Nói đến Bát-nhã (Trí huệ), các luận thường phân làm ba: Bát-nhã văn tự, Bát-nhã quán chiếu, và Bát-nhã thật tướng. Bát-nhã văn tự là sự nghiên cứu ở cấp độ ý thức những bản văn của hệ thống Kinh Bát-nhã. Sự nghiên cứu này chưa đủ để đi vào Bát-nhã, phải thực hành Bát-nhã. Bát-nhã quán chiếu là sự thực hành Bát-nhã để đạt đếnthật tướng của Bát-nhã, tức là tánh Không.
Chân lý, hay thực tại, đối với người Hy Lạp cổ là aletheia, lột bỏ sự che đậy, vén màn. Nhưng chân lý hay thực tại thì không tự che đậy, không phủ màn. Sơ tổVô Ngôn Thông đã nói về chân lý hay thực tại: “Không từng che dấu”, và “Khắp tất cả chỗ”. Thế thì sự che đậy, phủ màn này là do chúng ta. Chính chúng ta tự bịt mắt mình bằng những lớp màn chấp ngãchấp pháp để cái thấy về thực tại bị khúc xạ, méo mó, phân mảnh.
Sự quán chiếu của Bát-nhã là để lột bỏ những tấm màn ấy, đang ngăn che chúng ta với thực tại của mọi sự vật là tánh Không, bởi vì sự vật thì từ vô thủy đến vô chung vẫn chính là tánh Không: “Sắc tức thị Không, Không tức thị sắc”. Sự vật vẫn bình thường là tánh Không như vậy. Nhưng chính sự bất bình thường của tâm, chính những bệnh tật trong tâm của chúng ta khiến cho chúng ta thấy sắc chẳng phải là Không, Không chẳng phải là sắc. Vậy thì Bát-nhã quán chiếu là chỉnh sửa lại cái thấy cho đúng, thấy không điên đảo méo mó. Cái thấy đúng (chánh kiến) này giải thoát chúng ta khỏi những bất bình thường, những bệnh tật thấy biết sai lầm của chúng ta, cũng những thứ này nuôi dưỡng cho thế giới khổ đau sanh tử của chúng ta.
Dùng thuật ngữhiện đại thì Bát-nhã quán chiếu là giải cấu trúc, giải kiến lập (déconstruire) hệ thống những mê lầmvô minh của chúng ta.
Tác phẩmTrung Đạo luận hay Trung luận của Bồ-tát Long Thọ là một luận giải về tánh Không. Nhưng thật ra, 27 phẩm của cuốn luận là 27 pháp quán để thấy ra tánh Không: quán nhân duyên, quán sự đến đi, quán sáu giác quan, quán năm ấm, quán sự nhiễm ô và người nhiễm ô, cho đến quán có không, quán Niết-bàn, quán 12 nhân duyên… Những chữ “quán” này ngài Cưu-ma-la-thập phần nhiều dịch thành chữ “phá”: phá nhân duyên, phá sự đến đi, phá sáu giác quan… Quán các tướng là để phá các tướng do vọng chấpphân biệt tạo thành. Khi các giả tướng tiêu trừ đến đâu thì thật tướngtánh Khônghiện ra đến đó.
Kinh Đại Bát-nhã có rất nhiều pháp quán chiếu, đủ mọi góc cạnh, đủ mọi phương diện, đủ mọi đối tượng, cho đủ mọi khuynh hướng cá nhân. Ở đây chúng tachỉ trích ra vài pháp quán trong phẩm Vô Sanh thứ 26, để thấy con đường Văn, Tư, Tu của Bát-nhã, để nghiên cứu, tư duy và thực hành Bát-nhã hầu thể nhậptánh Không.
Tánh Không này là Nền tảng của mọi bậc thánh Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát và Phật. Tánh Không là Nền tảng của mọi tông pháiPhật giáo. Phẩm Vô Sanh nói:
“Bát-nhã ba-la-mật hay sanh và dung chứa tất cả pháp lành của Thanh văn, Độc giác Phật, Bồ-tát và Phật”.
Phẩm Vô Sanh bắt đầu từ những câu hỏi căn bản của ngài Xá-lợi-phất hỏi ngài Tu-bồ-đề trước sự hiện diện của Đức Phật:
“Đại Bồ-tát thực hànhBát-nhã ba-la-mật quán các pháp. Những gì là Bồ-tát? Những gì là Bát-nhã ba-la-mật? Những gì là quán?
