Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tam Qui Ngũ Giới

27 Tháng Tư 201509:00(Xem: 6425)
Tam Qui Ngũ Giới
TAM QUI NGŨ GIỚI

HT Hư Vân
Dịch Việt: Kiến Châu - Như Thủy - Hạnh Đoan


Tam Qui Ngũ GiớiTâm chúng sinh và Phật vốn không khác. Tất cả đều do tâm tạo. Mười cõi cũng do tâm tạo. Nếu theo vọng niệm điên đảo thì ra sáu cõi phàm, còn không chạy theo thì sẽ vào bốn cõi thánh. Thường quán sát sẽ thấy thánh hay phàm đều do tâm uế hay tịnh mà hiện. Tâm phàm phu xấu uế khiến hiện ra sáu đường thiện ác tội phước. Bốn cõi thánh do tâm thanh tịnh tạo thành nên uy đức tự tại quang minh, phước tướng dung mạo từ bi.

Khổ hay vui đều do tâm. Quý vị tự tạo nghiệp rồi thọ báo. Muốn biết ở cõi thánh hay phàm nhìn lại lòng mình sẽ rõ.

Phàm phu ngu mê chẳng hiểu tất cả do tâm tạo nên gặp nghịch cảnh thì trách trời oán người, gặp thuận cảnh thì kiêu căng, dương dương tự đắc. Hoặc cả đời làm thiện mà chiêu quả ác nên khởi tâm nghi, hay làm ác lại được hưởng quả lành nên hủy báng nhân quả.

Phải hiểu lý nhân quả rất thâm sâu. Sau khi ta gieo nhân, quả nào chín mùi thì tới trước. Đời nay tuy mình tạo nghiệp lành mà bị chiêu quả xấu thì phải hiểu là nhân ác trong quá khứ đã hội đủ duyên, đã đến lúc chín mùi nên quả trổ trước thì mình phải lãnh thọ. Còn nhân lành đời nay gieo do quả chưa chín nên hiện tại chưa được hưởng. Nếu tin sâu, hiểu rõ điều này thì sẽ không khởi tâm nghi. Từ vô thủy mê muội ta tạo biết bao tội nghiệp oan khiên sâu nặng, bây giờ quả chín tới lúc nó trổ thì ta phải nhận không thể trốn tránh. Kinh Lăng Nghiêm dạy: “Tất cả chúng sinh sinh tử triền miên, vì không biết chân tâm thường trụ thể tánh tịnh sáng, do sống với vọng tưởng nên mới bị luân hồi.”

Muốn thoát khổ ta phải làm sao? Không muốn thọ báo trong sinh tử thì phải tịnh hóa vọng tưởng. Vọng tưởng được tịnh rồi thì luân hồi dừng. Vì vậy tâm mê thì gọi chúng sinh, tâm giác gọi là Phật. Phật và chúng sinh khác nhau ở mê và ngộ. Phải biết tâm tánh diệu minh sáng suốt này ai cũng có. Phàm phu tuy có nhưng giống như vàng còn nằm trong mỏ bị đất cát phiền não bao phủ, nên không thể dùng được. Còn Phật do nhiều kiếp tu hành, cát đá lậu hoặc đã được lọc sạch thuần là vàng ròng tinh khiết nên đại dụng vô cùng, vì vậy mà được gọi là Thế Tôn, đấng Giác ngộ viên minh, vượt khỏi chướng ngại. Ta muốn tu thành Phật, trước phải xem nhân phát tâm của mình ra sao và phải trừ tận gốc phiền não. Gốc phiền não nếu sạch thì Phật tánh hiện. Nếu nhân tu không chánh thì phải chiêu quả báo cong vạy.

Bước tập tu đầu tiên là phải Qui y Tam bảo. Các điều ác không làm, chỉ làm toàn điều thiện. Rồi từ đó tu gia, trị quốc, bình thiên hạ. Nếu không gieo nhân khổ thì quả khổ sẽ tiêu, vượt thoát ba đường khổ, siêu thăng cõi lành, nhập Phật thừa. Đây là nền tảng cho người tu Phật. Tam qui Ngũ giới là bờ bến của người đời, là diệu pháp ban vui cứu khổ. Tam quiquy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng.

