cư-sĩ Ưu-ba-Ly bị biến hóa thành đệ-tử Cù-Đàm, mà chỉ có trường hợp Cù-Đàm bị biến hóa thành đệ-tử của Cư-sĩ mà thôi”, và Ni-kiền Thân-Tử bảo Cư-sĩ Ưu-ba-Ly:

- Ông nên đi ngay kẻo trễ mất cơ hội tốt.

Lúc ấy Cư-sĩ Ưu-ba-Ly chắp tay cúi đầu trước Ni-kiền Thân-Tử vái ba lần, rồi đi đến chỗ Phật, chào hỏi xong ngồi sang một bên và nói:

- Thưa Cù-Đàm, ngày hôm nay có Ni-kiền Trường đến đây không?

- Cư-Sĩ, Ni-kiền Trường là đệ-tử của Ni-kiền Thân-Tử có đến đây.

- Cù-Đàm có cùng ông ta đàm luận không?

- Có cùng đàm luận.

- Nếu có cùng đàm luận, thì xin Cù-Đàm thuật lại cho tôi nghe, để tôi biết được việc đó mà học hỏi.

Đức Phật kể hết những lời đã bàn luận, giống như lời của Ni-kiền Trường đã thuật, cho Cư-sĩ Ưu-ba-Ly nghe, Cư-sĩ nghe rồi bèn khen và nói y như những lời Ni-kiền Thân-Tử đã khen Ni-kiền-Trường rằng:

“Ni-kiền Trường đã làm đúng pháp của một đệ-tử đối với Tôn-sư chúng tôi, Ni-kiền Trường là người thành biện bằng trí tuệ với quyết định thông minh, trầm tĩnh, không sợ hãi, tự tin; Ông ta đã đạt đến tài hùng biện, đã bắt được ngọn gió cam lộ, ông ta ở trong cảnh giới cam lộ, tự thân chứng ngộ, và thành tựu an trụ, vì sao vậy? Vì Ni-kiền Trường đối trước Sa-môn Cù-Đàm đã nói thuyết thân phạt nặng nhất để không làm ác, khẩu phạt không nặng như vậy, ý phạt càng kém hơn, không bằng thân phạt rất lớn lao, rất trầm trọng; thật hay thay, thật hay thay”.

Khi đó đức Phật bảo:

- Cư-sĩ, Ta muốn cùng ông bàn luận về việc này, nếu như an trú (căn cứ) trong sự thật, thì bằng sự thật mà đáp.

- Được, tôi an trú trong sự thật, Cù-Đàm cũng an trú trong sự thật, bằng sự thật mà đáp; Cù-Đàm hãy cùng tôi mà bàn luận việc này.

- Cư-sĩ, ông nghĩ sao? Nếu có vị Ni-Kiền ưa bố thí, không ưa hý luận (không ưa bàn bạc cho vui), rất thanh tịnh, chuyên hành chú (rèn luyện tu hành); nếu người ấy đến đây đạp chết nhiều côn trùng lớn nhỏ, thì Ni-kiền Thân-Tử, Sư-phụ của Cư-Sĩ, đối với việc sát sanh này chủ trương có qủa báo ra sao?

- Nếu người ấy cố ý thì có tội lớn, nếu không cố ý thì có tội nhẹ.

- Cư-sĩ, ông nói cố ý là thế nào?

- Đó là ý nghiệp vậy.

- Cư-Sĩ, ông nên suy nghĩ kỹ rồi hãy trả lời, những điều nói trước trái với điều nói sau, sau trái với trước, không phù hợp nhau. Cư-Sĩ, ông nghĩ thế nào, nếu có Ni-Kiền thệ nguyện chỉ uống nước nóng dứt hẳn nước lạnh. Khi không có nước nóng người ấy bèn uống nước lạnh, khi uống nước lạnh người ấy liền chết; ni-kiền Thân-Tử, Sư-phụ của ông có thể nói thế nào về chỗ thác sinh của Ni-Kiền ấy?

- Có loại Trời gọi là Ý-Trước, vị Ni-Kiền ấy mạng hết là do ý có chấp trước mà sinh đến cõi Trời Ý-Trước.

- Cư-sĩ, ông nên suy nghĩ kỹ rồi hãy trả lời, những điều ông vừa nói trái với những điều ông nói trước đây, trước trái với sau không phù hợp nhau. Cư-Sĩ nghĩ sao, giả sử có người dũng-sĩ cầm kiếm sắc bén, người ấy nói rằng: “Chỉ trong một ngày, tôi chém đầu, lột da, chặt chân tay tất cả mọi người trong xứ Na-nan-Đà này chất thành một đống cao như núi”, Ông nghĩ người ấy trong một ngày có thể làm xong việc ấy không ?

- Không thể được, vì xứ này quá đông người, cho nên người ấy không thể trong một ngày mà có thể chém đầu, lột da, chặt chân tay mọi người trong xứ Na-lan-Đà này, rồi chất thành một đống cao như núi.

- Cư-Sĩ, ông nghĩ sao, nếu có Sa-Môn hoặc Phạm-Chí có đại như-ý-túc, có đại oai-đức, có đại phúc-hậu, có đại oai-thần, tâm được tự tại, người ấy nói: “Ta chỉ khởi một niệm sân (ý giận) làm cho cả xứ Na-lan-Đà này cháy rụi thành tro”, Ông nghĩ Sa-Môn hoặc Phạm-Chí ấy có thể làm được việc ấy không?

- Đâu phải chỉ một xứ Na -Lan-Đà này, đâu phải hai hay ba hay bốn xứ Na-lan-Đà này; người có những tuyệt đỉnh thù thắng như thế, nếu người ấy khởi một niệm giận có thể làm cho nhân dân trong cả nước thiêu rụi thành tro, huống gi` một Na-lan-Đà này.

- Cư-Sĩ, ông hãy suy nghĩ cho kỹ rồi hãy trả lời, những gì ông nói trước đều trái với điều ông nói sau, sau trái với trước, không phù hợp với nhau, không đi đôi với nhau. Cư-Sĩ, ông có từng nghe rừng Đại-Trạch, rừng Kỳ-Lân, rừng Mê-Lộc, rừng Tịch-Tịnh, rừng Không-Dã, tại sao những khu rừng ấy là những khu rừng?

- Thưa, tôi có nghe người ta nói.

- Cư-Sĩ, tại sao những khu ấy trở thành những khu rừng, vì ai mà có những khu rừng ấy?

Khi ấy Cư-sĩ Ưu-ba-Ly im lặng không đáp, một lúc, đức Phật bảo:

- Cư-Sĩ hãy trả lời đi, bây giờ không phải là lúc im lặng, vì chính ông đã tự nói: “Tôi an trú trong sự thật, Cù-Đàm cũng an trú trong sự thật, bằng sự thật mà đáp, Cù-Đàm hãy cùng tôi mà bàn luận việc này”.

Cư-sĩ Ưu-ba-Ly im lặng trong chốc lát rồi mới nói:

- Thưa Cù-Đàm, tôi không im lặng mà chỉ suy nghĩ trong chốc lát về ý nghĩa này vậy. Thưa Cù-Đàm, những Ni-Kiền ngu si không hiểu rõ ràng, không thể giải, không thể biết; họ không biết khoảnh ruộng tốt mà không tự xem xét, họ cứ mãi lừa dối tôi, tôi mê lầm vì họ. Nay do lời dạy của Cù-Đàm mà tôi hiểu nghĩa, bởi vì tiền nhân khởi một niệm sân mà có thể làm cho những khu ấy trở thành những khu rừng.

Rồi Cư-Sĩ nói tiếp:

- Thưa Thế-Tôn, nhờ sự chỉ dạy của Ngài mà con đã biết đã hiểu. Hôm nay con xin được quy-y Phật, Pháp và chúng Tỳ-Kheo. Cúi xin Thế-Tôn chấp nhận cho con làm Ưu-bà Tắc (Cư-sĩ) từ nay cho đến khi chết .

Đức Phật bảo:

- Cư-Sĩ, ông hãy im lặng mà làm, không nên tuyên bố, sự im lặng của người thù thắng như vậy là tốt đẹp.

- Thưa Thế-Tôn, với sự kiện này, con lại bội phần vui mừng, vì Thế-Tôn đã chấp thuận và nói: “Cư-sĩ, ông hãy im lặng mà làm, không nên tuyên bố, sự im lặng của người thù thắng như vậy là tốt đẹp”. Thưa Thế-Tôn, nếu con là đệ-tử của Sa-Môn hoặc Phạm-Chí khác, thì họ đã tổ chức rầm rộ, cầm cờ phướn, dù lọng đi tuyên bố khắp xứ Na-lan-Đà, họ nói như thế này: “Cư-sĩ Ưu-ba-Ly là đệ-tử của ta ! Cư-sĩ Ưu-ba-Ly là đệ-tử của ta!”, nhưng Thế-Tôn lại khác họ, khác xa họ như trời với đất. Từ nay trở đi, con sẽ không cho các Ni-Kiền vào nhà con nữa, con sẽ không cho Ni-kiền Thân-Tử và đệ-tử của ông ta vào nhà con nữa; chỉ có Thế-Tôn và bốn chúng đệ-tử (Tỳ-kheo, Tỳ-kheo Ni, Ưu-bà Tắc, Ưu-bà Di) của Thế-Tôn vào nhà con mà thôi.

- Này Cư-Sĩ, các Ni-Kiền kia và gia-đình ông đã tương kính lẫn nhau trong thời gian lâu dài, nếu họ có đến ông nên tùy theo khả năng của mình mà cúng dường họ.

- Thưa Thế-Tôn, với lời nói này, với sự kiện này, đối với Thế-Tôn, con lại bội phần tôn kính, bội phần vui mừng. Thưa Thế-Tôn, ngày trước con nghe người ta nói Thế-Tôn giảng rằng: “Nên cho ta, đừng cho người khác, nên cho đệ-tử của ta, đừng cho đệ-tử của người khác; nếu cho ta và cho đệ-tử của ta sẽ được phúc lớn, cho người khác và cho đệ-tử người khác sẽ không được phúc lớn”. Thưa Thế-Tôn, có phải đúng như vậy không?

- Cư-Sĩ, Ta không nói như thế, mà nói như thế này: “Cho tất cả tùy tâm hoan-hỷ, nhưng cho người không tinh tấn, không phạm-hạnh thì không được phúc lớn, cho người tinh tấn, phạm-hạnh (chân tu hành) sẽ được phúc lớn”.

- Thưa Thế-Tôn, con xin nguyện sẽ không làm gì cả đối với họ, con tự biết nên cho hay không nên cho đối với Ni-Kiền. Thưa Thế-Tôn, một lần nữa, con xin được quy y Phật, Pháp và chúng Tỳ-kheo, cúi xin Thế-Tôn nhận con làm Ưu-bà Tắc (Cư-sĩ) cho đến trọn đời.

Nói xong, Cư-sĩ Ưu-ba-Ly cúi đầu lễ Phật, đi quanh ba vòng, rồi trở về nhà, khi trông thấy các người giữ cửa Cư-sĩ bảo:

- Các ông nên biết, bắt đầu từ hôm nay, ta là đệ-tử của Phật, cũng gọi là Thế-Tôn, tức Sa-môn Cù-Đàm. Kể từ giờ phút này về sau, các ông chớ cho các Ni-Kiền vào cửa, chỉ cho bốn chúng đệ-tử của Thế-Tôn là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo Ni, Ưu- bà Tắc và Ưu-bà Di vào mà thôi. Nếu có Ni-Kiền tới cửa xin vào, các ông nói: “Tôn-giả, Cư-sĩ Ưu-ba-Ly đã nhận sự giáo hoá của Phật, đã làm đệ-tử của Sa-môn Cù-Đàm, nên không cho các Ni-Kiền vào cửa nữa”; nếu Ni-Kiền cầu xin ăn, bảo họ đứng chờ, rồi báo người đem cơm ra cho họ.

Hôm sau Ni-kiền Trường nghe tin: “Cư-sĩ Ưu-ba-Ly đã nhận sự giáo hoá của Sa-môn Cù-Đàm rồi. Cư-Sĩ đã ra lệnh không cho các Ni-Kiền vào cửa, mà chỉ cho các đệ-tử của Sa-môn Cù-Đàm vào mà thôi”, ông liền đến nói với Ni-kiền Thân-Tử:

- Thưa Tôn-sư, đây là điều mà con đã nói trước rằng không nên để Cư-sĩ Ưu-ba-Ly đến chỗ Sa-môn Cù-Đàm, vì sợ Cư-sĩ bị biến hoá thành đệ-tử của Sa-môn. Bây giờ đúng như vậỵ, Cư-sĩ Ưu-ba-Ly đã bị biến hoá thành đệ-tử của Sa-môn Cù-Đàm rồi; hiện tại Cư-sĩ cấm không cho các Ni-Kiền vào cửa, mà chỉ cho các đệ-tử của Sa-môn Cù-Đàm vào mà thôi.

Nghe đệ tử nói, Ni-kiền Thân-Tử không tin, ông vẫn nói quả quyết rằng: “Không có trường hợp cư-sĩ Ưu-ba-Ly bị biến hoá thành đệ-tử cuả Sa-môn Cù-Đàm, mà chỉ có ngược lại thôi”.

Ni-kiền-Trường thưa :

- Nếu Tôn-sư không tin, Ngài có thể đến xem xét, hoặc sai người tới đó thì sẽ biết sự thực.

Ni-Kiền Thân-Tử bảo:

- Ông tới đó coi xét, xong về báo cáo cho ta biết hư thực thế nào?

Vâng lời Tôn-sư, Ni-kiền Trường liền đi ngay; khi đến nhà Cư-sĩ Ưu-ba-Ly, người giữ cửa vừa trông thấy Ni-kiên Trường, liền nói y như những lời mà người chủ đã bảo phải nói khi có các Ni-Kiền tới cửa. Nghe đúng những lời như thế rồi, Ni-kiền Trường không nói lời nào, bỏ về, thưa lại với Ni-kiền Thân-tử:

- Thưa Tôn-sư, chính tai con nghe người giữ cửa nói những điều mà con đã thưa với Tôn-sư, sự việc xẩy ra đúng như thế, Ưu-ba-Ly đã bị biến hoá thành đệ-tử của Sa-môn Cù-Đàm rồi; nếu Tôn-sư không tin nữa, nên đích thân đến đó hỏi cho rõ sự việc.

Hôm sau, Ni-kiền Thân-Tử tập họp đại chúng gồm Cư-Sĩ, Ni-Kiền đông đảo cùng đến nhà Ưu ba-Ly, người giữ cửa nói:

- Thưa Tôn-giả, Cư-sĩ Ưu-ba-Ly đã nhận sự giáo hóa của Phật, tức Sa-môn Cù-Đàm và trở thành đệ-tử của ngài Cù-Đàm rồi, nên không cho các Ni-Kiền vào cửa nữa; chỉ cho bốn chúng đệ-tử Phật vào cửa mà thôi. Nếu Tôn-giả và các Ni-Kiền muốn xin ăn nên đứng ở đây, tôi sẽ thông báo và sẽ có người đem cơm ra cho.

Ni-kiền Thân-Tử nói:

- Ta không dùng cơm, ta chỉ muốn gặp Cư-sĩ Ưu-ba-Ly mà thôi.

Người giữ cửa thưa:

- Xin Ngài đợi một chút, tôi sẽ vào thưa với Cư-Sĩ.

Sau khi được báo cáo rằng Ni-kiền Thân-Tử có đông đảo đệ-tử cùng đến muốn vào gặp, Cư-sĩ Ưu-ba-Ly bảo người hầu đến phòng lớn sửa soạn chỗ ngồi, xong Cư-Sĩ lên toà ngồi (chỗ mà trước kia đã có lần Cư-Sĩ dìu Ni-kiền Thân-tử ngồi lên đó), Cư-Sĩ bảo người giữ cửa:

- Ngươi ra cửa nói với Ni-kiền Thân-Tử như thế này: Tôn nhân, Cư-sĩ Ưu-ba-Ly nói: “Tôn nhân muốn vào thì xin tùy ý”.

Người giữ cửa trở ra nói y như lời chủ dặn bảo, Ni-kiền Thân-Tử nghe xong cùng đại chúng đông đảo vào chật cả đại sảnh đường, Cư-Sĩ vừa trông thấy bèn nói:

- Tôn nhân, ở đây có chỗ ngồi, ông muốn ngồi xin tùy ý.

Ni-kiền Thân-Tử nói:

- Cư-Sĩ, ông nên làm như thế sao? Tự mình: lên toà cao ngồi kiết già, cùng nói chuyện với người khác y như người xuất gia học đạo không khác.

- Tôn nhân, tôi có đồ vật, chỗ ngồi này tôi có, cho nên tôi nói: “Có chỗ ngồi, muốn ngồi xin tùy ý”.

Ni-kiền Thân-Tử tự trải chỗ ngồi mà ngồi rồi nói:

- Cư-Sĩ, vì sao như vậy? Muốn hàng phục Sa-môn Cù-Đàm, lúc trở về lại bị hàng phục, như người vào rừng tìm con mắt, nhưng khi trở về lại bị mất thêm con mắt thứ hai. Cũng như: người khát nước đi vào hồ nước, khi trở ra vẫn khát nước, Cư-Sĩ cũng vậy, muốn hàng phục Sa-môn Cù-Đàm, nhưng khi trở về lại bị hàng phục ngược lại; này Cư-Sĩ, tại sao thế?

Cư-sĩ Ưu-ba-Ly nói:

- Ví như một người cầm đồ chơi con khỉ nhỏ đến thợ nhuộm và nói: “Hãy nhuộm đồ chơi con khỉ nhỏ này thành màu vàng và nhồi cho nó phát ra ánh sáng cho tôi”. Người thợ nhuộm trả lời: “Đồ chơi này nhuộm thành màu vàng làm cho dễ thương, việc này làm được, nhưng không thể nhồi đập cho nó phát ra ánh sáng”. Thưa Tôn nhân, những điều Ni-Kiền nói cũng giống như thế, không thể chịu đựng nổi những câu hỏi khó của người khác, cũng không thể suy nghĩ quán sát, mà chỉ nhiễm ngu si; giống như đồ chơi con khỉ không thể phát ra ánh sáng.

Lại nữa, một người cầm chiếc áo Ba-la-nại đến thợ nhuộm nói: “Nhuộm giùm chiếc áo này thành cực đẹp, và nhồi đập cho nó phát ra ánh sáng”. Thợ nhuộm nói: “Áo này có thể nhuộm thành màu rất đẹp, cũng có thể đập nhồi cho phát ra ánh sáng”. Thưa Tôn nhân, những điều mà Sa-môn Cù-Đàm, tức đấng Như-Lai Vô-Sở-Trước Chánh-Đẳng Chánh-Giác dạy cũng như vậy, rất đủ khả năng chịu được những câu hỏi khó của người khác; cũng có thể suy nghĩ, quán sát một cách thoả đáng, không ngu si.

Ni-kiền Thân-Tử nói:

- Cư-Sĩ, ông đã bị Cù-Đàm biến hoá bằng ảo thuật rồi.

- Thưa Tôn nhân, đó là loại chú huyển thuật tốt đẹp, loại chú huyển thuật làm cho cha-mẹ tôi sung sướng, ích lợi an ổn, khoái lạc lâu dài. Là chú huyển thuật làm cho vợ-con, nô-tỳ, Quốc-Vương, tất cả thế-gian, chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Phạm-chí, tất cả được lợi ích an ổn, khoái lạc lâu dài.

- Này Cư-Sĩ, cả xứ Na-lan-Đà này đều biết Cư-Sĩ là đệ-tử của Ni-Kiền, nay đây cuối cùng, Cư-Sĩ là đệ-tử của ai?

Khi ấy Cư-Sĩ liền từ chỗ ngồi đứng dậy, rồi qùy gối phải xuống đất, nhắm hướng Phật đang ở, chắp hai tay và nói:

- Tôn nhân hãy nghe những điều tôi nói.

Rồi Cư-Sĩ nói kệ rằng: “Đức Phật là đại-hùng, là bậc Thánh, là vô địch, là bất động, là đại-sĩ, là không nhiễm trần”. Cư-sĩ tán thán: “Đức Phật là bao dung, là đấng tịch mặc, là dũng mãnh, là trụ pháp, là điều-ngự, là đại-long vượt tục”. Sau chót Cư-sĩ ca tụng: “Đức Phật là siêu thế, là thanh-tịnh, là bậc vô-đẳng, là tịch-tịnh tịch-huệ, là vô thượng đáng thờ, là Thiện-thệ v. v…”, trong đó, mười lần tự xác nhận mình (Cư-sĩ) là đệ-tử Phật.

Nghe một hồi lâu, rồi Ni-kiền Thân-Tử nói:

- Cư-Sĩ, ông ca ngợi Sa-môn Cù-Đàm với ý nghĩa gì?

- Thưa Tôn-nhân, Sa-môn Cù-Đàm, Như-Lai, Thế-Tôn, bậc Vô-Sở-Trước Chính-Đẳng, Chính-Giác được vô lượng Người và Trời ca tụng, Ngài là bậc mà tôi tôn kính bậc nhất, nên tôi ca tụng sự thật.

Khi nói Pháp này: Cư-sĩ Ưu-Ba-Ly xa lià trần cấu (những ô nhiễm xấu xa của cuộc đời), phát sinh Pháp nhãn đối với các pháp.

Ngay khi ấy, Ni-kiền Thân-Tử vì sự tức giận mà ói máu ra, các đệ-tử vội vã cùng nhau dìu về; hôm sau, Ni-kiền Thân-Tử nghĩ đến sự mất thể diện nhục nhã ấy liền bỏ đi đến nước Bà-Hòa, và vì tai họa này mà chết ở nước đó..,.

Toàn Không

Ý kiến bạn đọc
09 Tháng Giêng 201504:18
Khách
Cau truyen nay noi nen su ca ngoi duc phat , nhu cau truyen cau cu si uu ba ly lam ton thuong ni kien - than tu , den oi mau ma chet ! Muc dich nay ko dung y cua duc phat !
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10214)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12091)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15186)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16510)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12120)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11380)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14148)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 24415)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10588)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
(Xem: 12394)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10247)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12229)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11526)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 11925)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 12896)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11339)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 17272)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21195)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10585)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19073)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12301)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 25827)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 14266)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 13625)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16707)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17397)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13012)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12426)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11518)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11468)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 20258)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18808)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19414)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18490)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14884)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 14950)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13859)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15413)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 14469)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 15710)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12787)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18257)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15662)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 10973)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53435)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 12869)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16387)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15257)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 15417)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15237)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15057)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 10280)
Với Phật giáo, toàn bộ nội dung tư tưởng Phật dạy là lấy con người làm gốc, gắn bó mật thiết với đời sống nhân quần xã hội...
(Xem: 20180)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 15348)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 12946)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 19843)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13166)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 28925)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11601)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
(Xem: 18182)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant