Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Hạnh Phúc Người Giữ Gìn Năm Giới

17 Tháng Tư 201509:20(Xem: 6425)
Hạnh Phúc Người Giữ Gìn Năm Giới
HẠNH PHÚC
NGƯỜI GIỮ GÌN NĂM GIỚI

Thích Nữ Giác Anh


Hạnh Phúc Người Giữ Gìn Năm GiớiVươn đến một đời sống thành cônghạnh phúc là niềm mơ ước muôn thưở và rất chánh đáng của mỗi con người. Làm người ai cũng mong một đời sống vui vẻhạnh phúc.

Hạnh phúc không đo bằng vật chất, dù vật chất là một phần tạo nên sự yên tâm cho con người. Hạnh phúc không đo bằng danh vị, dù địa vịdanh thơm một phần nào cũng góp nên cảm giác chắc chắnthoải mái. Hạnh phúc không đo bằng sức khoẻ hay sắc đẹp, dù rằng không có sức khỏe hay thiếu phần ngoại hình cũng khó mang lại một đời sống hạnh phúc trong thế giới vốn rất trọng bề ngoài này. Hạnh phúc không phải chỉ có những mối quan hệ tốt đẹp với người thân xung quanh, vì dù đã có người thân, người thương nhưng vẫn cần những phương tiện cần thiết để sống và để tiếp tục thương. Hạnh phúc càng không phải là những thành công trong đời sống vì thành công mà không có mãn nguyện cũng đồng nghĩa với thất bại (success without fulfillment is failure).

Như vậy, hạnh phúc đời thường phải chăng là do tất cả những yếu tố đó ghép lại? Nếu phải như vậy, thì giữa cuộc đời này mấy ai dám mơ một đời sống hạnh phúc? Trong Phật Pháp, đức Phật đã chỉ sẵn một phương pháp, một nghệ thuật hay còn gọi là một bí quyết để có một đời sống hạnh phúc, đó là gìn giữ năm giới. Vì thế, dù những tiêu chuẩn làm nên hạnh phúc có vẻ khó khăn như kể trên, nhưng trên thế giới này vẫn có những cuộc đời rất hạnh phúc. Chắc chắn những con người hạnh phúc đó biết sống cuộc đời dựa trên đạo đức căn bản của năm giới. Năm giới đó, người Phật tử ai ai cũng biết: Không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không dùng những chất gây mê mờ.

Qui y Tam Bảolãnh thọ năm giới là cửa ngõ cho những ai muốn bước vào thế giới tuyệt diệu của Phật giáo. Tuy vậy, bất cứ cá nhân nào dù chưa qui y Tam Bảo mà đã giữ gìn theo năm giới, cũng đảm bảomột đời sống hạnh phúc giữa thế gian đầy đau khổ này. Điều đó rất chắc chắn. Quả thật, năm giới là nền tảng, là điều tất yếu để xây dựng một xã hội an định, một đất nước giàu mạnh và an ninh, dân chúng nơi đó thật sự hưởng an lạcthái bình.

Giới đầu tiên, không sát sanh. Diễn đạt theo cách khác của không sát sanhđời sống biết trân trọngthương yêu chính bản thân và muôn loài. Ta không thể thương người nếu ta không biết thương ta. Vì không biết thương ta nên ta mới hại ta. Vì hại ta nên xã hội ngày nay mới có tỉ lệ quyên sinh cao nhất trong mọi thời đại. Và cũng chính không biết thương ta nên ta mới hại người, vì chính hại người là cái nhân cho người hại lại ta. Một cái vòng nực cười, lẫn quẫn, vô lý… nhưng mấy ai thật sự hiểu để tránh được!

Đức Phật dạy giới thứ nhất không được sát sanh, đó là cách nói ngắn gọn cho dễ nhớ. Vì làm sao đi đến không sát sanh nếu đời sống không bắt nguồn từ sự trân trọngthương yêu lẫn nhau. Giữa người và người, giữa người và muôn loài, mối quan hệ đó một khi đã mất đi sự trân trọngthương yêu, thì chắc chắn phải dẫn đến sự xâm phạm và giết hại lẫn nhau.

Tình trạng bạo hành trong gia đình, con cái bất hiếu lớn tiếng với cha mẹ, vợ chồng cãi vã dẫn đến đánh đập lẫn nhau… tất cả những kết quả đó từ sự thiếu trân trọngthương yêu bên kia. Có một gia đình nọ, mỗi khi gặp chuyện bất đồng dẫn đến cãi vả, dù cãi nhau họ cũng không lớn tiếng. Do vì thói quen tôn trọng, sợ làm tổn thương người kia đã đạt đến đỉnh cao trong từng tư cách và đã biến thành thói quen của mỗi người. Chuyện đó không phải là không có trong xã hội.

Nói rộng ra hơn nữa, một chính phủ biết trân trọngthương yêu người dân, khi lâm vào hoàn cảnh cần có chiến tranh, họ cũng chọn thời điểm ít tốn nhân mạng của bên mình và của đối phương nhất, chứ không dễ dàng hy sinh tính mạng của binh lính và dân lành hai bên bao giờ. Huống chi trong thời bình, những chính phủ biết quí trọng thương yêu dân chúng, chắc chắn sẽ xây dựng xã hội dựa trên cơ sở nhân bản, tự do và đặt quyền lợi của người dân lên trên hết.

Nước Úc là hình ảnh điển hình của một xã hội hạnh phúcan định. Người dân nơi đây sống vui hiền hòa, nhân vị luôn là tiêu chí đầu tiên. Chế độ an sinh xã hội cho người thiếu may mắn, bệnh đau, thương tật, yếu già… đứng đầu trên thế giới. Chính phủ Úc biết trân trọngthương yêu người dân. Giữa người với người, đồng loại với nhau đều xây dựng mối quan hệ trên sự trân trọng, tôn kínhthương yêu như thế, thì chắc chắn xã hội ấy thái hòa và an lạc. Và đất nước Úc quả thật là như vậy so với các nước khác trên thế giới.

Duới cái nhìn của Phật Giáo, tình thương còn lan xa hơn. Đức Phật dạy rõ, tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, có nghĩa là tất cả chúng sanh đều cần yêu thương và giúp đỡ như mình. Vì thế, hạnh nguyện ăn chay của người Phật tử bắt nguồn từ tình thương đối với chúng sanh muôn loài là như vậy. Bồ Tát đạo dựa trên Bồ Đề Tâm làm căn bản, Bồ Đề Tâm là thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh, nghĩa là trên cầu Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh. Chúng sanh không phân biệt người hay trời, thấy hay không thấy, địa ngục hay súc sanh, hóa độ chúng sanhhóa độ tất cả. Làm sao hóa độ chúng sanh cho được nếu không có sự trân trọngthương yêu chúng sanh. Thế nên, người Phật tử thọ Bồ Tát giới đều lấy việc trường chay làm pháp hành đầu tiên. Có nhiều Phật tử, tuy chưa thọ Bồ Tát giới nhưng vì lòng bi mẫn đối với chúng sanh, cũng phát nguyện trường chay. Những tấm gương đó thật tươi sáng!

Tuy nhiên, cũng không nên vì ăn chay, vì thương chúng sanh với ý tưởng cố chấp thái quá mà đánh mất hạnh phúc khi đối xử với những người thân bên mình. Cái tuyệt của Phật Pháp “tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên” là ở chỗ đó. Tuỳ theo nhân duyên mà không đánh mất lòng từ bi, vẫn giữ được hạnh nguyện từ bi nhưng không làm gẫy đổ nhân duyên. Nhạy bén, dung hòa làm sao để có thể bày tỏ được tình thương, đem đến hạnh phúc cho mọi người và mọi loài, từ người gần đến người xa, từ người thân đến người lạ, không bỏ mất một ai, đó mới là cái hay của người giữ giới.