Qui y Phật: Phật là đấng giác ngộ hằng an lạc, xa rời khổ. Ngài hướng dẫn chúng sinh thoát mê về giác, vì thế ta nên quy y Ngài, hành giáo pháp Ngài để thoát khổ. Phật Thích Cagiáo chủ cõi Ta bà nên bước đầu tiên là phải quy y Phật.

Qui y Pháp: Tức nương theo pháp môn Phật truyền dạy, ba đời chư Phật đều hành theo pháp này mà thành tựu vô lượng công đức thanh tịnh. Nay ta muốn qui về nguồn cội, tịnh hóa thân tâm, dẹp trừ cấu uế thì phải qui y Pháp.

Qui y Tăng: Chánh pháp phải có người gánh vác hoằng truyền, xả thân vì đạo, xiển dương Phật pháp, dùng văn, tu, tư chứng quả thành Phật. Nếu Phật pháp không người thuyết giảng thì khó lãnh hội. Phật pháp thâm sâu khó hiểu phải nhờ chư Tăng giảng giải, nên ân đức các ngài rất lớn vì vậy phải qui y Tăng.

Tam bảo có ba: Nhất thể Tam bảo, Biệt tướng Tam bảoTrụ trì Tam bảo.

Nhất thể Tam bảo: là thể của nhất tâm. Phật là đấng giác ngộ, một niệm linh minh, tâm sáng suốttự tánh nhất thể Phật bảo. Phật đầy đủ ba đức: Phật, Pháp, Tăng.

Pháp còn nghĩa là quĩ trì, là gìn giữ qui tắc khuôn phép. Tự tánh nhất thể Tam bảo có thể gìn giữ khuôn phép của thế gianxuất thế gian.

Tăng là một đoàn thể tu sĩ hòa hợp. Tâm giác có khả năng hành trì tất cả pháp. Tâm là pháp, muôn pháp đều qui về tâm. Tâm đầy đủ Phật Pháp Tăng nên có tên là Nhất thể tam bảo. Chúng sinh mê tâm hướng ngoại tìm cầu nên trôi lăn trong sinh tử. Phật nhờ giác tâm này nên chứng được bồ đề.

Biệt tướng Tam bảo: Vì danh tướng của Phật pháp tăng không đồng. Phật là giác ngộ bản tâm, thấu đạt thật tướng, gọi là tự giác. Dùng pháp tu chứng này giác ngộ cho tất cả chúng sinh, gọi là giác tha. Tự giác giác tha đều đầy đủ, gọi là giác hạnh viên mãn. Ba đức này tròn đầy nên thành Phật. Đây là Biệt tướng Phật bảo.

Phật tùy cơ thuyết pháp kinh, luật, luận khác nhau là Biệt tướng Pháp bảo. Theo giáo lý tu hành trình tự tu chứng không đồng, gọi là Biệt tướng Tăng bảo.

Trụ trì Tam bảo: Sau khi Phật nhập diệt, tượng Phật dù được làm bằng xi măng, gỗ, thạch cao hay tranh vẽ ... đều là ruộng phước cho chúng sinh. Nếu biết cung kính hình tượng như Phật con tại thế thì công đức không thể nói hết. Vì trụ trì không tuyệt mất nên gọi là Trụ trì Phật bảo.

Tất cả kinh điển chép lời dạy của Phật được lưu truyền giáo hóa chúng sinh không ngừng, khiến chúng sinh hành trình theo đó, ly khổ được vui, vì vậy nên gọi là Trụ trì pháp bảo.

Người xuất gia cạo tóc, mặc pháp phục Như Lai, xiển dương đạo pháp, hóa độ chúng sinh, nối tiếp hạt giống Phật, là Trụ trì Tăng bảo.

Trụ trì, Biệt tướngNhất thể ... đều được gọi là bảo (quí báu) vì không bị pháp thế gian làm tổn hại hay phiền não làm nhiễm ô. Bảy báu thế gian như vàng, bạc, lưu ly, san hô, xà cừ, mã não, hổ phách được coi trọng, song hưởng dụng một thời gian rồi cũng hết, vì chúng chỉ giúp cho lúc sống chứ không thể độ tự. Thế nhưng Tam bảo có thể giúp chấm dứt vô biên sinh tử, khiến người xa lìa khổ não rầu lo, được hạnh phúc an vui mãi.

Tam bảo. tuy gọi nhiều tên nhưng xuất pháp từ nhất tâm, vì tất cả do tâm tạo. Tâm nhiếp thọ tất cả, vốn viên mãn đầy đủ giống như viên ngọc như ý. Vì vậy mới nói là Tự qui y Phật, Tự qui y pháp, Tự qui y tăng. Chứ không hề nói qui y tha, là tựa nương bên ngoài.

Qui, nghĩa là xoay vào, là quay về nguồn cội. Sáu căn chúng sinh xuất phát từ một tâm, vì bỏ gốc chạy theo sáu trần, nên phải thu nhiếp sáu căn quay về tâm, nên gọi là qui mạng. Vì vậy qui y cũng có nghĩa là qui mạng.

Y, là y theo, nương theo. Do chúng sinh chạy theo âm thanh sắc tướng nên bị trôi lăn trong biển khổ không có chỗ nương. Nhờ chọn Tam bảo làm thầy nên có thể thoát u mê, phát tâm bồ đề, hành đạo tu giác, cho đến khi thành Phật.

Qui y Tam bảo xong thì phải y theo pháp mà tu hành để thoát khỏi sinh tử, thoát khỏi phiền não trói buộc của thế gian. Bước nhập môn đầu tiên, ngoài năm giới cấm ra không còn phương pháp trợ giúp nào khác. Do vậy mới có câu: «Nếu không giữ năm giới thì đường sinh lên làm trời người cũng bị cắt đứt»

Do vậy mà giới là nền tảng quan trọng giúp tạo điều thiện, phế bỏ hạnh ác, là cội nguồn của đức hạnh, là phương cách giúp người ta siêu phàm nhập thánh. Nhân giới sinh định. Từ định sinh huệ. Nhờ giới, định, huệ mà thành Chánh giác. Nên nói: «Giới là cội gốc của đạo bồ đề vô thượng.» Phật phương tiện khai mở pháp môn. Đầu tiên thuyết Tam qui y, tiếp đến dạy Ngũ giới, chế ra giới Đại thừa, Tiểu thừa v.v... Do căn cơtâm tánh chúng sinh không đồng nên giới có từ cạn đến sâu, từ thô đến tế nhưng cứu cánh thì không khác.

Năm giới: không sát, đạo, dâm, vọng, không dùng các chất gây nghiện làm thần trí hôn mê. Năm giới này là căn bản, bắt buộc đệ tử Phật phải học và tuân giữ khi nhập môn. Đây là cửa ngõ đưa đến thành tựu. Năm giới này là điều phải học, phải hành, phải truyền bá. Nam nữ cư sĩ đều phải hành trì. Năm giới này tạo nên vô lượng công đức. Vì vậybước đầu tiên người sơ cơ học Phật phải qui ythọ trì ngũ giới. Nền tảng này không thể thiếu.

Năm giới này nhà Nho gọi là Ngũ thường: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Nghĩa là, người nhân từ thì không giết hại. Người nghĩa khí thì không trộm cắp. Người có lễ nghĩa thì không tà dâm. Người trí không dùng chất say gây nghiện. Người tín không nói láo.

Người Phật tử giữ tròn năm giới thì không muốn hoàn toàn cũng thành người hoàn toàn, không mong thành nhân đức cũng thành nhân đức. Không cầu lễ nghĩalễ nghĩa tự thành, tâm trí tự nhiên sáng suốt, sống có uy tín. Nhân phẩm trở nên tôn quý, được người trọng vọng ái kính.

Giới thứ nhất là không sát sinh :

Mạnh Tử nói: « Nghe tiếng vật kêu la chẳng nỡ ăn. » Mạnh Tử còn nói thế, chúng tađệ tử Phật sao lại mê mờ, khởi tâm giết hại chiêu lấy quả khổ vô biên về sau? Do vậy mà Phật chế giới không sát sinh cốt để ngăn khổ cho chúng ta. Các đệ tử Phật nếu muốn hành đạo, bước đầu tiên phải nuôi dưỡng lòng từ, không được sát sinh. Nếu giữ giới này thì không còn bị luân hồi đền mạng. Ngoài việc ỷ mạnh hiếp yếu, tham mùi vị hoặc vì tiền tài kiếm sống mà sát sinh, giết hại phát xuất từ ác tâm. Nếu ta tạo nghiệp sát, cứ mạnh tay giết chóc thì tự kết oán cừu. Kinh Lăng Nghiêm nói: «Người chết thành dê. Dê chết thành người. Do ăn nuốt nhau mà quả báo vần xoay, ác nghiệp dẫy đầy, chiêu quả xấu không có ngày dứt.» Giết người phải đền mạng, giết súc vật cũng phải đền mạng.

Quý vị hãy nhớ tích xưa trong sử, ngày mà vua Tỳ Lưu Ly giết sạch dòng họ Thích Ca, đầu đức Phật cũng bị nhức thống thiết. Nguyên nhân từ đâu? Đó là vào kiếp quá khứ xa xưa, khi dòng họ Thích là dân làng chài, và đức Phật Thích Ca là một cậu bé trong làng chài đó. Khi dân chài bắt được con cá lớn sắp giết thịt ăn, cậu bé tiền thân Phật đã đùa nghịch lấy cây đánh vào đầu nó ba cái. Con cá lớn đó chính là tiền thân vua Lưu Ly. Khi sinh làm người đã giết sạch dòng họ Thích Ca, còn đức Phật cũng bị quả báo nhẹ là bị nhức đầu.

Chuyện này không thể không tin - báo ứng rất rõ ràngđáng sợ. Quý vị nên quán sát cho kỹ. Vì lý do này mà Phật cấm sát sinh.

Không những Phật từ bi với con người mà còn thương cả đến loài trùng kiến nhỏ nhoi. Bởi vì trong cái nhìn của Phật, tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật. Kinh Phạm Võng nói: «Tất cả nam nhân là cha. Tất cả nữ nhân là mẹ. Chúng sinh trong sáu đường trầm luân lưu chuyển từng làm cha mẹ quyến thuộc của nhau.» Vì vậy mà giết hại chúng sinh cũng xem như là giết hại cha mẹ.

Người đời không biết, không tin thuyết này nên mặc tình mặc sức giết hại, ăn nuốt lẫn nhau. Do vậy Thế Tôn mới chế giới cấm giết, bởi tất cả sinh linh đều có Phật tính. Quá khứ họ từng là cha mẹ chúng ta, tương lai cũng có khả năng thành Phật, sao ta lại dám giết hại? Chúng ta không nên có tâm giết hại.

Hiện nay nhân loại giao tranh đã chế đủ thứ vũ khí giết người, sát phạt nhau bất kể là trên không, đất bằng hay dưới nước. Lòng người ngày càng hiểm ác, đường đời ngày càng đảo điên. Chuyện tương sát tương tàn này đến bao giờ mới dứt. Nếu không tìm cách cứu vãn thì thế gian này sẽ thành biển khổ sục sôi lòng thù hận. Người trí nhìn không khỏi đau lòng. Quý vị phải cố gắng gìn giữ hòa bình, nổ lực cứu vãn nhân tâm mê muội, giúp mọi người trở về nẻo chính. Hãy trọng lòng nhân chứ đừng trọng vũ lực. Đừng tham đắm mùi vị ngon hay vì lợi mà sát hại. Đừng bao giờ khởi tâm sát. Nghiệp sát nếu ngưng thì kiếp họai sẽ dừng. Dưỡng lòng nhân là hành đúng đạo lý.

Quý vị cần quán sát cho kỹ, phải tin sâu nhân quả, phải hiểu nhân quả không sai như bóng theo hình. Nếu tin sâu nhân quả, thì trong lòng dù chưa sửa đổi, hạnh thiện cũng đã thành, vì mỗi khi hành động nghĩ suy, quý vị không thể không cân nhắc cho nên hành vi tự nhiên theo thiện.

Quý vị nên biêt những tai họa đời này là do nhân ác trong quá khứ quý vị đã gieo. Các tai nạn như binh đao, chiến tranh, lụt lội, hỏa tai, địa chân v.v... đều do quả đã chín mùi. Tới lúc trổ thì quý vị phải nhận. Nhân thiện chiêu quả thiện. Bằng chứng trong hai trận thế giới chiến vừa qua, chỉ có Hoa kiều ở Úc là được bình an. Vì sao? Vì trong tiền kiếp, họ không tạo nghiệp sát. Những ai thường gặp tai nạn là do ác nghiệp, biệt nghiệp chiêu cảm. Quý vị là Phật tử thì phải hiểu thấu suốt lý nhân quả khó nghĩ lường này. Nếu tin sâu nhân quả quý vị sẽ không dám giết hại. Nếu người trên thế gian này chịu giữ giới không giết hại thì tất cả vũ khí đều hóa ra vô dụng.

Giới đầu tiên, Phật cấm không sát sinh là vì muốn mọi ngườilòng nhân, sống biết thương người, hộ vật, tự giải khổ cho mình và người, ai ai cũng được sống trong cảnh an lạc.

Giới thứ hai là không trộm cắp:

Phật dạy ngay cả cây kim cọng cỏ, người không cho chớ lấy. Song chúng sinh chỉ thấy lợi trước mắt. Do tham tâm không biết đủ. Tội nặng nhất là trộm cướp và lạm dụng của mười phương tăng chúng. Ngay cả vật dụng của cha mẹ, sư trưởng không cho, chớ nên lấy, nếu lấy cũng là phạm tội nặng.

Nếu quý vị thâm tín nhân quả, chẳng phạm mảy tơ thì giới hạnh tự thành. Ai cũng được vậy thì đêm ngủ chẳng cần đóng cửa.

Giới thứ ba là không tà hạnh:

Người xuất gia thì ly dục hẳn, còn người tại gia thì không được tà dâm. Đối với vợ, chồng người nên giữ lòng ngay thẳng đoan chính. Do nhân duyên ái dụcchúng sinh trăm kiếp ngàn đời bị trầm luân. Cũng từ ái dục mà phát sinh trộm cắp, giết hại. Thường giữ giới không tà dục tự nhiên uy nghi, đức hạnh tự thành lập, gia đình vui hòa thủy chung.

Giới thứ tư là không nói láo:

Người nói láo thường vì hư danh lợi dưỡng. Cũng không được dối xưng mình chứng thánh. Đây là tội đại vọng ngữ, sẽ bị đọa địa ngục Vô gián. Người học đạo phải cẩn trọng. Giữ giới này thì được người kính và có uy tín lớn, không cầu danhdanh thơm tự đến, không cầu lợi mà phúc tự về.

Giới thứ năm là không uống rượu:

Bao gồm không dùng những chất có tính gây say, nghiện hay làm thần trí hôn mê. Người buôn bán các vật cấm này cũng bị quả báo 500 đời không có tay. Phạm giới này thần trí mê mờ ắt sẽ làm nhiều điều bại hoại mất tư cách, không những phạm thêm nhiều tội ác mà còn gieo nhân ngu si vô số kiếp về sau. Do vậy mà Phật cấm.

Nếu quý vị khéo điều tâm, không theo vọng tưởng, thì ác nghiệp chẳng sinh. Nhiếp tâm là giới. Nhờ giới sinh định. Do định có huệ. Quý vị khéo điều tâm thì tham sân si chẳng khởi, ác nghiệp chẳng còn tạo. Tự mình nhiếp tâm làm muôn hạnh lành, nhờ vậy công phu tăng tiến, bản thân được an lạc và còn gieo ảnh hưởng đến người khác, cảm hóa họ thực hành theo.

Nhờ hồng ân Phật, quý vị được qui y Tam bảo, được thọ năm giới cắm, giải khổ cho mình. Ân chư Phật lớn lao vô ngần, dẫu nát thân này, quý vị cũng chưa đền trong muôn một.

Nghe tôi giảng về Tam qui Ngũ giới rồi thì quý vị hãy thực hành. Hãy nghĩ xem, một thôn làng nếu trăm gia đình có được mười người giữ ngũ giới thì mười người này được an lạc. Trăm người tu thập thiện thì trăm người sống tương kính vui hòa. Nếu nhà nhà y theo pháp Phật tu hành thì nhà nhà đều nhân từ sống an.

Hành một việc lành là loại được một việc ác, tiêu đi một hình phạt. Cả nước thực hành điều lành thì cả nước an, được vậy thì vị nguyên thủ quốc gia không cần nhọc nhằn lao tâm trị nước mà vẫn có thể ngồi yên, toại hưởng thái bình. Thế nên, quý vị thọ trì năm giới không những làm theo lời Phật dạy mà còn giúp ích nhiều cho đất nước mình. Bản thân quý vị chẳng những là một công dân không phạm pháp mà còn đóng góp đức hạnh duy trì sự thịnh trị, bình an cho nước nhà .

Đây là những điều kiện căn bản , bắt buộc người Phật tử phải tuân theo, xin quý vị hãy kiên tâm hành trì, không những huân vào cho mình tập khí tốt, khiến hạt giống Phật được trưởng dưỡng càng sâu. Khi hạnh giải tương ưng đầy đủ thì quý vị đến giác ngạn.

Cầu mong quý vị từ đây về sau luôn có chánh kiến, chánh ngữ, chánh hạnh, chánh tư duy, hằng tinh tấn tu hành, không những quý vị tự tu mà còn khuyên bảo người khác tu để mình và người cùng dứt khổ. Được vậy thì ách nạn nào mà chẳng tiêu trừ. Thọ tam qui ngũ giới tức là quý vị chẳng làm điều ác, luôn hành điều lành. Khéo điều phục tâm. Được vậy thì quý vị đã tạo công đức vô lượng, quả Phật nhất định có kỳ.

(Thiền Viện Thường Chiếu)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18514)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25070)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23718)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28861)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20803)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31407)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25492)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29646)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22439)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25664)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23204)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25694)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23673)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40553)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23296)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22378)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22032)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23453)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 24257)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41023)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 18915)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20426)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27681)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38048)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 24422)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22625)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26473)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 53455)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23535)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21023)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 30786)
"Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngã uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách. Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc..."
(Xem: 20999)
Từ trước đến nay, nhiều người đã giảng rộng về Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, nhưng chưa có vị nào giảng giải về chú Đại Bi. Thực vậy, rất khó giảng giải về chú Đại Bi.
(Xem: 38709)
Phật giáo được sáng lập trên cơ sự tự giác của đức Thích Ca, tuy có chỗ siêu việt các tư tưởng nhất ban, nhưng cũng có nhiều điểm thừa thụ nền tư tưởng cố hữu của Ấn Độ mà phát đạt...
(Xem: 20482)
Sự tập thành của Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) có lẽ là do ở một cuộc biến chuyển đã thành hình trong tâm trí của Phật tử đối với cuộc sống, với cõi đời, và nhất là với đức Phật.
(Xem: 20515)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 26991)
Đời nhà Đường, ngài Tam Tạng pháp sư tên là Huyền Trang tạo ra bài luận này. Ngài Huyền Trang sau khi dịch kinh luận về Duy Thức tôn, lại tạo ra Duy Thức luận...
(Xem: 28034)
Kinh Thập Thiện tuy ngắn gọn, nhưng rất thiết yếu đối với người tu tại gia cũng như người xuất gia. Cư sĩ tại gia khi thọ Tam qui và nguyện giữ Ngũ giới
(Xem: 37051)
Đạo Phật là đạo giác ngộ, toàn bộ giáo lý của Phật dạy đều nhằm đánh thức con người sớm được giác ngộ. Mê lầm là cội nguồn đau khổ, chỉ có giác ngộ mới cứu được mọi khổ đau của chúng sanh.
(Xem: 55108)
Hệ Bát-nhã là một bộ phận trọng yếu trong Tam tạng Thánh giáo, cánh cửa thật tướng mở toang từ đó, chân trời Tánh Không, kho tàng pháp bảo cũng toàn bày nơi đó...
(Xem: 37913)
Ngày nay tai nạn binh lửa lan tràn khắp thế giới, đó là do nghiệp sát của chúng sanh chiêu cảm. Vì thế nên cổ đức đã bảo: "Tất cả chúng sanh không nghiệp sát. Lo gì thế giới động đao binh!"
(Xem: 14475)
Đại Bát Niết Bàn Kinh Trực Chỉ Đề Cương - HT Thích Từ Thông biên soạn
(Xem: 10602)
Tác giả: Bồ tát Long Thọ (Nàgàrjuna) Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập Việt dịch: Thích Viên Lý
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant