Nói đến Bát-nhã (Trí huệ), các luận thường phân làm ba: Bát-nhã văn tự, Bát-nhã quán chiếu, và Bát-nhã thật tướng. Bát-nhã văn tự là sự nghiên cứu ở cấp độ ý thức những bản văn của hệ thống Kinh Bát-nhã. Sự nghiên cứu này chưa đủ để đi vào Bát-nhã, phải thực hành Bát-nhã. Bát-nhã quán chiếu là sự thực hành Bát-nhã để đạt đếnthật tướng của Bát-nhã, tức là tánh Không.
Chân lý, hay thực tại, đối với người Hy Lạp cổ là aletheia, lột bỏ sự che đậy, vén màn. Nhưng chân lý hay thực tại thì không tự che đậy, không phủ màn. Sơ tổVô Ngôn Thông đã nói về chân lý hay thực tại: “Không từng che dấu”, và “Khắp tất cả chỗ”. Thế thì sự che đậy, phủ màn này là do chúng ta. Chính chúng ta tự bịt mắt mình bằng những lớp màn chấp ngãchấp pháp để cái thấy về thực tại bị khúc xạ, méo mó, phân mảnh.
Sự quán chiếu của Bát-nhã là để lột bỏ những tấm màn ấy, đang ngăn che chúng ta với thực tại của mọi sự vật là tánh Không, bởi vì sự vật thì từ vô thủy đến vô chung vẫn chính là tánh Không: “Sắc tức thị Không, Không tức thị sắc”. Sự vật vẫn bình thường là tánh Không như vậy. Nhưng chính sự bất bình thường của tâm, chính những bệnh tật trong tâm của chúng ta khiến cho chúng ta thấy sắc chẳng phải là Không, Không chẳng phải là sắc. Vậy thì Bát-nhã quán chiếu là chỉnh sửa lại cái thấy cho đúng, thấy không điên đảo méo mó. Cái thấy đúng (chánh kiến) này giải thoát chúng ta khỏi những bất bình thường, những bệnh tật thấy biết sai lầm của chúng ta, cũng những thứ này nuôi dưỡng cho thế giới khổ đau sanh tử của chúng ta.
Dùng thuật ngữhiện đại thì Bát-nhã quán chiếu là giải cấu trúc, giải kiến lập (déconstruire) hệ thống những mê lầmvô minh của chúng ta.
Tác phẩmTrung Đạo luận hay Trung luận của Bồ-tát Long Thọ là một luận giải về tánh Không. Nhưng thật ra, 27 phẩm của cuốn luận là 27 pháp quán để thấy ra tánh Không: quán nhân duyên, quán sự đến đi, quán sáu giác quan, quán năm ấm, quán sự nhiễm ô và người nhiễm ô, cho đến quán có không, quán Niết-bàn, quán 12 nhân duyên… Những chữ “quán” này ngài Cưu-ma-la-thập phần nhiều dịch thành chữ “phá”: phá nhân duyên, phá sự đến đi, phá sáu giác quan… Quán các tướng là để phá các tướng do vọng chấpphân biệt tạo thành. Khi các giả tướng tiêu trừ đến đâu thì thật tướngtánh Khônghiện ra đến đó.
Kinh Đại Bát-nhã có rất nhiều pháp quán chiếu, đủ mọi góc cạnh, đủ mọi phương diện, đủ mọi đối tượng, cho đủ mọi khuynh hướng cá nhân. Ở đây chúng tachỉ trích ra vài pháp quán trong phẩm Vô Sanh thứ 26, để thấy con đường Văn, Tư, Tu của Bát-nhã, để nghiên cứu, tư duy và thực hành Bát-nhã hầu thể nhậptánh Không.
Tánh Không này là Nền tảng của mọi bậc thánh Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát và Phật. Tánh Không là Nền tảng của mọi tông pháiPhật giáo. Phẩm Vô Sanh nói:
“Bát-nhã ba-la-mật hay sanh và dung chứa tất cả pháp lành của Thanh văn, Độc giác Phật, Bồ-tát và Phật”.
Phẩm Vô Sanh bắt đầu từ những câu hỏi căn bản của ngài Xá-lợi-phất hỏi ngài Tu-bồ-đề trước sự hiện diện của Đức Phật:
“Đại Bồ-tát thực hànhBát-nhã ba-la-mật quán các pháp. Những gì là Bồ-tát? Những gì là Bát-nhã ba-la-mật? Những gì là quán?
Ngài Tu-bồ-đề nói: Vì Vô thượng chánh đẳng chánh giác mà phát đại tâm, người này gọi là Bồ-tát. Người này cũng biết tất cả tướng tất cả pháp mà chẳng bám nắm, biết tướng của sắc cho đến biết tướng của các pháp bất cọng nhưng cũng chẳng bám nắm”.
Phát Bồ-đề tâm, muốn đạt đếntánh Không để cứu độchúng sanh là con đường Bồ-tát. Bồ-đề tâm gồm đủ cả giới và hạnh của Bồ-tát, gồm cả bi và trí. Tất cả giới hạnh ấy phải được tiến hành trong sự không bám nắm, nghĩa là trong sự tương ưng với tánh Không. Bồ-đề tâmtương đối do có phát nguyện, có thực hành này dần dầnthể nhập vào Bồ-đề tâmtuyệt đối, tức là tánh Không.
“Ngài Xá-lợi-phất hỏi: Những gì là tất cả tướng, tất cả pháp?
Ngài Tu-bồ-đề nói: Nếu dùng danh tự và các nhân duyênhòa hợp để biết các pháp, đây là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, đây là pháp hữu vi, đây là pháp vô vi. Dùng danh tựngôn ngữ để biết các pháp thì gọi là biết tướng của pháp.
Như lời ngài Xá-lợi-phất hỏi những gì là Bát-nhã ba-la-mật? Vì viễn ly nên gọi là Bát-nhã ba-la-mật. Những gì là viễn ly? Viễn ly ấm, giới, nhập. Viễn ly ba-la-mật. Viễn ly Không. Do đây nên viễn ly gọi là Bát-nhã ba-la-mật”.
Các pháp là do danh tự và những nhân duyênhòa hợp mà có. Không có danh thì không có sự gọi tên phân biệt sự vật này với sự vật khác. Không có những nhân duyênhòa hợp thì cũng không có tướng của sự vật. Tướng do những nhân duyên sanh và những nhân duyên diệt nên tướng không có tự thể, tướng không có tự tánh. Quán thấy các pháp chỉ là danh tướng, duyên sanh nên vô tự tánh, như vậy là quán tánh Không của tất cả các pháp. Bát-nhã quán chiếu hay Trí huệ quán chiếu là nhìn thấy thật tướng của tất cả các pháp, thật tướng đó là tánh Không. Như vậy tánh Không là sự giải thoát cho tất cả mọi tướng, nghĩa là giải thoát cho sanh tử.
Bắt đầu thấy tánh Không là bắt đầu viễn ly (xa lìa). Các tướng tiêu dung đến đâu, tánh Khônghiện ra đến đâu thì viễn ly rộng ra đến đó. Viễn ly này là tự động vì tướng không có thật thì bám nắm cái gì? Mọi pháp có đó, nhưng không cứng đặc, không cốt lõi, không hình tướng, không có thật, như cầu vồng, như dợn nắng mà tưởng là nước, như mắt nhặm thấy tóc rủ hay con ruồi trước mặt, như thấy hoa đốm giữa không trung…
Sự viễn ly này không chỉ áp dụng cho đối tượng cần viễn ly, mà cho cả chủ thể đang sử dụng những phương tiện để viễn ly: “Viễn ly ba-la-mật. Viễn ly Không. Lại viễn lybốn niệm xứ đến viễn lymười tám pháp bất cọng, viễn lyNhất thiết trí. Do đây nên viễn ly gọi là Bát-nhã ba-la-mật”.
“Những gì là Quán? Lúc thực hànhBát-nhã ba-la-mật, đại Bồ-tát quán sắc chẳng phải thường chẳng phải vô thường, chẳng phải vui chẳng phải khổ, chẳng phải ngã chẳng phải vô ngã, chẳng phải không chẳng phải chẳng không, chẳng phải tướng chẳng phải vô tướng, chẳng phải tác chẳng phải vô tác, chẳng phải tịch diệt chẳng phải chẳng tịch diệt, chẳng phải ly chẳng phải chẳng ly. Thọ tưởng hành thức, các ba-la-mật… cho đếnNhất thiết chủng trí cũng như vậy. Đây gọi là đại Bồ-tát quán các pháp khi thực hành Bát-nhã ba-la-mật”.
Quán là phá các tướng do bám nắm phân biệt mà có. Quán là phá các giả tướng để đưa chúng trở vềthật tướng của chúng là tánh Không. Các tướng không còn che đậy thì thực tạitánh Không và cũng là thực tạitối hậuhiện ra: “Thấy các tướng chẳng phải tướng tức thấy Như Lai” (Kinh Kim Cương).
“Ngài Xá-lợi-phất hỏi: Do nhân duyên gì mà sắc chẳng sanh là chẳng phải sắc, cho đếnNhất thiết chủng trí chẳng sanh là chẳng phải Nhất thiết chủng trí?
Ngài Tu-bồ-đề nói: Sắc và sắc tướng rỗng không. Trong sắc rỗng không ấy không có sắc cũng không có sanh, cho đếnNhất thiết chủng trí cũng như vậy. Do đây nên sắc chẳng sanh là chẳng phải sắc, cho đếnNhất thiết chủng trí chẳng sanh là chẳng phải Nhất thiết chủng trí”.
Sắc thọ tưởng hành thứccho đếnNhất thiết chủng trí là rỗng không; rỗng không nên không có chỗ sanh ra. Sắc cho đếnNhất thiết chủng trí đã chẳng sanh nên chúng không phải là sắc cho đếnNhất thiết chủng trí. Chẳng sanh thì không có gì để gọi là sắc cho đếnNhất thiết chủng trí.
Chữ “chẳng phải” ở đây đồng nghĩa với chữ “chẳng phải” trong câu kinh Kim Cương đã trích dẫn ở trên.
Quán sắc chẳng sanh, mà vốn đã chẳng sanh nên chẳng phải sắc, đó là quán chiếu của Bát-nhã ba-la-mật.
“Ngài Xá-lợi-phất hỏi: Do nhân duyên gì mà nói rằng sắc chẳng hai là chẳng phải sắc, cho đếnNhất thiết chủng trí chẳng hai là chẳng phải Nhất thiết chủng trí?
Ngài Tu-bồ-đề nói: Có sắc là có chẳng hai, cho đến có Nhất thiết chủng trí là có chẳng hai. Tất cả những pháp này chẳng hợp chẳng tan, không sắc, không hình, không đối, một tướng, tức là không có tướng. Do đây nên sắc chẳng hai là chẳng phải sắc, cho đếnNhất thiết chủng trí chẳng hai là chẳng phải Nhất thiết chủng trí”.
Sắc là chẳng hai, là vô tướng. Đã chẳng hai, vô tướng thì đó chẳng phải là sắc.
“Ngài Tu-bồ-đề nói: Sắc chẳng khác vô sanh, vô sanh chẳng khác sắc. Sắc tức là vô sanh, vô sanh tức là sắc. Do đây nên sắc ở trong không có hai. Cho đếnNhất thiết chủng trí cũng như vậy”.
Sắc là vô sanhcho đến tất cả các pháp là vô sanh. Đây là cái thấy giải thoát của Bát-nhã.
“Bấy giờ ngài Tu-bồ-đề bạch với Đức Phật: Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ-tát thực hànhBát-nhã ba-la-mật mà quán các pháp nhưvậy thì thấy sắc là vô sanh, vì rốt ráothanh tịnh vậy. Thấy thọ tưởng hành thứcvô sanh, vì rốt ráothanh tịnh vậy. Cho đến thấy Phật và Phật phápvô sanh vì rốt ráothanh tịnh vậy”.
Vì tất cả các pháp là vô sanh cho nên tất cả đều rốt ráothanh tịnh, nghĩa là chưa từng bị nhiễm ô bởi sanh tử. Tại sao chưa từng bị nhiễm ô bởi sanh tử? Bởi vì trong Bát-nhã quán chiếu thì sanh tử là vô sanh, chưa từng sanh ra nên chẳng có sự nhiễm ô và cái gì bị nhiễm ô cả.
“Ngài Tu-bồ-đề nói với ngài Xá-lợi-phất: Tôi chẳng nghĩ pháp vô sanh có sở đắc. Tôi cũng chẳng nghĩ trong pháp vô sanh có được quả Tu-đà-hoàn, cho đến có được quả Độc giác Phật. Tôi cũng chẳng cho rằng trong pháp vô sanh có Bồ-tát làm việc khó làm là chịu khổ cho chúng sanh, Bồ-tát cũng chẳng dùng tâm khó làm để hành đạo. Tại sao vậy? Vì nếu sanh tâm khó tâm khổ thì chẳng có thể lợi ích cho vô lượngvô số chúng sanh.
Này ngài Xá-lợi-phất! Ở đây Bồ-tát thương xótchúng sanh. Với chúng sanh, Bồ-tát tưởng như cha mẹ anh em con cháu, cũng tưởng như thân mình. Thế nên Bồ-tát có thể lợi íchvô lượngvô số chúng sanh, vì chỗ dụng vô sở đắc vậy.
Bồ-tát nên sanh tâm như thế này: Như ngã là bất khả đắc, nơi tất cả chỗ, tất cả nội phápngoại pháp cũng đều bất khả đắc. Nếu sanh tâm như thế thì Bồ-tát không có tâm khó tâm khổ. Vì sao thế? Vì Bồ-tát này nơi tất cả chỗ, tất cả pháp đều chẳng lãnh thọ”.
Vì tất cả đều ở trong thật tướngvô sanh nên sự chứng đắc của các bậc thánh và sự khổ đau của chúng sanh đều vô sở đắc. Tánh Không có thể hòa giải và hợp nhất hai điều đối nghịch: Sự tự giải thoát cho mình (Trí huệ) và làm việc cho sự giải thoát của người khác (Đại bi).
“Ngài Tu-bồ-đề nói: Đúng như vậy. Theo danh tựthế gian nên có trí, có đắc. Sáu loài sai khác cũng do danh tựthế gian mà có, chẳng phải đệ nhất nghĩa đế.
Vì sao thế? Vì trong Đệ nhất nghĩa đế (tánh Không) không có nghiệp, không có báo, không có sanh không có diệt, không có tịnh không có cấu”.
Nghiệp và nghiệp báo có ra là do tâm phân biệtdựa trêndanh tướnghư vọng, từ ý nghiệp này sanh ra khẩu nghiệp và thân nghiệp. Khi tâm và danh tướng đều Không, tâm và cảnh đều Không, thì nghiệp và báo cũng không còn chỗ để mọc mầm, thành cây, ra quả. Ba nghiệpchấm dứt thì sanh tửchấm dứt vậy.
“Ngài Xá-lợi-phất hỏi tiếp: Pháp chẳng sanh sanh chăng? Pháp sanh sanh chăng?
Ngài Tu-bồ-đề nói: Tôi chẳng cho rằng pháp chẳng sanh có sanh, cũng chẳng cho rằng pháp sanh có sanh.
Ngài Xá-lợi-phất hỏi: Pháp chẳng sanh nào không cho là có sanh?
Ngài Tu-bồ-đề nói: Sắc là pháp chẳng sanh, tự tánh nó rỗng không chẳng cho là có sanh. Cho đếnVô thượng Bồ-đề là pháp chẳng sanh, tự tánh nó rỗng không chẳng cho là có sanh”.
‘Cái chẳng sanh cũng chẳng sanh’, đây là một trong những Văn tự Bát-nhã rốt ráo, Quán chiếu Bát-nhã rốt ráo và Thật tướng Bát-nhã rốt ráo.
Kinh tiếp tục những đoạn về Bát-nhã quán chiếu:
“Ngài Xá-lợi-phất hỏi: Thế nào là các pháp không có chỗ y tựa?
Ngài Tu-bồ-đề nói: Tánh sắc thường Không, chẳng y tựa trong, chẳng y tựa ngoài, chẳng y tựa trung gian. Cho đến tánh Nhất thiết trí thường Không, chẳng y tựa trong, chẳng y tựa ngoài, chẳng y tựa trung gian. Do đây nên tất cả pháp không chỗ y tựa, vì tánh thường Không vậy”.
Với sự quán sát liên tục và tinh tế các pháp thường Không, không có chỗ y tựa, danh tướng của chúng mờ nhạt dần nhường cho tánh Khônghiển lộ. Khi những tấm màn che của phiền não chướng và sở tri chướng đã bị loại bỏ một phần nào, người ta thấy trực tiếp tánh Không, tức là Đệ nhất nghĩa đế. Thấy trực tiếp, dù còn chưa thật rõ, nghĩa là từ đây người ta không bao giờ mất Nó nữa, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, thời gian nào, không gian nào. Dùng chữ của kinh Pháp Hoa, đây gọi là Ngộ. Dùng chữ của Thiền tông gọi là thấy Tánh. Rồi tiếp tục đi sâu vào và sống trong tánh Không, thấm nhuần một cách trọn vẹn, đây là Nhập. Đến lúc chỉ còn là sự thanh tịnhtuyệt đối, vì không còn manh mún nào của phiền não và danh tướng của sanh tử.
Chúng ta trích một đoạn về Bố thí ba-la-mật:
“Này ngài Xá-lợi-phất! Thế nào là sự Bố thí ba-la-mật xuất thế gian? Chính là ba phần thanh tịnh vậy. Những gì là ba? Lúc bố thí, đại Bồ-tát chẳng thấy có mình, chẳng thấy có người nhận, chẳng thấy có vật bố thí, cũng chẳng trông mong báo đáp. Đây gọi là đại Bồ-tát bố thí ba-la-mật ba phần thanh tịnh.
Lại lúc bố thí, đại Bồ-tát bố thí cho chúng sanh mà không thấy có chúng sanh, đem sự bố thí này hồi hướngvô thượng bồ-đề, thậm chí không thấy có tướng pháp vi tế nào”.
Bố thí mà an trụ trong tánh Không thì càng bố thí người ta càng thâm nhậptánh Không. Bố thí là việc làmphước đức. Không thấy có ba phần nên ba phần thanh tịnh là trí huệ quán chiếu tánh Không. Cả hai, phước đức và trí huệ, được hợp nhất trong cùng một quá trình. Nói cách khác, đây là sự hợp nhất của Phương tiện và Trí huệ.
Phần cuối của phẩm Vô Sanh, chữ “niệm đại bi” được nhắc tới ba lần.
“Người thực hành Bồ-tát đạo vì cứu tất cả chúng sanh nên tâm chẳng rời bỏ tất cả chúng sanh, bởi vì chúng sanhvô sở đắc vậy.
Bồ-tát phải thường chẳng rời niệm này: chính là đại bi niệm”.
Chỉ có trong Bát-nhã ba-la-mật mới hợp nhất được hai thực tại, mà với thế gian là mâu thuẫnvới nhau, thành một. Đó là tánh Khôngvô sở đắc và đại bi chẳng rời bỏ chúng sanh.
“Ngài Tu-bồ-đề nói: Vì chúng sanh không có nên niệm cũng không. Vì chúng sanhtánh Không nên tánh niệm cũng Không. Vì pháp chúngsanh không có nên pháp niệm cũng không. Vì chúng sanh ly nên niệm cũng ly. Vì chúng sanh rỗng không nên niệm cũng rỗng không.
Này ngài Xá-lợi-phất! Vì sắc không có nên niệm cũng không. Vì tánh sắc không có nên tánh niệm cũng không. Vì pháp sắc không có nên pháp niệm cũng không. Vì sắc ly nên niệm cũng ly. Vì sắc rỗng không nên niệm cũng rỗng không. Cho đếnVô thượng bồ-đề cũng như vậy.
Này ngài Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát thực hành Bồ-tát đạo, tôi mong muốn vị ấy chẳng rời niệm này: chính là đại bi niệm”.
Sự thấu đạt tánh Không là Trí. Sự không bỏ chúng sanh là Bi. Trí và Bi phải có từ bắt đầu con đường, khi phát Bồ-đề tâm. Bồ-đề tâm này là tương đối vì có sanh khởi, tác ýphát nguyện, nhưng cũng gồm đủ sự song hành của sơ trí và sơ bi. Cho đến khi đạt đếnBồ-đề tâmtuyệt đối (tức là tâm của các bậc giác ngộ) thì Trí viên mãn và Bi viên mãn hợp nhất trong Bồ-đề tâmtuyệt đối này.
Chính nhờ tánh Không mà Bi mới trở thành Đại. Nhờ tánh Không mà lòng bi mới mở rộngvô biên thành đại bi. Nhờ tánh khôngvô tự tánh và vô ngại mà có sự hợp nhất trọn vẹn của Trí và Bi. Một bậc giác ngộ thì có đủ ba thân hợp nhất: Pháp thân là Đại Trí, Báo thân và Hóa thân là Đại Bi.
Phẩm này kết thúc bằng đoạn kinh:
“Bấy giờ Đức Phật khen ngợi: Lành thay, lành thay! Đây chính là Bát-nhã ba-la-mật của đại Bồ-tát. Vị nào muốn nói thì phải nói như vậy. Tu-bồ-đề nói về Bát-nhã ba-la-mật đều là tuân thừa ý của Phật. Đại Bồ-tát học Bát-nhã ba-la-mật phải học như lời tôn giả Tu-bồ-đề nói.
Lúc ngài Tu-bồ-đề nói phẩm Bát-nhã ba-la-mật, cõi đại thiênchấn động sáu cách.
Bấy giờ Đức Phậtmỉm cười.
Ngài Tu-bồ-đề bạch hỏi nguyên do.
Đức Phật nói: Này Tu-bồ-đề! Như ta nói Bát-nhã ba-la-mật tại quốc độ này, chư Phật ở trong vô sốvô lượngquốc độ trong mười phương cũng nói Bát-nhã ba-la-mật như vậy.
Lúc Đức Phật nói phẩm Bát-nhã ba-la-mật, có mười hai na-do-tha người và trời được Vô sanh pháp nhẫn. Lúc chư Phật mười phương nói Bát-nhã ba-la-mật cũng có vô lượngvô số chúng sanhphát tâmVô thượng Bồ-đề”.
Con đường Bồ-tát, con đường hợp nhất của Trí và Bi, là con đườngthực hànhBát-nhã ba-la-mật. Đây là con đường chung và phổ quát cho mọi thế giới, mọi cõi để đến giải thoát và giác ngộ.
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biếnPhật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
Chữ A tỳ đạt ma luận thường để chỉ các luận thư của các bộ phái, chứ không dùng cho các luận thư Đại thừa. Abhidharma, Trung Hoa dịch âm là A tỳ đàm, A tỳ đạt ma, và dịch nghĩa là Vô tỷ pháp, Thắng pháp, Đối pháp.
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinhTây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sưThái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩaĐại thừaTiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
Luận Phật ThừaTông Yếu là tùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bản và cương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sưThái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái HưPháp sư, thấy tóm tắtdễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơhiện tại... Thái Hư
Theo Viên Trừng – Trạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhã và trước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháptùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũthấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướng ở Lô Sơn, sáng khởiLiên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thànhquy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
Chứng Đạo Ca - Nguyên tác: Huyền Giác; Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn, sáng tác những năm tháng từ 1980 - 1990, lúc Ngài đang bị quản thúc.
Duy Thức Tam Thập Tụng (唯 識 三 十 頌) Tài Liệu Học Tập Lớp Cao Học Triết của Đại HọcVăn Khoa Viện Đại HọcVạn Hạnh, Niên Khóa: 1972-1973... HT Thích Thuyền Ấn
Luận Du Già Sư Địa (Phạn: Yogacàrabhùmi – sàtra), tác giả là Bồ tát Di Lặc (Maitreya) thuyết giảng, Đại sĩVô Trước (Asànga) ghi chép, Hán dịch là Pháp sư Huyền Tráng (602 -664)... Nguyên Hiền
Tập Tổng quan kinh Đại Bát Niết-bàn này được chúng tôibiên soạn như một phần trong công trình dịch thuật và chú giải kinh Đại Bát Niết-bàn... Nguyễn Minh Tiến
Bấy giờ, năm trăm công tử Ly-xa, dẫn đầu bởi Bảo Tích (Ratnākāra), mỗi người mang theo một cây lọng quý, biểu hiệu quyền quý, đến vườn Xoài cúng dường Phật... Tuệ Sỹ
Trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) cả danh và sắc, hai thành phầntâm linh và vật chấtcấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
“Vũ trụ vạn hữubản thể luận” của Định Hy là một kiến giảinhân sinhvũ trụ trên hai phương diệnbản thể và hiện tượng, tuy vậy không rời tính thực dụng của Phật pháptrong đời sống tu tập... Thích Đức Trí
Bản nầy thứ tự kinh văn số 1726 được khắc vào đời nhà Minh Vạn Lịch -Trung Quốc - và đang lưu trữ tại Báo Ân Tạng thuộc chùa Jojoji - Tăng Thượng tự - Tokyo, Nhật Bản... HT Thích Như Điển
Bộ kinh Lăng Nghiêm Tông Thông này được Ngài Thubten Osall Lama, tức Nhẫn Tế thiền sư, Đức Sơ TổTây Tạng Tự, dịch và chú thích thêm từ bản Hán văn sang Việt văn...
Trọng tâmcứu khổ của Ngài Quán Thế Âm nhằm giải thoát sự khổ tâm, khổ tinh thần. Một khi con người đã giải thoát khổ tinh thần thì thân thể sẽ lành mạnh.
Kinh Kim Cương lấy vô tướng làm tông, vô trụ làm thể, diệu hữu làm dụng. Từ khi Bồ-đề Đạt-ma đến từ Tây Trúc truyền trao ý chỉ kinh này khiến người đời ngộ lý đạo, thấy tính.
Sự giải thoáttinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sảntinh thần...
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràngtrong sáng.
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
Thật ra sanh tử là do tâm thứcvô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không không có hoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giảnghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn HọcA Tỳ Ðàm...
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát nahiện tiền) hay pháp chánhtri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợihết sức tán thưởng là có ý nghĩasâu xa của nó.
Vì lòng thương xótchúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tônđặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thân và pháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
We use cookies to help us understand ease of use and relevance of content. This ensures that we can give you the best experience on our website. If you continue, we'll assume that you are happy to receive cookies for this purpose.