Sống với niềm trân trọngtình thương rộng mở, cá nhân đó luôn cảm nghiệm một tâm hồn nhẹ nhàng và vui tươi. Người biết thương yêu sẽ tránh được nỗi lo lắng sợ hãi người khác trả thù mình.

Trên thế gian này, ai cũng muốn mọi người trân trọngthương yêu mình. Nhưng không có một hạnh phúc nào, tình thương chân thật nào đến từ một chiều cả. Mình thương người thì người mới thương mình, mình biết quí trọng người thì người mới quí trọng mình.

Đối với loài khác, biết sống thương yêu, không sát hại luôn đem đến một cảm thọ an bìnhyên ổn. Không sát hại chúng sanh sẽ không thọ quả báo đau đớn của giết hại. Sống vui, không sát sanh đem đến một thân thể khỏe mạnh, không ốm đau và bệnh tật. Sức khỏe tốt đẹp là điều rất cần cho hạnh phúc.

Bí quyết đầu tiên cho một đời sống hạnh phúc là như thế.

Giới thứ hai, không trộm cắp. Không trộm cắp nói cách khác là tôn trọng vật sở hữu của người khác. Ở các nước như Singapore, Malaysia… hình phạt của tội trộm cắp rất nghiêm và rất nặng, đặc biệt ít có trường hợp du di. Các cửa hàng ngoài đường, người ta có thể trưng bày mọi thứ quí giá, đắt tiền mà không lo lắng đến tệ nạn trộm cắp. Ở các quốc gia đó, nếu bị bắt vì tội trộm cắp, hình phạt có thể bị đánh đòn tại chỗ, hay chặt một ngón tay để làm gương. Nghe qua thật tàn nhẫn, nhưng quả thật, tệ nạn ăn cắp ở những nước đó rất ít xảy ra. Người dân không lo sợ chuyện bị ăn cắp dọc dường, mất đồ là có thể việc nhỏ, quan trọng hơn là cảm giác sợ sệt, bất an rất khó chịu!

Quả thật, trong gia đình nếu có một người bị tật ăn cắp thì gia đình đó chắc chắn thường hay xào xáo, khổ sở. Bản thân người có tật đó, không thể có phút giây yên vui được. Vì làm sao vui khi môi trường chung quanh không vui. Người mắc bệnh ăn cắp, lúc nào đầu óc tâm tư cũng lo toan, suy tính, làm thế này và làm thế kia… Xong việc ăn cắp rồi, cũng chưa yên ổn, phải lo lắng giấu giếm sợ người mất của nghi kỵ, không tha cho mình. Thật tội nghiệp cuộc đời của người phải đeo nghiệp ăn cắp.

Ngược lại, nếu luôn sống tôn trọng quyền sở hữu của người khác sẽ luôn đem đến một cảm thọ an ổn và nhẹ nhàng. Nhẹ nhàng vì không phải lo. An ổn vì ai cũng vui. Lại thêm gặp việc gì cũng thường được dễ dàng, trôi chảy. Sống tôn trọng sở hữu của người, được quả báo ít bị mất trộm, ít lo bị ăn cắp. Đi đâu, làm gì hay thậm chí có quên việc gì ở đâu, cũng có người lượm được đem trả lại. Ai kinh nghiệm qua rồi, mới thấy cảm giác đó thật tuyệt!

Có một câu chuyện, người thật việc thật. Chú kia là hướng dẫn viên du lịch, hôm đó dẫn đoàn đi Nhật. Làm tour guide thì lúc nào cũng phải có sẵn tiền mặt để đổi cho khách. Hôm đó chú ấy ôm gói tiền rất to, rất nặng, hơn 50,000 Úc kim, đến lúc cần phải đi toilet, chú ôm nguyên gói tiền vào toilet công cộng, khi xong việc, thân thể nhẹ nhàng đứng lên đi ra, bỏ gói tiền lại. Đến khi nhớ ra thì đã hơn nửa ngày rồi. Chú ấy tức tốc quay trở lại chỗ cũ, nhưng biết hỏi ai bây giờ. Chú chỉ biết thất vọng đến báo trạm cảnh sát gần đó nhất. Nhưng ngay lúc thất vọng nhất, ông cảnh sát đã xin xem giấy tờ passport để làm thủ tục hoàn lại gói tiền cho khổ chủ. Gói tiền được một người Nhật sau đó lượm được và đem đến gởi cho trạm cạnh sát. Chú tour guide nhận lại gói tiền trên tay, vừa mừng, vừa khâm phục tinh thần chân thật của người Nhật Bản. Chú tour guide đó là chú T. T, giám đốc công ty Triumph Tour ở Sydney này.

Tôn trọng vật sở hữu người khác là việc nghĩ xa và cấp thiết, tôn trọng ý tưởng hay công sức của người là việc gần hơn nhưng không thiếu phần quan trọng. Vì biết trân trọng ý tưởng hay công lao của người khác, đó là lối sống của một người có nhân cách cao, văn minhanh dũng. Những người như vậy, sống cuộc đời thật thảnh thơi, bạn bè con cháu quay quần, vì người đó biết khuyến khích và công nhận tiềm năng của người khác. Giữa cuộc đời bon chen và tỵ hiềm, rất cần những tấm lòng rộng lớn đẹp đẽ như thế.

Một con người, một xã hội ai ai cũng gìn giữ giới thứ hai không trộm cắp này, thì con người đó, xã hội đó làm sao không ổn định và thăng bằng được. Chắc chắn hạnh phúc sẽ mỉm cười với người luôn trân quí sở hữu của mình và của người như thế.

Giới thứ ba, không tà dâm. Không tà dâm nói cách khác là sống đời trang nghiêm, thanh tịnh và chung thủy. Đối với người tu sĩ Phật Giáo, giới này là không dâm dục. Không dâm dục vì tất cả chúng sanh đều từng là cha mẹ mình. Không dâm dụcdâm dục là cái nhân của sanh tử luân hồi. Trong vô lượng kiếp tái sinh, có khi làm thân nam, có khi làm thân nữ, có khi làm bạn, có khi là thù… Cái ái luyến dẫn đến đòi hỏi dâm dục thật ra không bắt nguồn từ cái thật thương yêu bền vững chân thật. Giới hạn của ý thức con người chỉ gói gọn trong một kiếp sống ngắn ngủi. Kiếp này thấy thương người này, nhưng có thể sẽ thương người khác vào kiếp sau. Nhưng mỗi lần thương, cứ hoang tưởng cái thương đó sẽ là duy nhất! Vì vậy, Phật dạy tất cả tu sĩ Phật Giáo nên thường xuyên quán tưởng Vô Thường, sợ phải theo nghiệp mà tái sanh nên phải nhớ rõ muốn đi trên đường chấm dứt sinh tử phải không dâm dục.

Hoàn cảnh ngày nay, dù xa cách Phật đã lâu, giữa đại dương bao la của sinh tử, rất khó tìm thấy những người gìn giữ được hạnh nguyện này. Nếu ai tìm được người đó, hãy cung kính trân trọng, vì người đó chính là ngọn đuốc soi sáng đêm dài tăm tối, là bài học quí giá trên con đường thực hành đạo giải thoát.

Tuy khó gặp, nhưng không phải là không có. Người viết được tận mắt, tận tai, tận tâm… chứng kiến một người. Người đó là vị ân nhân trên lộ trình tu đạo. Nhìn vị đó, người tu tự an ủi giữa thời mạt pháp này vẫn còn người tu, vẫn còn người hành những điều khó hành nhất. Đảnh lễ vị đó, người tu biết rằng nếu cố gắng mình cũng được dõi theo bước chân Ngài, được vẹn tròn đến ngày viên mãn.

Đối với người cư sĩ tại gia hay nói xa hơn, đối với người đang sống đời bình thường. Không tà dâm là điều quan trọng bắt buộc như giới không dâm dục của người tu sĩ. Hạnh phúc gia đình phần chính yếu dựa vào sự thủy chung của hai bên. Lỗi lầm nào cũng có thể tha thứ được, chứ một khi đã phạm vào lỗi này rồi, thì hạnh phúc gia đình thật vô cùng mong manh!

Thế gian không thiếu những con người sống đời thanh cao và chung thủy. Nhưng cũng có rất nhiều gia đình tan vỡ vì một trong hai người thiếu thủy chung. Một khi đã không còn tin cậy được nhau nữa thì dù con cái có thành đạt, sự nghiệpgiàu có, gia nhân có đông đủ… trong chốc lát cũng biến thành mây khói! Màn đêm đau khổ sẽ trùm lên cả gia đình. Từ đó, bệnh tật, tan gia bại sản cũng xảy đến. Tâm bệnh sẽ kéo theo thân bệnh là điều tất nhiên. Con cái trong gia đình, tự nhiên đang êm ấm bỗng dưng lạnh lẽo, tiêu điều. Vì cha mẹ thiếu vun bồi giới hạnh, mà cuộc đời của các con cũng thành những trẻ cô đơn từ đây. Thật tang thương biết bao!

Trong xã hội nếu có nhiều gia đình ly dị (divorce), thành phần trẻ em thiếu tình thương, thiếu giáo dục đạo đức cũng sẽ nhiều thêm. Lớp thiếu niên đó lớn lên thiếu tình thương, thiếu trách nhiệm sẽ sống ra sao… Khi đôi mắt các em trong gia đình đỗ vỡ nhìn các em được sống trong cảnh hạnh phúc mà khao khát, mà thương cảm… mà buồn rơi nước mắt !

Phật khuyên người Phật tử gìn giữ giới thứ ba này, cũng là lời khuyên cho toàn thể nhân loại. Trong số những người con thành đạt, phần lớn đều được nuôi dưỡng từ mái ấm thủy chung của cha mẹ. Cha mẹ đồng lòng thì chuyện gì cũng làm nên, khó khăn nào cũng có thể vượt qua. Các con chắc chắn sẽ nên người. Một mái ấm như thế tràn ngập tiếng cười và niềm thương yêu. Các trẻ lớn lên trong không khí ấy, phần lớn sẽ được trưởng thành như ý nguyện. Thêm một bí quyết nữa để sống đời hạnh phúcgìn giữ giới thứ ba này vậy.

Giới thứ tư là không nói dối, nói theo cách khác là sống đời chân thật. Trên thế gian này, chỉ có Phật Đà viên mãn hạnh nguyện “chân thật ý, chân thật ngữ”. Vì cứu cánh giải thoátđạt đến vô ngã, vì vô ngã nên không sợ hãi, không sợ hãi nên không cần phải dối.

Sống trong cuộc đời, ai ai cũng thích được gần người thành thật. Một tình bạn sỡ dĩ bền lâu mấy mươi năm không phai mờ là vì hai người thành thật với nhau. Sống bên cạnh người thành thật, luôn có cảm giác an ổnthoải mái. Sống với người thành thật, không phải lo toan, suy nghĩ. Dù cho có đôi lúc gây cấn, bất đồng, nhưng do thành thật mọi việc cũng suông sẽ, nhẹ nhàng. Thậm chí qua đó tình thương càng gắn kết sâu đậm hơn.

Trong Phật đạo, thành thật là cái nhân của chứng đạo. Thành thật với mình là quan trọng nhất. Không thể tu đạo được nếu không có đức tánh thành thật. Giảng kinh thuyết pháp mà tánh đức không thành thật cũng không thể giảng lâu, giảng sâu và rộng rãi được. Âu đó cũng là nhân quả nghiệp báo vậy.

Đức Phật thường ví người không thành thậttu đạo, giống như đổ nước vào bát úp, Phật Pháp không thể nào thâm nhập thấm sâu vào tâm trí người không thành thật. Vì hạt giống trí tuệ giải thoát đã bị chủng tử giả dối ngăn chặn không thể sinh sôi, phát triển.

Nói dối việc tuy nhỏ, cũng tạo thành thói quen. Lâu dần chính thói quen đó tác hại ghê gớm đến đời sống của mình. Thế gian không chấp nhận người nói dối. Phật Pháp càng không chấp nhận.

Người luôn nói thật, sống thật thường chiêu cảm mọi người thương mến, dễ gần. Nói ra lời gì cũng dễ nghe. Diễn giảng Phật Pháp rộng sâu, thu hút. Nhân chủng chân thật chiêu cảm đọc tụng kinh điển sớm mau giác ngộ, tỉnh thức hơn người. Thế gian có câu, nồi nào úp vun nấy, người ngay sẽ gặp người ngay. Đi đâu cũng có thiện thần giúp đỡ. Nói nôm na là thế, nhưng xét kỹ cách nói ấy rất khoa học, vì nhân nào quả nấy là định luật của muôn đời, trường hợp nào cũng như thế không sai khác được. Giới thứ tư không nói dối là thêm một bí quyết nữa để sống đời hạnh phúc.

Giới thứ năm, không dùng chất làm mê mờ. Chất làm mê mờ có thể là rượu, bia, là thuốc hút, ma tuý…. Giới này trong kinh điển Phật dạy là giới phụ tùy. Phụ tùygiới không bắt buộc, hoặc không chính thống là điều bắt buộc phải ngăn cấm. Tuy nhiên, nếu phạm giới này thì khó tránh gìn giữ các giới trên.

Người ta thường hay nói “rượu vào thì lời ra”, những lời tuôn ra trong cơn say thường là không chánh ngữ. Hoặc người ta thường nói “tửu sắc”, rượu thường đi chung với sắc, trong lúc mê mờ thì rất khó giữ giới không tà dâm. Say sưa, mê mờ khiến cho người dễ rơi vào trạng thái thiếu cẩn trọng, mất tư cách. Thế gian thường hay nói “đốt thuốc là đốt tiền”, nguồn lực tài chánh thay vì nuôi dưỡng hạnh phúc gia đình, sẽ biến thành những cơn say đốt cháy bản thân và những người yêu quí xung quanh.

Trong xã hội, biết bao cảnh những con người thành công, sự nghiệp cao trọng lại vướng vào cạm bẫy sa lầy của nghiện ngập ma túy. Danh vọng đang lên cao phải đứt đoạn. Cuộc đời đang như mơ phải sa cơ thất thế, vì bệnh hoạn do tiếp thu những chất làm hư người này.

Các bậc thánh trong thế gian, không ai không sáng suốt, không làm chủ tâm thức của mình. Đức Phật khuyên người Phật tử đã qui y Tam Bảo, đã bước trên con đường giải thoát, nên xa lìa những nguồn cội làm mê mờ đời sống tâm linh như thế. Giới thứnăm này là chất liệu cuối để xây dựng nên một đời sống an lành, mạnh khoẻ và hạnh phúc.

Năm giớicăn bản của người Phật tử. Năm giới là nền tảng của một xã hội. Năm giới là rào phòng thủ vững chắc xây dựng một quốc gia. Ai cũng mơ ước vươn lên một đời sống hạnh phúc, và ai cũng có khả năng gìn giữ năm giới. Đối với người Phật tử của Phật giáo Nam Truyền, mỗi đêm ít nhất họ hành trì bằng cách đọc lại ba pháp Qui Y, Quy Y Phật, qui y Pháp và qui Y Tăng. Và quan trọng hơn họ đều tụng lại năm giới. Năm giớicuộc đời của người Phật tử, là cuộc sống của người Phật tử.

Năm giới quan trọng như hơi thở, như bữa cơm chính trong ngày. Năm giới không phải là điều bắt buộc mà là niềm vui, là nguồn sống, là hạnh phúc của mỗi cá nhân. Một khi gìn giữ năm giới đã ăn sâu vào tiềm thức, biến thành thói quen cư xử trong đời sống, thì chắc rằng đời sống của người đó sẽ rất an vui và hạnh phúc.

Ai ai cũng vươn đến một đời sống hạnh phúc và ai ai cũng có thể gìn giữ thọ trì năm giới như lời Phật dạythế giới này sẽ trở thành một thế giới thật sự an bình và hòa ái.

Một mùa Phật đản nữa lại về, chúc nguyện tất cả chúng sanh đều an lạchạnh phúc trong ánh quang minh của đạo pháp.

Sydney, Kỷ niệm mùa Phật Đản PL 2556,

năm Nhâm Thìn 2012

Thích Nữ Giác Anh

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18521)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25088)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23725)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28877)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20814)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31413)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25505)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29672)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22469)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25676)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23209)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25703)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23685)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40562)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23303)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22392)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22038)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23467)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 24263)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41032)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 18942)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20440)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27689)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38061)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 24436)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22638)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26483)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 53483)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23557)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21043)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 30800)
"Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngã uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách. Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc..."
(Xem: 21018)
Từ trước đến nay, nhiều người đã giảng rộng về Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, nhưng chưa có vị nào giảng giải về chú Đại Bi. Thực vậy, rất khó giảng giải về chú Đại Bi.
(Xem: 38735)
Phật giáo được sáng lập trên cơ sự tự giác của đức Thích Ca, tuy có chỗ siêu việt các tư tưởng nhất ban, nhưng cũng có nhiều điểm thừa thụ nền tư tưởng cố hữu của Ấn Độ mà phát đạt...
(Xem: 20494)
Sự tập thành của Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) có lẽ là do ở một cuộc biến chuyển đã thành hình trong tâm trí của Phật tử đối với cuộc sống, với cõi đời, và nhất là với đức Phật.
(Xem: 20534)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 27006)
Đời nhà Đường, ngài Tam Tạng pháp sư tên là Huyền Trang tạo ra bài luận này. Ngài Huyền Trang sau khi dịch kinh luận về Duy Thức tôn, lại tạo ra Duy Thức luận...
(Xem: 28040)
Kinh Thập Thiện tuy ngắn gọn, nhưng rất thiết yếu đối với người tu tại gia cũng như người xuất gia. Cư sĩ tại gia khi thọ Tam qui và nguyện giữ Ngũ giới
(Xem: 37081)
Đạo Phật là đạo giác ngộ, toàn bộ giáo lý của Phật dạy đều nhằm đánh thức con người sớm được giác ngộ. Mê lầm là cội nguồn đau khổ, chỉ có giác ngộ mới cứu được mọi khổ đau của chúng sanh.
(Xem: 55113)
Hệ Bát-nhã là một bộ phận trọng yếu trong Tam tạng Thánh giáo, cánh cửa thật tướng mở toang từ đó, chân trời Tánh Không, kho tàng pháp bảo cũng toàn bày nơi đó...
(Xem: 37931)
Ngày nay tai nạn binh lửa lan tràn khắp thế giới, đó là do nghiệp sát của chúng sanh chiêu cảm. Vì thế nên cổ đức đã bảo: "Tất cả chúng sanh không nghiệp sát. Lo gì thế giới động đao binh!"
(Xem: 14487)
Đại Bát Niết Bàn Kinh Trực Chỉ Đề Cương - HT Thích Từ Thông biên soạn
(Xem: 10613)
Tác giả: Bồ tát Long Thọ (Nàgàrjuna) Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập Việt dịch: Thích Viên Lý
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant