Nguyên tác của Sasha Maggio Việt dịch: Hoa Đàm Translations Group
Những người mới bắt đầu tìm hiểuPhật giáo để theo thường bị bối rối trước hai câu hỏi quen thuộc sau đây:
- Đạo Phật có nhiều tông phái, vậy các tông phái có bằng hoặc giống nhau không?
- Làm sao chọn lựa một tông phái để theo?
Hai câu hỏi này tuy hai mà là một.
Bài này có tham vọngtrả lời hai câu hỏi trên.
Theo tâm lý và kinh nghiệm, việc chọn lựa một tông phái để theo, phần lớn tùy thuộc vào sở thích và môi trường sinh sống của từng người. Tuy nhiên, trong trường hợp không biết phải lựa chọn phái nào cho thích hợp với hoàn cảnh và bản ngã, việc tìm hiểu một số những điểm chính yếu về tương đồng (giống nhau) và dị biệt (khác nhau) giữa các tông phái, sẽ giúp quí bạn có cái nhìn rõ ràng và chính xác hơn khi phải quyết định.
Có hai hoặc ba cách để phân loại Phật giáo một cách khách quan và được công nhậnrộng rãi.
- Nếu phân loại theo hai phái thì một Phật tử có thể nằm trong hai môn phái sau: Theravada (Phật giáo nguyên thủy hay Tiểu Thừa hoặc Nam Tông) hoặc Mayhayana (Phật giáoĐại Thừa hoặc Bắc Tông).
- Nếu phân loại theo vùng thì có Phật giáo nguyên thủyNam Tông, Phật giáo Đông Á (vùng Đông Nam Á Châu) và Phật giáo Tây Tạng. Tuy nhiên, ngoài những hệ phái đó ra, trong lịch sửPhật giáo còn nhiều môn phái khác, nhưng ngày nay không còn nữa.
Sự phân loại này chỉ được áp dụng khi một Phật tử nào đó được hỏi theo môn phái nào thì có chứng cớ để trả lời, không nhất thiết để phân biệt.
Vậy thì tất cả các phái đều giống nhau hoặc bằng nhau?
Câu trả lời vừa đúng vừa không.
- Đúng, nếu mọi Phật tử chấp nhật Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là Đấng Giác Ngộ và là Tôn Sư.
- Đúng, theo cái nghĩa mọi Phật tử đều theo Bát Chánh Đạo (8 con được tu tập để đạt giác ngộ), chấp nhậnTứ Diệu Đế (4 chân lý cao siêu nền tảng của đạo Phật) và tin vào Trung Đạo (Trung Dung) là con Đườngtu đạo ở giữa hai thái cực, chống những gì thái quá như tu trìkhổ hạnh hay cuộc sống xa hoa đồi trụy.
- Và cũng đúng theo nghĩa: cả hai thành viên của Tăng đoàn và Phật tử đều tu tậpđạt đếnGiác Ngộ là mục tiêucứu cánh bằng vào việc học hỏi và thực hànhgiáo lý nhà Phật.
Thế còn không giống nhau thì sao?
Câu trả lời nằm ở trong bối cảnh lịch sử và địa lý
- Theravada (Phật giáo nguyên thủy) có thể diễn giải như là “học thuyết cổ đại,” một môn phái xưa nhất của Phật giáo vẫn còn tồn tại tới ngày này. Tất cả phương phápthực hànhPhật giáo nguyên thủy đều căn cứ vàobộ giáo lý chữ Pali (Phạn) và các tài liệu lên hệ. Môn pháiPhật giáo này hoạt động mạnh tại Tích lan, Thái Lan và Cambodia. Nhưng Phật giáo nguyên thủy cũng hoạt động tại Việt Nam, Trung quốc, Mã Lai, Bangladesh, Hoa Kỳ và một số quốc giaTây phương.
- Phật giáoĐại Thừa tại Ấn Độsuy tàn theo thời gian, nhưng vẫn còn hoạt động tại Sri Lanca (Tích Lan) và nhiều vùng tại Đông Nam Á châu. Phật giáoĐại thừa còn gọi là Bắc Tông, nói chung chấp nhận các kinh điển Đại Thừa như kinh Pháp Hoa và Kinh Tâm Vô Lượng. Đây là dòng Phật giáo chính hoạt động mạnh tại Trung Quốc, Nhật Bản, Đại Hàn, Singapore và Việt Nam. Tại Nhật, Phật giáoĐại Thừa bị phân chia thành một số môn phái nhỏ như Nichiren (Nhật Liên), Pure Land, Shingon (Chân Ngôn), Tendai (Thiên Thai) và Thiền Zen. Giữa những môn pháiPhật giáo Nhật Bản có những dị biệt nằm ở chỗ con đườngtu đạo dẫn đến Giác Ngộ (thực hành) và lấy Bồ tát làm trung tâm. Ví dụ, phái thiền Soto Zen tuân giữ đạo lý Kannon như là trung tâm điểm giáo lý Nhà Phật đặt nặng về lòng thương xót và từ bi. Trong khi đó, Phật giáo Pure Land áp dụng đường tu tập theo giáo lý Amida là Bồ Tát chính.
- Tất cả Phật tửĐại Hàn đều theo phái Phật giáo Thiền Đại Hàn được biết như là Son or Chogye.
- Phật giáo Tây Tạng, là một chi nhánh của Đại ThừaBắc Tông, cũng được phân loại là Kim Cương thừa (Vajrayana). Phái này sẽ dùng con đườngthực hành đạo theo phái Mật tông, một loại kinh điển, làm phương cách đạt Giác Ngộ. Vị Đạt Lai Lạt Ma )Tenzin Gyasto) từng nói về thực hành theo phái Mật tông như sau: “Mật tông chỉ dành cho những người có lòng nhân ái vô biên đến nỗi họ không thể nào bỏ phí một thời gianvô ích trong con đườngtu Phật. Họ muốn mau chóng trở thành một nguồn tối thượng để cứu nhân độ thế.”
Làm sao chọn một môn pháiPhật giáo để theo cho thích hợp với hoàn cảnh và sở thích?
Trả lời câu hỏi này không thể nào đúng hay thỏa mãntuyệt đối được. Một khi thông tin về một tông phái hay nhiều tông phái đã được bạn thấu triệt thì việc theo hay không tùy thuộc vào sở thíchcá nhân. Xin đưa ra một số bối cảnh để trả lời câu hỏi này.
- Nếu bạn đến với Phật giáo với hành trang thấm nhuầnlịch sử và văn hóaTây Tạng thì bạn sẽ bị lôi cuốn hòa nhập với văn hóa này. Phật giáo Tây Tạng là cách chọn lựa sở đắc hơn cả.
- Trong khi đó, có người đã học hỏivăn hóaNhật Bản thì lại thích phái Phật giáo Thần tông.
- Quan hệ tiếp xúc cũng là một yếu tốáp lực cho quyết định chọn phái để theo. Nếu một khu vực dân cư có đông người Thái hay người Cam Bốt, còn người Nhật chiếm thiểu số, thì một người muốn theo đạo Phật có khuynh hương tham dự các đền chủa của người Thái hay người Cam Bốt hoặc các phái khác trong khu vực của họ.
Nếu không có môn phái hay chùa, tự việnPhật giáo thì sao?
Nếu động cơ thúc đẩy bạn trở thành một Phật tử bất cứ giá nào, thì không có gì ngăn cản bạn đến một vị sư xin quy y. Trong khu mình ở, không có chùa chiền, trường học hay tông phái thì sao? Hãy dùng mọi phương tiện có trong tay hay tại môi trường xung quanh như thư viện, tiệm sách, Internet, bạn bè là Phật tử để tìm hiểu và tu tập.
Nếu Bồ Tát để cho một người có lòng tu tập mà bị cản trở không thể nào vượt qua thì đạo Phật đã không tồn tại đến ngày nay.
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thểvật lý và tâm thức.
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữugiả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thường là chánh niệm. Dùng hơi thởchánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóathân thể, lời nói
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lực và tha lực. Tự lực nói đến phương phápchúng tathực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâmchúng ta.
Khi tuệ giácnội quán của chúng ta vào trong bản chấttối hậu của thực tại và Tính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnhchân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
Tự tánhgiả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trùTánh không. Tự tánhgiả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác độngthời gian thì có sanh có diệt...
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
Chết là một phần của đời sốngchúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng tatốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
Sau khi Như Laidiệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trịtâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫn và trí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
Kinh này có tám phương pháptu hànhthành Phật, mà bậc Đại nhângánh vácsự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độchúng sinhcần phảigiác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Nếu chúng ta thẩm tra thế giớitinh thần của chúng ta, chúng ta thấy rằng có những nhân tố tinh thần đa dạng có cả những khía cạnh tích cực và tiêu cực.
Càng trau dồi, Giác Trí càng khai mở thì Pháp Phật càng sáng tỏ hơn; giống như càng nghiên cứuhọc hỏi thì kiến thức và tư tưởng càng phong phú và sâu sắc hơn.
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sống là thời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sốngtiếp theo.
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
Để dễ tiếp cận, chúng ta sẽ nêu câu hỏi cụ thể, rằng “Ai đã vượt qua cả thiện và ác?” và các trích dẫn nơi đây sẽ chỉ tập trung riêng vào Kinh Pháp Cú (Dhammapada).
Theo Trung Quán, duyên khởi không có nghĩa là nguyên lý của một tiến trình ngắn ngủi, mà là nguyên lý về sự lệ thuộc vào nhau một cách thiết yếu của các sự vật.
Nói khái quát, Phật giáoquan niệmthực tại không ngừng biến chuyển và bác bỏ khái niệm bền vữnglâu dài. Tất cả là một dòng sát na sinh diệtliên tục, tất cả là lưu chú...
Với hy vọng và một cảm giáchạnh phúc, thân thểchúng tacảm thấyan lạc. Vậy nên hy vọng và hạnh phúc là những nhân tố tích cực cho sức khỏe của chúng ta.
Sodpa hay Nhẫn nhục ba la mật là một trong những pháp thực hành Bồ tát đạo quan trọng nhất. Có những hoàn cảnhđặc biệt bạn cần phảithực hành hạnh Sodpa.
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
Tâm kinh Bát-nhã là một bản kinhtrọng yếu trong nhà Thiền, bản kinh này nói về “tánh không” của các pháp. Người tu Phật phải mở được cánh cửa trí tuệ...
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đếnchính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tậnbiện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
Ở một chừng nào đó có thể hiểu, đi theocon đường của Phật, noi theo công hạnh của Phật, để cuối cùng được kết quả như Phật… thì được xem là đang làm việc Phật.
Bổn phận của người Xuất Gia là tu đạo, truyền đạo và duy trìPhật giáo, cho đếnthực hiệntinh thần Bồ-tát nhập thế, còn bổn phận của người Tại Gia là ở bên ngoài hộ trì Phật giáo.
Theo lời dạy của Đức Phật, sắc sanh như là các hạt nhỏ. Các hạt nhỏ này có thể nhỏ hơn các nguyên tử. Khi quý vị thực hànhthiền tứ đại một cách có hệ thống...
Đức Phật là vị thầy, người hướng dẫn và chỉ đạotâm linh của chúng ta. Do thế, những hành vithân thể, lời nói và tư tưởng phải phù hợp với lời dạy của ngài.
Tất cả các đệ tử đã đến đây, bởi đang tìm kiếmsự giải thoát và hạnh phúcvô songtối thượng của sự toàn giác. Mọi người tập họp ở đây vì chúng sinh, vì Giáo Pháp...
Vâng, để Giác Ngộ, chỉ cần xoáy vào một chữ tâm đó thôi. Chỉ cần an trụ, chỉ cần hàng phục được cái tâm đó là xong! Nghĩa là trở thành một bậc Giác ngộ, ngang hàng với Phật...
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.