Ngài Tu-bồ-đề nói: Vì Vô thượng chánh đẳng chánh giác mà phát đại tâm, người này gọi là Bồ-tát. Người này cũng biết tất cả tướng tất cả pháp mà chẳng bám nắm, biết tướng của sắc cho đến biết tướng của các pháp bất cọng nhưng cũng chẳng bám nắm”.
Phát Bồ-đề tâm, muốn đạt đếntánh Không để cứu độchúng sanh là con đường Bồ-tát. Bồ-đề tâm gồm đủ cả giới và hạnh của Bồ-tát, gồm cả bi và trí. Tất cả giới hạnh ấy phải được tiến hành trong sự không bám nắm, nghĩa là trong sự tương ưng với tánh Không. Bồ-đề tâmtương đối do có phát nguyện, có thực hành này dần dầnthể nhập vào Bồ-đề tâmtuyệt đối, tức là tánh Không.
“Ngài Xá-lợi-phất hỏi: Những gì là tất cả tướng, tất cả pháp?
Ngài Tu-bồ-đề nói: Nếu dùng danh tự và các nhân duyênhòa hợp để biết các pháp, đây là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, đây là pháp hữu vi, đây là pháp vô vi. Dùng danh tựngôn ngữ để biết các pháp thì gọi là biết tướng của pháp.
Như lời ngài Xá-lợi-phất hỏi những gì là Bát-nhã ba-la-mật? Vì viễn ly nên gọi là Bát-nhã ba-la-mật. Những gì là viễn ly? Viễn ly ấm, giới, nhập. Viễn ly ba-la-mật. Viễn ly Không. Do đây nên viễn ly gọi là Bát-nhã ba-la-mật”.
Các pháp là do danh tự và những nhân duyênhòa hợp mà có. Không có danh thì không có sự gọi tên phân biệt sự vật này với sự vật khác. Không có những nhân duyênhòa hợp thì cũng không có tướng của sự vật. Tướng do những nhân duyên sanh và những nhân duyên diệt nên tướng không có tự thể, tướng không có tự tánh. Quán thấy các pháp chỉ là danh tướng, duyên sanh nên vô tự tánh, như vậy là quán tánh Không của tất cả các pháp. Bát-nhã quán chiếu hay Trí huệ quán chiếu là nhìn thấy thật tướng của tất cả các pháp, thật tướng đó là tánh Không. Như vậy tánh Không là sự giải thoát cho tất cả mọi tướng, nghĩa là giải thoát cho sanh tử.
Bắt đầu thấy tánh Không là bắt đầu viễn ly (xa lìa). Các tướng tiêu dung đến đâu, tánh Khônghiện ra đến đâu thì viễn ly rộng ra đến đó. Viễn ly này là tự động vì tướng không có thật thì bám nắm cái gì? Mọi pháp có đó, nhưng không cứng đặc, không cốt lõi, không hình tướng, không có thật, như cầu vồng, như dợn nắng mà tưởng là nước, như mắt nhặm thấy tóc rủ hay con ruồi trước mặt, như thấy hoa đốm giữa không trung…
Sự viễn ly này không chỉ áp dụng cho đối tượng cần viễn ly, mà cho cả chủ thể đang sử dụng những phương tiện để viễn ly: “Viễn ly ba-la-mật. Viễn ly Không. Lại viễn lybốn niệm xứ đến viễn lymười tám pháp bất cọng, viễn lyNhất thiết trí. Do đây nên viễn ly gọi là Bát-nhã ba-la-mật”.
“Những gì là Quán? Lúc thực hànhBát-nhã ba-la-mật, đại Bồ-tát quán sắc chẳng phải thường chẳng phải vô thường, chẳng phải vui chẳng phải khổ, chẳng phải ngã chẳng phải vô ngã, chẳng phải không chẳng phải chẳng không, chẳng phải tướng chẳng phải vô tướng, chẳng phải tác chẳng phải vô tác, chẳng phải tịch diệt chẳng phải chẳng tịch diệt, chẳng phải ly chẳng phải chẳng ly. Thọ tưởng hành thức, các ba-la-mật… cho đếnNhất thiết chủng trí cũng như vậy. Đây gọi là đại Bồ-tát quán các pháp khi thực hành Bát-nhã ba-la-mật”.
Quán là phá các tướng do bám nắm phân biệt mà có. Quán là phá các giả tướng để đưa chúng trở vềthật tướng của chúng là tánh Không. Các tướng không còn che đậy thì thực tạitánh Không và cũng là thực tạitối hậuhiện ra: “Thấy các tướng chẳng phải tướng tức thấy Như Lai” (Kinh Kim Cương).
“Ngài Xá-lợi-phất hỏi: Do nhân duyên gì mà sắc chẳng sanh là chẳng phải sắc, cho đếnNhất thiết chủng trí chẳng sanh là chẳng phải Nhất thiết chủng trí?
Ngài Tu-bồ-đề nói: Sắc và sắc tướng rỗng không. Trong sắc rỗng không ấy không có sắc cũng không có sanh, cho đếnNhất thiết chủng trí cũng như vậy. Do đây nên sắc chẳng sanh là chẳng phải sắc, cho đếnNhất thiết chủng trí chẳng sanh là chẳng phải Nhất thiết chủng trí”.
Sắc thọ tưởng hành thứccho đếnNhất thiết chủng trí là rỗng không; rỗng không nên không có chỗ sanh ra. Sắc cho đếnNhất thiết chủng trí đã chẳng sanh nên chúng không phải là sắc cho đếnNhất thiết chủng trí. Chẳng sanh thì không có gì để gọi là sắc cho đếnNhất thiết chủng trí.
Chữ “chẳng phải” ở đây đồng nghĩa với chữ “chẳng phải” trong câu kinh Kim Cương đã trích dẫn ở trên.
Quán sắc chẳng sanh, mà vốn đã chẳng sanh nên chẳng phải sắc, đó là quán chiếu của Bát-nhã ba-la-mật.
“Ngài Xá-lợi-phất hỏi: Do nhân duyên gì mà nói rằng sắc chẳng hai là chẳng phải sắc, cho đếnNhất thiết chủng trí chẳng hai là chẳng phải Nhất thiết chủng trí?
Ngài Tu-bồ-đề nói: Có sắc là có chẳng hai, cho đến có Nhất thiết chủng trí là có chẳng hai. Tất cả những pháp này chẳng hợp chẳng tan, không sắc, không hình, không đối, một tướng, tức là không có tướng. Do đây nên sắc chẳng hai là chẳng phải sắc, cho đếnNhất thiết chủng trí chẳng hai là chẳng phải Nhất thiết chủng trí”.
Sắc là chẳng hai, là vô tướng. Đã chẳng hai, vô tướng thì đó chẳng phải là sắc.
“Ngài Tu-bồ-đề nói: Sắc chẳng khác vô sanh, vô sanh chẳng khác sắc. Sắc tức là vô sanh, vô sanh tức là sắc. Do đây nên sắc ở trong không có hai. Cho đếnNhất thiết chủng trí cũng như vậy”.
Sắc là vô sanhcho đến tất cả các pháp là vô sanh. Đây là cái thấy giải thoát của Bát-nhã.
“Bấy giờ ngài Tu-bồ-đề bạch với Đức Phật: Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ-tát thực hànhBát-nhã ba-la-mật mà quán các pháp nhưvậy thì thấy sắc là vô sanh, vì rốt ráothanh tịnh vậy. Thấy thọ tưởng hành thứcvô sanh, vì rốt ráothanh tịnh vậy. Cho đến thấy Phật và Phật phápvô sanh vì rốt ráothanh tịnh vậy”.
Vì tất cả các pháp là vô sanh cho nên tất cả đều rốt ráothanh tịnh, nghĩa là chưa từng bị nhiễm ô bởi sanh tử. Tại sao chưa từng bị nhiễm ô bởi sanh tử? Bởi vì trong Bát-nhã quán chiếu thì sanh tử là vô sanh, chưa từng sanh ra nên chẳng có sự nhiễm ô và cái gì bị nhiễm ô cả.
“Ngài Tu-bồ-đề nói với ngài Xá-lợi-phất: Tôi chẳng nghĩ pháp vô sanh có sở đắc. Tôi cũng chẳng nghĩ trong pháp vô sanh có được quả Tu-đà-hoàn, cho đến có được quả Độc giác Phật. Tôi cũng chẳng cho rằng trong pháp vô sanh có Bồ-tát làm việc khó làm là chịu khổ cho chúng sanh, Bồ-tát cũng chẳng dùng tâm khó làm để hành đạo. Tại sao vậy? Vì nếu sanh tâm khó tâm khổ thì chẳng có thể lợi ích cho vô lượngvô số chúng sanh.
Này ngài Xá-lợi-phất! Ở đây Bồ-tát thương xótchúng sanh. Với chúng sanh, Bồ-tát tưởng như cha mẹ anh em con cháu, cũng tưởng như thân mình. Thế nên Bồ-tát có thể lợi íchvô lượngvô số chúng sanh, vì chỗ dụng vô sở đắc vậy.
Bồ-tát nên sanh tâm như thế này: Như ngã là bất khả đắc, nơi tất cả chỗ, tất cả nội phápngoại pháp cũng đều bất khả đắc. Nếu sanh tâm như thế thì Bồ-tát không có tâm khó tâm khổ. Vì sao thế? Vì Bồ-tát này nơi tất cả chỗ, tất cả pháp đều chẳng lãnh thọ”.
Vì tất cả đều ở trong thật tướngvô sanh nên sự chứng đắc của các bậc thánh và sự khổ đau của chúng sanh đều vô sở đắc. Tánh Không có thể hòa giải và hợp nhất hai điều đối nghịch: Sự tự giải thoát cho mình (Trí huệ) và làm việc cho sự giải thoát của người khác (Đại bi).
“Ngài Tu-bồ-đề nói: Đúng như vậy. Theo danh tựthế gian nên có trí, có đắc. Sáu loài sai khác cũng do danh tựthế gian mà có, chẳng phải đệ nhất nghĩa đế.
Vì sao thế? Vì trong Đệ nhất nghĩa đế (tánh Không) không có nghiệp, không có báo, không có sanh không có diệt, không có tịnh không có cấu”.
Nghiệp và nghiệp báo có ra là do tâm phân biệtdựa trêndanh tướnghư vọng, từ ý nghiệp này sanh ra khẩu nghiệp và thân nghiệp. Khi tâm và danh tướng đều Không, tâm và cảnh đều Không, thì nghiệp và báo cũng không còn chỗ để mọc mầm, thành cây, ra quả. Ba nghiệpchấm dứt thì sanh tửchấm dứt vậy.
“Ngài Xá-lợi-phất hỏi tiếp: Pháp chẳng sanh sanh chăng? Pháp sanh sanh chăng?
Ngài Tu-bồ-đề nói: Tôi chẳng cho rằng pháp chẳng sanh có sanh, cũng chẳng cho rằng pháp sanh có sanh.
Ngài Xá-lợi-phất hỏi: Pháp chẳng sanh nào không cho là có sanh?
Ngài Tu-bồ-đề nói: Sắc là pháp chẳng sanh, tự tánh nó rỗng không chẳng cho là có sanh. Cho đếnVô thượng Bồ-đề là pháp chẳng sanh, tự tánh nó rỗng không chẳng cho là có sanh”.
‘Cái chẳng sanh cũng chẳng sanh’, đây là một trong những Văn tự Bát-nhã rốt ráo, Quán chiếu Bát-nhã rốt ráo và Thật tướng Bát-nhã rốt ráo.
Kinh tiếp tục những đoạn về Bát-nhã quán chiếu:
“Ngài Xá-lợi-phất hỏi: Thế nào là các pháp không có chỗ y tựa?
Ngài Tu-bồ-đề nói: Tánh sắc thường Không, chẳng y tựa trong, chẳng y tựa ngoài, chẳng y tựa trung gian. Cho đến tánh Nhất thiết trí thường Không, chẳng y tựa trong, chẳng y tựa ngoài, chẳng y tựa trung gian. Do đây nên tất cả pháp không chỗ y tựa, vì tánh thường Không vậy”.
Với sự quán sát liên tục và tinh tế các pháp thường Không, không có chỗ y tựa, danh tướng của chúng mờ nhạt dần nhường cho tánh Khônghiển lộ. Khi những tấm màn che của phiền não chướng và sở tri chướng đã bị loại bỏ một phần nào, người ta thấy trực tiếp tánh Không, tức là Đệ nhất nghĩa đế. Thấy trực tiếp, dù còn chưa thật rõ, nghĩa là từ đây người ta không bao giờ mất Nó nữa, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, thời gian nào, không gian nào. Dùng chữ của kinh Pháp Hoa, đây gọi là Ngộ. Dùng chữ của Thiền tông gọi là thấy Tánh. Rồi tiếp tục đi sâu vào và sống trong tánh Không, thấm nhuần một cách trọn vẹn, đây là Nhập. Đến lúc chỉ còn là sự thanh tịnhtuyệt đối, vì không còn manh mún nào của phiền não và danh tướng của sanh tử.
Chúng ta trích một đoạn về Bố thí ba-la-mật:
“Này ngài Xá-lợi-phất! Thế nào là sự Bố thí ba-la-mật xuất thế gian? Chính là ba phần thanh tịnh vậy. Những gì là ba? Lúc bố thí, đại Bồ-tát chẳng thấy có mình, chẳng thấy có người nhận, chẳng thấy có vật bố thí, cũng chẳng trông mong báo đáp. Đây gọi là đại Bồ-tát bố thí ba-la-mật ba phần thanh tịnh.
Lại lúc bố thí, đại Bồ-tát bố thí cho chúng sanh mà không thấy có chúng sanh, đem sự bố thí này hồi hướngvô thượng bồ-đề, thậm chí không thấy có tướng pháp vi tế nào”.
Bố thí mà an trụ trong tánh Không thì càng bố thí người ta càng thâm nhậptánh Không. Bố thí là việc làmphước đức. Không thấy có ba phần nên ba phần thanh tịnh là trí huệ quán chiếu tánh Không. Cả hai, phước đức và trí huệ, được hợp nhất trong cùng một quá trình. Nói cách khác, đây là sự hợp nhất của Phương tiện và Trí huệ.
Phần cuối của phẩm Vô Sanh, chữ “niệm đại bi” được nhắc tới ba lần.
“Người thực hành Bồ-tát đạo vì cứu tất cả chúng sanh nên tâm chẳng rời bỏ tất cả chúng sanh, bởi vì chúng sanhvô sở đắc vậy.
Bồ-tát phải thường chẳng rời niệm này: chính là đại bi niệm”.
Chỉ có trong Bát-nhã ba-la-mật mới hợp nhất được hai thực tại, mà với thế gian là mâu thuẫnvới nhau, thành một. Đó là tánh Khôngvô sở đắc và đại bi chẳng rời bỏ chúng sanh.
“Ngài Tu-bồ-đề nói: Vì chúng sanh không có nên niệm cũng không. Vì chúng sanhtánh Không nên tánh niệm cũng Không. Vì pháp chúngsanh không có nên pháp niệm cũng không. Vì chúng sanh ly nên niệm cũng ly. Vì chúng sanh rỗng không nên niệm cũng rỗng không.
Này ngài Xá-lợi-phất! Vì sắc không có nên niệm cũng không. Vì tánh sắc không có nên tánh niệm cũng không. Vì pháp sắc không có nên pháp niệm cũng không. Vì sắc ly nên niệm cũng ly. Vì sắc rỗng không nên niệm cũng rỗng không. Cho đếnVô thượng bồ-đề cũng như vậy.
Này ngài Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát thực hành Bồ-tát đạo, tôi mong muốn vị ấy chẳng rời niệm này: chính là đại bi niệm”.
Sự thấu đạt tánh Không là Trí. Sự không bỏ chúng sanh là Bi. Trí và Bi phải có từ bắt đầu con đường, khi phát Bồ-đề tâm. Bồ-đề tâm này là tương đối vì có sanh khởi, tác ýphát nguyện, nhưng cũng gồm đủ sự song hành của sơ trí và sơ bi. Cho đến khi đạt đếnBồ-đề tâmtuyệt đối (tức là tâm của các bậc giác ngộ) thì Trí viên mãn và Bi viên mãn hợp nhất trong Bồ-đề tâmtuyệt đối này.
Chính nhờ tánh Không mà Bi mới trở thành Đại. Nhờ tánh Không mà lòng bi mới mở rộngvô biên thành đại bi. Nhờ tánh khôngvô tự tánh và vô ngại mà có sự hợp nhất trọn vẹn của Trí và Bi. Một bậc giác ngộ thì có đủ ba thân hợp nhất: Pháp thân là Đại Trí, Báo thân và Hóa thân là Đại Bi.
Phẩm này kết thúc bằng đoạn kinh:
“Bấy giờ Đức Phật khen ngợi: Lành thay, lành thay! Đây chính là Bát-nhã ba-la-mật của đại Bồ-tát. Vị nào muốn nói thì phải nói như vậy. Tu-bồ-đề nói về Bát-nhã ba-la-mật đều là tuân thừa ý của Phật. Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật phải học như lời tôn giả Tu-bồ-đề nói.
Lúc ngài Tu-bồ-đề nói phẩm Bát-nhã ba-la-mật, cõi đại thiênchấn động sáu cách.
Bấy giờ Đức Phậtmỉm cười.
Ngài Tu-bồ-đề bạch hỏi nguyên do.
Đức Phật nói: Này Tu-bồ-đề! Như ta nói Bát-nhã ba-la-mật tại quốc độ này, chư Phật ở trong vô sốvô lượngquốc độ trong mười phương cũng nói Bát-nhã ba-la-mật như vậy.
Lúc Đức Phật nói phẩm Bát-nhã ba-la-mật, có mười hai na-do-tha người và trời được Vô sanh pháp nhẫn. Lúc chư Phật mười phương nói Bát-nhã ba-la-mật cũng có vô lượngvô số chúng sanhphát tâmVô thượng Bồ-đề”.
Con đường Bồ-tát, con đường hợp nhất của Trí và Bi, là con đườngthực hànhBát-nhã ba-la-mật. Đây là con đường chung và phổ quát cho mọi thế giới, mọi cõi để đến giải thoát và giác ngộ.
Những gì có mang một tính chất riêng (svalakṣaṇa) đều được gọi là pháp (dharma): “svalakṣaṇadhāraṇād dharmaḥ”[1], tức do duy trì yếu tính của tự thân nên nó được gọi là Pháp.
TA THƯỜNG NGHE NÓI rằng thật khó tìm được một thân người. Không phải là bất kỳ thân người nào mà là một thân người “quý báu” có nối kết với Giáo pháp – đó chính là điều khó đạt được.
Thuật từ Uẩn 蘊, ngữ nguyên Sanskrit là skandha, Pāli là khandha, Hán phiên âm, Tắc-kiện-đà 塞健陀, dịch là tích tụ, loại biệt, tức là năm loại khác nhau về các pháp hữu vi.
“Bạn có nghĩ rằng hôm nay chỉ là một ngày nữa của đời mình chăng? Thật ra hôm nay không phải chỉ là ‘một ngày nữa’ thôi, mà nó là một ngày được riêng dâng tặng cho bạn.
Phật dạy chúng ta hãy đem chánh niệm vào tất cả những việc mình làm trong đời sống hằng ngày. Ngài không bỏ ra ngoài bất cứ một việc làm nhỏ nhặt nào hết...
Những lời khuyênthiết thực, thâm sâu và trong sáng của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma, chỉ cho ta cách tu tập giúp biến cảitâm linh ta, biến ta thành một con người cao cả hơn...
Đức Phật vì lòng từ bi mà thương xótchúng sinh, nên đã chỉ ra nỗi khổ, niềm đau, chỉ dạy phương pháp dứt khổ, để chúng ta cùng được sống trong bình yên, hạnh phúc.
Tăng quan luận (僧官論) là một trong những bộ luận do ngài Thích Ngạn Tông (557-610)1 trước tác, nhằm thuyết minh và lý giải các chức vụ do chư Tăng đảm nhiệm (廣明僧職)
Chưa có tài liệu nào về niên đại của đức Phậtlịch sử, vị sáng lậpđạo Phật, được truyền thừanhất quán trong các tông phái chính của Phật giáo cũng như được các học giả cùng công nhận.
Kinh Hoa Nghiêm, như các kinh điển Đại thừa, lấy tánh Không làm nền tảng. Tánh Không trong kinh này là Pháp thân của Phật bổn nguyên Tỳ-lô-giá-na, và toàn thểvũ trụ là hiện thân của Ngài.
Sau khi Ta diệt độ nhập Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp nào khác
Con đườngBồ tát – con đườnglý tưởngnổi tiếng của Phật giáoĐại thừa – không phải là pháp tu để thành thánh, thành tiên, mà là một lối sống ai cũng có thể ước mongthành tựu được.
Sau kiến đạo, các pháp hữu lậu không thuộc kiến sở đoạn (darśana-prahātavya). Tức các pháp hữu lậu còn lại, trừ kiến chấpô nhiễm khởi lên do tà phân biệt.
Đa số người xưng là Phật tử mà không biết rõ đường lối tu hành, ai bày sao làm vậy, trở thànhmê tínsai lầm, khiến người đời phê bìnhđạo Phật là huyền hoặc, là vô ích.
Tánh "không" (S. 'Suunyataa, P. Su~n~nataa) là một trong các học thuyết quan trọng bậc nhất của Phật giáo và cũng là học thuyết bị người khác đạo hiểu sai lầm nhiều nhất.
Tánh Không là bản tánh của tất cả mọi sự vật, mọi hiện tượng, mọi hành động của thân khẩu ý, nên ở đâu trong không gian nào thời gian nào chúng ta cũng có thể nhận ra nó...
"Vậy nên này Ananda, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình (atta-dipà viharatha), hãy tự mình y tựa chính mình (attàsaranà) chớ y tựa một cái gì khác.
Tổ Quy Sơn dạy: "Nếu mình chưa là bậc thượng lưu, vượt thẳng lên thềm vô thượng giác thì hãy để tâm vào giáo pháp, ôn tầm kinh điển, rút ra nghĩa lýtinh hoa, truyền bátuyên dươngtiếp dẫnhậu lai, trả ơn đức Phật".
Năng Đoạn Kim CươngBát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
Về cơ bản, lý duyên khởigiải thoátmô tảtâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầucho đến lúc cuối.
Pháp Hoa là kinh tối thượng của Phật giáoĐại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duy và suy luận của con ngườibình thường.
Sự hình thành và phát triển tâm lý học Phật giáo là một quá trình vừa diễn dịch vừa xây dựng kéo dài suốt hàng thế kỷ trong lịch sửtruyền thừaPhật giáo kể từ thời Đức Phật.
Giáo lýDuyên khởi (Cái này sinh, nên cái kia sinh, cái này diệt nên cái kia diệt) là nguyên tắc chung giải thích về sự hình thành hay hủy diệt của các pháp.
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
Phật Thích Ca sau 49 năm thuyết pháp cũng bảo những lời ta nói là thuyết lại lời cổ Phật. Khổng Tử thì nhắn nhủ hậu thế: ông chỉ truyền lời Thánh hiền không thêm bớt không sáng tạo...
Ở đời cái gì cũng vậy, không phải ngẫu nhiên có được, mà đòi hỏi mỗi con ngườichúng ta phải tự nỗ lực, tự tầm cầu, tự suy tư để tìm đến con đườnggiải thoát cho tự thân và tha nhân.
Sanh tử sự đại là một đề mục lớn của Thiền Tông, và sanh tử luân hồi là một chủ đềphổ thông của Phật Giáo. Nói đến sanh tử luân hồi thì người Phật tử nào cũng nghĩ đến việc thoát lysanh tử luân hồi.
Đã lâu, đa số thanh niên quan niệmgiải thoát của đạo Phật là siêu hình huyền hoặc đâu đâu, để dành riêng cho những người chán thực tại cầu vào chốn hư vôtịch diệt.
Đồng Mông Chỉ Quán là một trước tác rất hàm xúc và có hệ thống, nếu hành giảcố gắngthực hành theo "Pháp yếu tọa Thiềntu tập Chỉ Quán" này chắc chắn sẽ đạt được kết quả lớn lao.
Mọi chúng sinh dù là người hay là thú , dù giầu hay nghèo, già hay trẻ, không ai là có thể tồn tạilâu dàimãi mãi trong một tình trạng , mọi thứ đều sẽ phải thay đổi và xa rời đi.
Phật Giáo là một tôn giáoxây dựng trên trí thông minh, khoa học và sự hiểu biết. Mục đích của tôn giáo ấy là để giúp loại trừ khổ đau và các nguyên nhân mang lại khổ đau.
Phật pháp là những điều đức Phậtchứng kiến được sau khi giác ngộ, đem chỗ chứng kiến ấy nói lại để cho mọi ngườihiểu biết để dứt sạch mê lầm và giác ngộ
We use cookies to help us understand ease of use and relevance of content. This ensures that we can give you the best experience on our website. If you continue, we'll assume that you are happy to receive cookies for this purpose.